Bài 8
Mười Ðiều Răn
1. Mười điều răn là gì? Ðược chép ở đâu?
Mười điều răn là mười điều căn bản của Bản Luật Pháp mà Ðức Chúa Trời ban cho dân Do Thái và loài người để làm tiêu chuẩn cho cuộc sống của họ và được chép ở Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17.
2. Mục đích của Mười Ðiều Răn là gì?
Mục đích của 10 Ðiều Răn là ấn định:
a. Bổn phận của con người đối với Chúa: Ðiều răn 1-4.
b. Bổn phận của các ngươi đối với nhau: Ðiều răn 5:10.
3. Ðại ý của Mười Ðiều Răn là gì?
Yêu Chúa và yêu người liên can như mình.
“Thưa rằng: Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí mà kính mến Chúa là Ðức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân cận như mình” (Lu-ca 10:27).
4. Ðiều răn thứ nhất là gì và có ý nghĩa gì?
Ðiều răn thứ nhất:
“Trước mặt Ta, ngươi chớ có các thần khác.”
Chúa dạy con người phải tin Chúa, yêu Chúa, vâng lời Chúa và thờ phượng một mình Ngài.
“Ngươi phải thờ phượng Chúa là Ðức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi.” (Ma-thi-ơ 4:10b)
5. Ðiều răn thứ hai là gì và có ý nghĩa gì?
Ðiều răn thứ hai:
“Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình … Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó và cũng đừng hầu việc chúng nó”.
Ðiều răn thứ hai dạy chúng ta không được làm bất cứ hình tượng nào, cũng không được thờ phượng các hình tượng đó và không để bất cứ điều gì lên địa vị của Ðức Chúa Trời.
“Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự kính mến Ðức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. ” (1 Giăng 2:15)
“Hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, Là công việc tay người ta làm ra. Hình tượng có miệng mà không nói; Có mắt mà chẳng thấy; Có tai mà không nghe; Có lỗ mũi mà chẳng ngửi; Có tay, nhưng không rờ rẫm; Có chơn, nào biết bước đi; Cuống họng nó chẳng ra tiếng nào. Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Ðều giống như nó. ” (Thi 115:4-8)
“Vậy, bởi chúng ta là dòng dõi Ðức Chúa Trời, thì chớ nên ngờ rằng Chúa giống như vàng, bạc, hay là đá, bởi công nghệ và tài xảo của người ta chạm trổ nên. Vậy thì, Ðức Chúa Trời đã bỏ qua các đời ngu muội đó, mà nay biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều phải ăn năn” (Công 17:29-30).
6. Ðiều răn thứ ba là gì và dạy chúng ta điều gì?
Ðiều răn thứ ba:
“Ngươi chớ lấy danh Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi mà làm chơi.”
Chúa dạy chúng ta không được gọi Danh Ngài vô cớ, không được nhơn danh Ngài mà nói hoặc làm cách không xứng đáng. Nhưng chúng ta phải bày tỏ lòng tôn kính Ðức Chúa Trời trong tư tưởng, thái độ, ngôn ngữ và hành động.
7. Ðiều răn thứ tư thế nào và có ý nghĩa gì?
Ðiều răn thứ tư:
“Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh.”
Chúa dạy dân sự của Ngài phải giữ ngày thứ bảy làm ngày nghỉ. Chữ “Sa-bát” có nghĩa là “nghỉ.”
Trong thời Cựu Ước, dân Do Thái đã tuân giữ thư thế nhưng Hội thánh thời Tân Ước đã giữ ngày thứ nhất trong tuần lễ – ngày Chúa Nhật – làm ngày nghỉ và thờ phượng vì:
a. Chúa Giê-xu sống lại vào ngày thứ nhất.
“Sau ngày Sa-bát, ngày thứ nhứt trong tuần lễ, lúc tưng tưng sáng, có Ma-ri Ma-đơ-len và Ma-ri khác đến thăm mộ … Ngài không ở đây đâu; Ngài sống lại rồi, như lời Ngài đã phán” (Ma-thi-ơ 28:1,6a).
b. Ðức Thánh Linh giáng lâm và thành lập Hội Thánh vào ngày thứ nhất. Lễ Ngũ Tuần nhằm ngày Chúa Nhật.
“Ðến ngày lễ Ngũ Tuần, môn đồ nhóm họp tại một chỗ” (Công vụ 2:1).
“Hết thảy đều được đầy dẫy Ðức Thánh Linh, khởi sự nói các thứ tiếng khác, theo như Ðức Chúa Trời cho mình nói” (Công vụ 2:4).
c. Phao-lô nhóm với Hội thánh vào ngày Chúa Nhật.
“Ngày thứ nhứt trong tuần lễ, chúng ta đang nhóm lại để bẻ bánh; Phao-lô phải đi ngày mai, nên người nói chuyện với các môn đồ, và cứ giảng luôn cho đến nữa đêm” (Công vụ 20:7),
d. Phao-lô yêu cầu Hội thánh quyên trợ tài chánh cho các Thánh Ðồ vào ngày thứ nhất.
“Cứ ngày đầu tuần lễ. mỗi một người trong anh em khá tùy sức mình chắt lót được bao nhiêu thì để dành tại nhà mình, hầu cho khỏi đợi khi tôi đến rồi mới góp” (1 Cô-rinh-tô 16:2).
e. Nhằm ngày của Chúa, Chúa Giê-xu hiện ra với Giăng tại đảo Bát-mô
“Nhằm ngày của Chúa, tôi được Ðức Thánh Linh cảm hóa, nghe đằng sau có tiếng kêu vang, như tiếng loa” (Khải huyền 1:10),
Như thế, Chúa đòi hỏi chúng ta phải dành riêng ngày Chúa Nhật để thờ phượng, học hỏi Lời Chúa và phục vụ Ngài.
8. Ðiều răn thứ năm nói gì và ý nghĩa ra sao?
Ðiều răn thứ năm:
“Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi”
Chúa muốn chúng ta yêu mến, tôn trọng và hết lòng phụng dưởng cha mẹ lúc còn sống. Khi ông bà, cha mẹ qua đời, chúng ta phải lo an táng chu đáo. Sau đó, chúng ta phải sống hòa thuận trong gia đình, dòng họ, láng giềng, làm những điều tốt đẹp cho rạng rỡ dòng họ mình.
9. Tại sao chúng ta không được cúng bái ông bà, cha mẹ?
Cúng bái ông bà cha mẹ là vi phạm điều răn thứ nhất và thứ nhì của Chúa.
10. Ðiều răn thứ sáu là gì và ý nghĩa ra sao?
Ðiều răn thứ sáu:
“Ngươi chớ giết người.”
Chúa muốn chúng ta phải tôn trọng sự sống mà Ngài ban cho chúng ta và kẻ khác. Chúng ta không được có tư tưởng, thái độ, ngôn ngữ và hành động nào gây tổn hại cho chính mình và cho người khác, cả tâm linh lẫn thể xác.
“Các ngươi có nghe lời phán cho người xưa rằng: Ngươi chớ giết ai; và rằng: Hễ ai giết người thì đáng bị tòa án xử đoán. Song ta phán cho các ngươi: Hễ ai giận anh em mình thì đáng bị tòa án xử đoán; ai mắng anh em mình là đồ điên, thì đáng bị lửa địa ngục hình phạt” (Ma-thi-ơ 5:21-22).
“Ai ghét anh em mình, là kẻ giết người; anh em biết rằng chẳng một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình” (1 Giăng 3:15).
11. Ðiều răn thứ bảy nói gì và có sự dạy dỗ gì?
Ðiều răn thứ bảy:
“Ngươi chớ phạm tội tà dâm.”
Tà dâm là:
a. Chưa làm lễ hôn phối mà đã ăn ở với nhau.
b. Ðã có gia đình mà còn tư tình với người khác.
“Mọi người phải kính trọng sự hôn nhân, chốn quê phòng chớ có ô uế, vì Ðức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục cùng kẻ phạm tội ngoại tình” (Hê-bơ-rơ 13:4).
c. Bỏ vợ, bỏ chồng mà không phải do tội ngoại tình để lấy vợ, lấy chồng khác.
“Vả, ta phán cùng các ngươi, nếu ai để vợ mình không phải vì cớ ngoại tình, và cưới vợ khác, thì người ấy phạm tội tà dâm; và hễ ai cưới người bị để, thì phạm tội ngoại tình” (Ma-thi-ơ 19:9).
d. Theo chế độ đa thê.
“Vả, hơi sống của Ðức Chúa Trời dầu có dư dật, chỉ làm nên một người mà thôi. Nhưng vì sao chỉ làm một người? Ấy là vì tìm một dòng dõi thánh. Vậy các ngươi khá cẩn thận trong tâm thần mình; chớ đãi cách phỉnh dối với vợ mình lấy lúc tuổi trẻ” (Ma-la-chi 2:15).
Chúng ta phải sử dụng khả năng của thân thể theo ý muốn của Ngài chớ không được theo ý riêng mình. Không được có tư tưởng tà dâm, vì hành động chỉ là thể hiện những gì đã tích lũy trong lòng đến mức độ không còn kềm chế được.
“Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đờn bà mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi” (Ma-thi-ơ 5:28).
“Ðoạn, lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết” (Gia-cơ 1:15).
12. Ðiều răn thứ tám là gì và có ý nghĩa như thế nào?
Ðiều răn thứ tám:
“Ngươi chớ trộm cướp.”
Chúng ta không được chiếm đoạt bất cứ điều gì không thuộc quyền sở hữu của mình, nhưng phải thành thật và công bằng trong mọi giao tế. Vì ép công giá của người khác, làm việc không hết lòng, cân non, đo thiếu, trốn thuế … cũng là trộm cướp.
“Kìa, tiền công con gặt gặt ruộng anh em, mà anh em đã ăn gian, nó kêu oan, và tiếng kêu của con gặt đã thấu đến tai Chúa các cơ binh. Anh em đã sống trên thế gian ăn uống vui sướng và xa xỉ, anh em đã làm cho lòng mình no nê trong ngày chém giết; anh em đã luận tội và đã giết người công bình, mà người chẳng cự lại” (Gia-cơ 5:4-6).
“Các ngươi chớ phạm sự bất nghĩa trong việc xét đoán, hoặc sự đo, sự cân, hay là sự lường” (Lê-vi Ký 19:35).
13. Ðiều răn thứ chín dạy gì và có ý nghĩa ra sao?
Ðiều răn thứ chín:
“Ngươi chớ nói chứng dối.”
Con cái của Chúa không được nói chứng dối, không được hùa theo phe đông để bóp méo sự thật, hoặc cậy quyền mà vu khống hay yên lặng để gây lầm lẫn kẻ khác.
“Chứng gian sẽ chẳng thoát khỏi bị phạt; Và kẻ buông lời giả dối sẽ bị hư mất” (Châm ngôn 19:9).
14. Ðiều răn thứ mười là gì và ý nghĩa ra sao?
Ðiều răn thứ mười:
“Ngươi chớ tham lam.”
Cơ-đốc nhân không được tham muốn bất cứ điều gì của người khác, không được có tư tưởng ganh tị hay hành động ích kỷ, nhưng phải bằng lòng với những gì Chúa ban cho mình.
“Vả, sự tôn kính cùng sự thỏa lòng ấy là một lợi lớn. Vì chúng ta ra đời chẳng đem gì theo, chúng ta qua đời cũng chẳng đem gì đi được. Như vậy, miễn mà đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng; Còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dổ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt hư mất. Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn” (1 Ti-mô-thê 6:6-10).
15. Vì chúng ta không thể vâng giữ các điều răn cách trọn vẹn, các điều răn nầy có giúp ích gì không?
Vì chúng ta không thể vâng giữ các điều răn cách trọn vẹn, chúng ta nhận biết rõ ràng sự thất bại của chúng ta trước tiêu chuẩn của Ðức Chúa Trời và chúng ta nhờ cậy sự cứu chuộc của Ðấng Christ.
“Vì chẳng có một người nào bởi việc làm theo luật pháp mà sẽ được xưng công bình trước mặt Ngài, vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rô-ma 3:20).
“Cảm tạ Ðức Chúa Trời, nhờ Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta! Như vậy, thì chính mình tôi lấy trí khôn phục luật pháp của Ðức Chúa Trời, nhưng lấy xác thịt phục luật pháp của tội lỗi” (Rô-ma 7:25).
Câu gốc của bài học:
“Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí mà kính mến Chúa là Ðức Chúa Trời ngươi; và yêu người lân cận như mình” (Lu-ca 10:27).