Bài số 2: Chúa Jêsus và Sự Cứu Chuộc
(Sưu tầm)
1. Từ khi sa ngã, loài người có tu tâm dưởng tánh để trở nên tốt như trước không?
Không! Trái lại, mỗi ngày một bại hoại hư xấu hơn.
“Ðức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn” (Sáng Thế Ký 6:5);
2. Vậy, Ðức Chúa Trời đã làm gì cho loài người?
Ngay sau khi loài người sa ngã, Ðức Chúa Trời đã hứa sẽ ban một Ðấng Cứu Thế giày đạp (nguyên ngữ là chà nát) đầu con rắn là ma quỉ và cứu người tin Ngài.
“Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người” (Sáng Thế Ký 3:15).
3. Ðấng Cứu Thế đó là ai?
Là Ngôi Hai trong Ba Ngôi Ðức Chúa Trời và khi hóa thân làm người Ngài mang danh là Chúa Giê-xu Christ: Giê-xu là Chúa Cứu Thế, Christ là Vua.
“Ấy là hôm nay tại thành Ða-vít đã sanh cho các ngươi một Ðấng Cứu thế, là Christ, là Chúa” (Lu-ca 2:11).
4. Ðức Chúa Trời đã ban Ðấng Cứu Thế Giê-xu bằng cách nào?
Theo kế hoạch của Ðức Chúa Trời, Ðấng Cứu Thế đã hóa thân làm người, sanh ra bởi một nữ đồng trinh tại Bết-lê-hem, thuộc Do Thái. Ðó là công trình siêu việt do Ðức Thánh Linh thực hiện. sự giáng sinh của Chúa Giê-xu đã chia đôi dòng lịch sử và mở đầu cho kỷ nguyên hiện nay: Trước Chúa Giáng Sinh và Sau Chúa Giáng Sinh.
“Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt trên là Em-ma-nu-ên” (Ê-sai 7:14).
5. Tại sao Ðấng Cứu Thế phải hóa thân làm người?
Ngài hóa thân làm người để chết thay nhân loại và làm giá chuộc tội cho mọi người.
“Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người.” (Ma-thi-ơ 20:28)
6. Ðấng Cứu Thế mang lấy thân người có giống chúng ta không?
Có những điểm giống nhau và những điểm không giống nhau:
a. Ngài giống chúng ta vì cũng mệt mỏi, đói khát, cảm động, xót thương, vui mừng, đau đớn, buồn bực, khóc và chết.
“Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thương sự yếu đuối chúng ta, bèn có một thầy tế lễ bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội” (Hê-bơ-rơ 4:15).
b. Ngài không giống chúng ta vì Ngài hoàn toàn vô tội, công bình tuyệt đối, yêu thương đời đời và đắc thắng sự chết.
“Ấy đó thật là thầy tế lễ thượng phẩm mà chúng ta có cần dùng, thánh khiết, không tội, được cất lên cao hơn các từng trời” (Hê-bơ-rơ 7:26):
7. Ðấng Cứu Thế Giê-xu đã sống tại trần gian bao lâu và đã làm gì?
Ngài sống tại trần gian 33 năm. Ba năm sau cùng, Ngài giảng dạy khắp các thành phố, làng mạc trong nước Do Thái, kêu gọi mọi người ăn năn, tin nhận Ðấng Cứu Thế. Ngài chữa lành mọi thứ bệnh hoạn, tật nguyền, quỉ ám, kêu kẻ chết sống lại để minh chứng Ngài là Ðấng Cứu Thế. Ngài cũng chọn 12 sứ đồ, huấn luyện họ nên chứng nhân của Ngài.
“Ðức Chúa Jêsus đi khắp các thành, các làng, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng tin lành nước Ðức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật bịnh.” (Ma-thi-ơ 9:35)
8. Ðấng Cứu Thế bị đóng đinh trên thập tự giá có phải là một sự thất bại vì yếu đuối không?
Không! Trái lại là một sự đắc thắng, thành công mỹ mãn:
a. Ðấng Cứu Thế chịu chết là thực hiện kế hoạch của Ðức Chúa Trời để cứu chuộc loài người.
“Nầy sự yêu thương ở tại đây: ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Ðức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta” (1 Giăng 4:10).
b. Chúa Giê-xu đã nhiều lần báo trước rằng Ngài sẽ bị đóng đinh trên thập tự giá và sẽ sống lại.
“Từ đó, Ðức Chúa Jêsus mới tỏ cho môn đồ biết rằng mình phải đi đến thành Giê-ru-sa-lem, phải chịu tại đó nhiều sự khốn khổ bởi những người trưởng lão, thầy tế lễ cả, cùng thầy thông giáo, và phải bị giết, đến ngày thứ ba phải sống lại.” (Ma-thi-ơ 16:21)
c. Chúa Giê-xu đã bảo rằng mục đích Ngài đến trần gian là để chịu chết chuộc tội cho mọi người.
“Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người.” (Ma-thi-ơ 20:28)
d. Trên thập tự giá Ðấng Cứu Thế Giê-xu đã long trọng tuyên bố: “Mọi sự đã trọn.”
“Khi Ðức Chúa Jêsus chịu lấy giấm ấy rồi, bèn phán rằng: Mọi việc đã được trọn; rồi Ngài gục đầu mà trút linh hồn” (Giăng 19:30).
Sự cứu rỗi đã hoàn tất, không còn gì thêm bớt được nữa.
“Còn như Ðấng nầy, đã vì tội lỗi dâng chỉ một của lễ, rồi ngồi đời đời bên hữu Ðức Chúa Trời” (Hê-bơ-rơ 10:12).
e. Kinh Thánh chép rằng: Chúa Giê-xu đã tình nguyện chịu chết là để làm của lễ chuộc tội loài người như chiên con đã được dâng lên trong đền thờ thời Cựu Ước.
“Qua ngày sau, Giăng thấy Ðức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: Kìa, Chiên con của Ðức Chúa Trời, là Ðấng cất tội lỗi thế gian đi” (Giăng 1:29).
Trong vũ trụ không có nơi nào chứng minh một cách mạnh mẽ về quyền năng, khôn ngoan, nhân từ của Ðức Chúa Trời đối với loài người bằng tại thập tự giá.
“Nhưng Ðức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Ðấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Rô-ma 5:8).
9. Ðấng Cứu Thế có sống lại như Ngài đã tiên báo không?
Có!
a. Sau khi Ðấng Cứu Thế tắt hơi, người ta đem thi hài Ngài xuống khỏi thập tự giá, khăm liệm bằng một tấm vải mới, rồi đặt trong một huyệt đá và lăn một hòn đá lớn chận cửa huyệt lại. Nhưng ngày thứ ba, Ðức Chúa Trời sai thiên sứ đến lăn hòn đá đi và Ngài khiến Chúa Giê-xu sống lại cách vinh hiển như Kinh Thánh Cựu Ước đã tiên tri hằng ngàn năm trước.
“Ðức Chúa Jêsus nầy, Ðức Chúa Trời đã khiến sống lại, và chúng ta thảy đều làm chứng về sự đó” (Công vụ 2:32).
b. Ðấng Cứu Thế đã hiện ra với các môn đồ và ở với họ trong 40 ngày.
“Sau khi chịu đau đớn rồi, thì trước mặt các sứ đồ, Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các sứ đồ trong bốn mươi ngày, phán bảo những sự về nước Ðức Chúa Trời” (Công vụ 1:3).
c. Sau đó, trước các môn đồ, Ngài về trời.
“Ngài phán bấy nhiêu lời rồi, thì được cất lên trong lúc các ngươi đó nhìn xem Ngài, có một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không thấy nữa” (Công vụ 1:9).
d. Các môn đồ được biến cải lạ lùng và cứ giảng luôn về sự sống lại của Ðấng Cứu Thế.
“Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã khiến Ðức Chúa Jêsus sống lại, là Ðấng mà các ông đã treo trên cây gỗ và giết đi” (Công vụ 5:30).
e. Ê-tiên, vị thánh tử đạo đầu tiên đã thấy Chúa ở thiên đàng vinh hiển.
“Nhưng người, được đầy dẫy Ðức Thánh Linh, mắt ngó chăm lên trời, thấy sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời, và Ðức Chúa Jêsus đứng bên hữu Ðức Chúa Trời” (Công vụ 7:55);
f. Chúa Phục Sinh đã hiện ra với Sau-lơ trên đường Ða-mách.
“Người thưa rằng: Lạy Chúa, Chúa là ai? Chúa phán rằng: Ta là Jêsus mà ngươi bắt bớ” (Công vụ 9:5);
g. Chúa Phục Sinh đã hiện ra cùng sứ đồ Giăng:
“Vừa thấy người, tôi ngã xuống chơn người như chết; nhưng người đặt tay hữu lên trên tôi, mà rằng: Ðừng sợ chi, ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng” (Khải huyền 1:17),
h. Ngôi mộ trống – Suốt hai mươi thế kỷ, Cơ-đốc Nhân lấy làm hãnh diện về ngôi mộ trống của Cứu Chúa mình.
“Ðoạn, họ vào nơi mộ, thấy một người trẻ tuổi ngồi bên hữu, mặc áo dài trắng, thì thất kinh. Song người nói cùng họ rằng: Ðừng sợ chi, các ngươi tìm Ðức Chúa Jêsus Na-xa-rét, là Ðấng đã chịu đóng đinh; Ngài sống lại rồi, chẳng còn ở đây; hãy xem nơi đã táng xác Ngài” (Mác 16:5-6).
i. Hội thánh đầu tiên bắt đầu thờ phượng Chúa vào ngày đầu tuần lễ (Chúa Nhật), thay vì ngày Sa-bát (thứ bảy), để kỷ niệm Chúa sống lại.
“Ngày thứ nhứt trong tuần lễ, chúng ta đang nhóm lại để bẻ bánh; Phao-lô phải đi ngày mai, nên người nói chuyện với các môn đồ, và cứ giảng luôn cho đến nữa đêm” (Công vụ 20:7),
10. Một người biết mình có tội, muốn được tha thứ để linh hồn được cứu rỗi, thì phải làm chi?
Người đó phải làm 2 điều:
a. Ăn năn
Ăn năn không những là biết mình có tội mà còn đau buồn, xấu hổ, ghê tởm tội, xưng ra, lìa bỏ nó và quay về Ðức Chúa Trời.
“Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi” (Công vụ 3:19),
b. Tin nhận Ðấng Cứu Thế
Tin nhận Chúa Giê-xu là Ðấng Cứu Thế và thờ phượng Ngài trọn đời.
“Ðức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy; trong những kẻ có tội đó ta là đầu.” (1 Ti-mô-thê 1:15)
11. Khi một người đã ăn năn, tin nhận Ðấng Cứu Thế, thì Ðức Chúa Trời sẽ làm gì cho người?
a. Ðức Chúa Trời tha thứ mọi tội lỗi của người, không còn nhớ, không còn thấy, đến nỗi xem như chưa từng phạm tội.
“Ðấng yêu thương chúng ta, đã lấy huyết mình rửa sạch thầy tế lễ của Ðức Chúa Trời và Cha Ngài, đáng được sự vinh tội lỗi chúng tôi, và làm cho chúng ta nên nước Ngài, nên hiển và quyền năng đời đời vô cùng! A-men” (Khải huyền 1:6).
b. Ðức Chúa Trời tái sanh người để người trở nên con cái Ngài. Ðức Chúa Trời làm chết bản chất tội lỗi của người và ban cho người bản chất mới.
“Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, nếu một người chẳng nhờ nước và Thánh Linh mà sanh, thì không được vào nước Ðức Chúa Trời” (Giăng 3:5).
“Vậy, nếu ai ở trong Ðấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới” (2 Cô-rinh-tô 5:17).
c. Ðức Chúa Trời ban Thánh Linh ngự vào lòng để làm cho người nên thánh.
“Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Ðức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Ðấng mà anh em đã nhận bởi Ðức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao” (1 Cô-rinh-tô 6:19)?
12 Tại sao một mình Ðấng Cứu Thế có thể chết thay cho tất cả loài người?
Dầu loài người có đông đúc đến đâu vẫn còn là hữu hạn. Nhưng Ðấng Cứu Thế là vô hạn, vì vậy, sự chết chuộc tội của Ngài có giá trị vô hạn, cứu chuộc được tất cả mọi người, trong mọi thời đại.
13. Ðấng Cứu Thế chịu chết chuộc tội gần 2000 năm qua, còn loài người sống trước đó, thì làm sao được cứu?
a. Loài người sống trước ngày Ðấng Cứu Thế chịu chết, nếu họ bởi đức tin đến Ðấng Cứu Thế mà dâng lên Ðức Chúa Trời của lễ chuộc tội cho mình như: bò, chiên, chim bồ câu thì họ đã được cứu.
“A-bên cũng dâng chiên đầu lòng trong bầy mình cùng mỡ nó. Ðức Giê-hô-va đoái xem A-bên và nhận lễ vật của người” (Sáng Thế Ký 4:4);
b. Loài người sống sau ngày Ðấng Cứu Thế chịu chết, nếu ăn năn tin nhận Ngài thì sẽ được cứu.
“Hai người trả lời rằng: Hãy tin Ðức Chúa Jêsus, thì ngươi và cả nhà đều sẽ được cứu rỗi” (Công vụ 16:31).
c. Mọi người sống trong mọi thời đại mà không hề biết về việc dâng tế lễ hoặc tin nhận Chúa Giê-xu, Ðức Chúa Trời dựa theo luật pháp đặt trong lòng họ mà đoán xét họ.
“Vả, dân ngoại vốn không có luật pháp, khi họ tự nhiên làm những việc luật pháp dạy biểu, thì những người ấy dầu không có luật pháp, cũng tự nên luật pháp cho mình. Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình. Ấy là điều sẽ hiện ra trong ngày Ðức Chúa Trời bởi Ðức Chúa Jêsus Christ mà xét đoán những việc kín nhiệm của loài người, y theo Tin Lành tôi” (Rô-ma 2:14-16).
Câu gốc của bài học:
“Ðức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy; trong những kẻ có tội đó ta là đầu” (1 Ti-mô-thê 1:15).