DƯỚI CHÂN THẦY
Chương II
TỘI LỖI VÀ SỰ CỨU RỖI
Phần I
Môn đệ:
“Kính thưa Thầy, tự nhiên ai cũng biết rằng bất tuân Đức Chúa Trời và không thờ phụng Ngài là tội lỗi, và hậu quả chết chóc của nó có thể thấy được trong tình trạng thế giới hiện nay. Nhưng tội lỗi thực sự như thế nào thì không rõ ràng lắm. Trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời Toàn Năng, và đối nghịch với ý muốn của Ngài, và trong thế giới của chính Ngài, thì làm sao tội lỗi có thể thể hiện được ?
Thầy:
1 Tạo Hoá duy nhất thì không còn ai để tạo nên tội lỗi. Sa-tan chỉ có thể làm hư những gì đã được tạo dựng, nhưng nó không có quyền lực tạo dựng cái gì cả. Như vậy tội lỗi không phải là một phần của công cuộc tạo hoá ấy, nó cũng không hiện hữu một cách độc lập như một vật . Tội lỗi là ném bỏ ý muốn của Đức Chúa Trời qua một bên mà sống theo ý riêng mình, từ bỏ những gì chân thật và hợp pháp để làm thoả mãn những ước muốn riêng của mình, tưởng rằng làm vậy thì sẽ được hạnh phúc. Nhưng khi làm như vậy người ta không hưởng được lạc thú chân thật. Tội lỗi không có cá tính, như vậy không ai có thể bảo rằng một ai đó đã tạo nên nó. Nó chỉ là một cái tên để chỉ một tình trạng hay một điều kiện. Chỉ có một Đấng Tạo Hoá mà Ngài là Đấng Tốt Lành, là một Đấng Tạo Hoá Tốt Lành Ngài không thể tạo dựng một điều xấu vì làm như vậy là Ngài tự phản lại chính bản thể của mình. Tội lỗi chỉ là một tình trạng hiện hữu bị méo mó hay bị phá hoại .
Chẳng hạn, ánh sáng là có thật, nhưng bóng tối không có; nó chỉ là một tình trạng thiếu vắng sự sáng. Như vậy tội lỗi hay sự gian ác không phải là một sự vật tự hữu, nhưng chỉ là sự thiếu vắng hay là sự vô hiện hữu của điều tốt . Tình trạng tăm tối của tội ác thật là kinh khủng, bởi vì nó mà nhiều người lạc lối, đụng phải đá ngầm của Sa-tan mà chìm tàu, rơi vào bóng tối địa ngục và hư mất. Vì lý do đó, Ta là sự sáng của thế gian được tỏ ra trong xác thịt, hầu cho những ai đặt niềm tin nơi Ta sẽ không bị hư mất, vì Ta cứu họ khỏi quyền lực của tối tăm và đem họ đến bến bờ mong ước của thiên-đàng một cách an lành, nơi không có tên cũng không có dấu hiệu của bóng tối (Khải Huyền 21:23, 22:5) .
2 . Khi hỏi làm sao trong chính sự hiện diện của Đấng Tạo Hoá mà lại có tình trạng tội lỗi được. Nó xảy ra bởi vì Sa-tan và con người tự họ hành động cùng phương thức bất hợp pháp và sai trái khi tìm cách thực hiện được ý muốn của mình. Mà nếu như hỏi tại sao Đức Chúa Trời không dựng con người một cách thế nào, để cho người không thể rơi vào tình trạng đó, câu trả lờii là nếu con người được dựng nên như cái máy thì họ không thể nào đạt được tâm trạng sung sướng khi hành động theo sự lựa chọn của mình. A-đam và Ê-va rơi vào bẫy lừa dối quỉ quyệt của Sa-tan bởi vì họ ở trong tình trạng vô tội, họ không biết có sự dối trá hoặc lừa đảo. Trước đó, chính Sa-tan cũng không biết có sự hiện hữu của kiêu căng là lý do khiến nó bị ném khỏi thiên-đàng, bởi vì trước nó không có sự hiện hữu của kiêu căng. Và mặc dầu tình trạng tội lỗi đã đến trong con người và Sa-tan, Đức Chúa Trời bởi quyền năng vô hạn của Ngài đã đem lại tình trạng đó một khía cạnh mới, từ trong tình trạng đó Ngài đã đem lại những kết quả cao quí nhất .
Thứ nhất, tình yêu vô biên của Đức Chúa Trời được thể hiện trong sự hoá thân và sự cứu rỗi nếu không có thì tình yêu đó sẽ không được lộ diện. Thứ hai, những kẻ được cứu chuộc, sau khi đã nếm biết nỗi cay đắng của tội lỗi, sẽ càng sung sướng hạnh phúc vui hưởng thiên đàng, sau khi nếm mùi cay đắng thì mùi vị ngọt ngào của mật ong sẽ làm cho khoan khoái hơn. Bởi vì trong thiên-đàng họ không còn phạm tội nữa, nhưng bằng sự nhu mì, yêu thương, vâng phục họ phụng sự Đức Chúa Trời là Cha, và vui mừng ở trong Ngài mãi mãi .
3 . Con người rất cần mẫn tìm kiếm những vết tích trong mặt trời, mặt trăng, như những điểm đen và nhật thực, nguyệt thực, nhưng đối với những vết tích của tội lỗi thì họ không hề để ý. Do đó ta mới thấy được sự tối tăm con người là lớn dường nào, khi ngay cả ánh sáng trong họ cũng là bóng tối (Ma-thi-ơ 6:23). Giống như thân thể của người phung trở thành tê dại, vô cảm giác vì bệnh tật của mình, thì lòng và trí của loài người vì tội lỗi mà trở thành chai lì và vô cảm, khiến họ không còn có cảm giác khó chịu hay đau đớn nữa. Nhưng rồi sẽ đến lúc họ nhận thức được sự tàn phá ghê gớm của nó, lúc đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng .
4 . Những người trầm mình trong tội lỗi thì không biết được, không cảm thấy được sức nặng của nó, cũng như người dìm mình xuống nước có thể có cả hằng tấn nước trên mình, nhưng hoàn toàn không hề cảm thấy sức nặng của nó cho đến khi bị nó đè chết ngộp, chết đắm, nhưng ai trồi lên khỏi nước và tìm cách đưa một vật gì ra khỏi nước thì biết ngay sức nặng của nó, dầu người ấy cầm một vật rất nhẹ; vậy những kẻ nào cảm biết được gánh nặng của tội lỗi, hãy đến cùng ta trong tinh thần ăn năn thì sẽ nhận được sự an nghĩ thật, bởi vì ta đến tìm và cứu những kẻ như vậy (Ma-thi-ơ 11:28; Luca 19:10) .
Không nhất thiết mỗi một bộ phận trong cơ thể con người phải trở thành vô dụng và yếu ớt trước khi sự chết đến. Nhưng với trái tim và bộ óc thì khi nó bị đánh vào hay yếu đi thì sẽ làm chấm dứt sự sống, dù cho các bộ phận khác trong thân thể có khoẻ khoắn và lành mạnh đến đâu. Cũng vậy ảnh hưởng độc hại của tội lỗi trên tâm trí và tấm lòng của con người đủ để tàn phá cả cuộc sống tâm linh không phải chỉ một người mà có thể cả gia đình hay cả dân tộc hoặc cả giống người. Đó là trường hợp tội lỗi của A-đam . Nhưng như một lời đã ra từ Ta có thể đem La-xa-rơ ra khỏi mộ, nó cũng đủ để ban sự sống đời đời cho mọi người .
5 . Đôi khi một con thú hay con chim sống lâu ngày với loài người, khi trở về bầy của mình thì thay vì được chúng hoan nghênh, lại bị chúng cắn xé cho đến chết, lý do là vì những con thú con chim đó sống lâu quen thuộc với loài người nên những thói quen và nếp sống của nó đã hoàn toàn thay đổi. Cũng giống như những con vật không chịu chấp nhận cho những con vật đồng loại khác đã từng chịu ảnh hưởng của loài người trở lại vào trong đoàn thể của mình, làm sao các thiên sứ và thánh đồ trên trời có thể hoan nghênh tội nhân đã sống mật thiết với những kẻ gian ác trên thế gian? Từ đó không có nghĩa là các thiên sứ và thánh đồ không yêu thương người có tội, nhưng là cái không khí của thiên đàng rất là khó chịu đối với những con người như vậy. Rõ ràng khi còn ở trong thế gian nầy tội nhân không ưa thích hội hiệp với người lành, làm sao họ có thể chịu đựng nổi khi sống với họ suốt cả cõi đời đời? Đối với những người như vậy thiên đàng chỉ là một thứ đáng ghét cũng như địa ngục vậy .
Đừng cho rằng Đức Chúa Trời hay dân Ngài sẽ đuổi tội nhân ra khỏi thiên-đàng và ném họ vào hoả ngục, bởi vì Đức Chúa Trời là Tình Yêu, Ngài không ném ai vào hoả ngục, và cũng chẳng bao giờ làm như vậy. Chính cuộc sống hôi thối của tội nhân sẽ đem họ vào hoả ngục. Rất lâu trước khi cuộc sống kết thúc đem thiên đàng và hoả ngục đến gần ta, thì thiên đàng hay hoả ngục đã được thiết lập ngay trong lòng của con người, tuỳ theo bản chất thiện hay ác của họ. Như vậy bất cứ ai muốn được cứu khỏi hình khổ đời đời, họ phải thật sự ăn năn tội lỗi mình và dâng lòng mình cho Ta, và nhờ sự hiện diện của Ta trong họ và nhờ ảnh hưởng của Đức Thánh Linh, họ sẽ trở thành con cái của nước Đức Chúa Trời đời đời.
6. Một kẻ phản loạn chống lại Vua hay chính phủ ở trần gian nầy có thể được an toàn khi tìm cách ẩn trốn đến một quốc gia khác, nhưng một người phản nghịch Đức Chúa Trời thì sẽ lẫn trốn ở đâu? Bất cứ họ đi nơi nào, dù là lên trời hay xuống địa ngục, họ sẽ thấy Đức Chúa Trời ở đó (Thi Thiên 139:7-8). họ chỉ được an toàn khi ăn năn và đầu phục Chúa của họ.
7. Đối với A-đam và Ê-va thì những lá vả có khiếm khuyết nhỏ nhoi không đủ che, bởi vậy Đức Chúa Trời đã ban cho họ chiếc áo bằng da thú. Cũng vậy những việc lành của con người cũng vô dụng như những lá vả không đủ để cứu họ khỏi cơn thạnh nộ hầu đến. Không có gì ngoài chiếc áo công bình của Ta có thể cứu họ.
8. Con bướm đêm không nghĩ đến sức thiêu đốt tiêu diệt của ngọn lửa, nhưng thích thú ánh sáng chói chang của nó nên xông vào và bị tiêu diệt. Cũng vậy con người bất chấp năng lực độc hại hủy diệt của tội lỗi, mà chỉ cảm thấy sự hào nhoáng của nó, nên xông vào để chịu diệt vong đời đời. Nhưng ánh sáng của ta cứu tội nhân khỏi chết, và ban cho họ sự sống và hạnh phúc bền vững. Con người đã được tạo dựng có khả năng sử dụng món quà quí giá là ánh sáng thật của Ta.
9. Tội lỗi không phải là một ảo tưởng hay là một vật gì do trí tưởng tượng đặt ra, nhưng là một trạng thái tăm tối thuộc linh, theo người ta thực hiện ước muốn xấu xa của mình, những hạt giống tội ác đã thành hình sẽ làm nhiễm độc tâm linh và cuối cùng hủy hoại nó. Cũng như bệnh đậu mùa chỉ trong một thời gian ngắn có thể hủy hoại sắc đẹp của một người vĩnh viển, biến khuôn mặt trở thành xấu xí. Đức Chúa Trời không tạo dựng sự gian ác, Ngài không dựng nên tật bệnh và những đau đớn của thể xác. Đó chỉ là kết quả tự nhiên của sự bất tuân của con người. Đau khổ và bệnh tật không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng, nhưng là kết quả hữu hình bên ngoài của chứng bệnh tội lỗi ẩn tàng bên trong, dầu cho đó là tội lỗi của cá nhân hay của một dòng họ mà mình là thành viên. Tất cả mọi thành viên ăn năn và liên hiệp với Ta, dòng máu lành mạnh của Ta đã lưu thông trong họ, chữa lành những chứng bệnh trong nội tạng ẩn tàng bên trong họ và ban cho họ sức khọe đời đời. Con người được tạo dựng cho tình trạng sức khọe như vậy, nên họ có thể được sống hạnh phúc với Chúa và Thầy của mình mãi mãi.
Phần 2
Môn đệ:_ Thưa Thầy, thời nay có nhiều người học thức và những kẻ theo họ xem sự chuộc tội và sự cứu rỗi bởi Huyết như là vô nghĩa và vô ích. Họ bảo rằng Đấng Christ (Chúa Cứu Thế) chỉ là một vị giáo sư lớn và là một tấm gương của một đời sống tâm linh, họ cho rằng sự cứu rỗi và hạnh phúc đời đời tùy thuộc vào những cố gắng và việc lành của con người.
Thầy:_
1. Đừng bao giờ quên rằng những ý tưởng tôn giáo và thuộc linh không liên hệ với cái đầu bằng với trái tim là đền thờ của Đức Chuá Trời, khi trái tim đầy dẫy sự hiện diện của Đức Chuá Trời thì cái đầu sẽ được soi sáng. Tâm trí và con mắt dùng để hiểu biết sẽ trở thành vô dụng nếu không có ánh sáng thật, cũng giống như con mắt thiên nhiên không có ánh sáng. Trong bóng tối người ta có thể tưởng lầm một khúc dây, một cuộn thừng với một con rắn, cũng vậy những người khôn ngoan của thế gian nầy xuyên tạc chân lý thuộc linh và dẫn những tâm trí đơn sơ đi lạc. Satan khi cám dỗ Ê-va đã không mượn hình con cừu hay chim bồ câu nhưng là con rắn, là giống xảo quyệt nhất trong mọi loài. Cũng vậy ngày nay nó dùng sự khôn ngoan của người khôn và trí tuệ của người học thức làm những công cụ phục vụ cho mục đích của nó. học thức và khôn ngoan vẫn chưa đủ; con người còn phải có sự hồn nhiên đơn sơ của chim bồ câu, như ta đã từng bảo “Hãy khôn khéo như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu” (Ma-thi-ơ 10:16).
2. Thập tự giá và sự chuộc tội đối với người tin cũng giống như con rắn bằng đồng đối với người Israel khi xưa, hễ những ai nhìn lên con rắn đó bằng con mắt đức tin thì sẽ được cứu (Dân Số Ký 21:9; Giăng 3:14,15). Tuy nhiên, có những người thay vì tin thì họ cho rằng đó chỉ là miếng đồng và bắt đầu chỉ trích, “Nếu Môi-Se đem cho chúng ta một liều thuốc giải độc, một loại thuốc mạnh hoặc một loại thuốc đặc biệt trị nọc độc của rắn, thì đó mới là đối tượng đúng của đức tin, còn cây sào nầy thì có năng lực gì đối với nọc độc của rắn?” Tất cả những người đó đều chết. Ngày nay cũng vậy, những người tranh cãi về phương pháp cứu rỗi mà Đức Chuá Trời đã chỉ định sẽ hư mất vì nọc độc tội lỗi của họ.
3. Một thanh niên té xuống vực và bị thương trầm trọng, mất rất nhiều máu anh ta sắp chết. Khi cha của anh đem anh đến bác sĩ, bác sĩ bảo, “Sự sống là ở trong máu, và lượng máu của người thanh niên nầy không còn đủ; nhưng nếu có ai sẵn lòng hy sinh sự sống của mình thì anh ta có thể hồi phục, bằng không anh ta sẽ chết.”. người cha lòng tràn đầy yêu thương con, bằng lòng hiến máu mình. Máu của người cha đã được tiêm vào động mạch và tĩnh mạch của người con nên anh ta đã tỉnh lại. Con người đã rơi xuống từ ngọn núi thánh khiết, nằm đó què quặt và thương tích vì tội lỗi. Vì những thương tích đó nên sự sống tâm linh họ tàn lụi và họ đi đến gần chỗ chết. Nhưng đối với những ai tin Ta, thì Ta đổ giòng máu thuộc linh đời đời của Ta ra, hầu cho họ được cứu khỏi sự chết và được sự sống đời đời. Vì mục đích đó mà Ta đã đến hầu cho họ được sống và được sự sống dư dật (Giăng 10:10), và sống đời đời.
4. Thời trước người ta thường cấm uống máu súc vật hay ăn một số thức ăn nào đó, vì tin rằng nhờ đó họ có thể thoát được một số bịnh tật. họ cho rằng vì con người mang thể xác thú vật, nên nếu họ ăn thịt uống máu thú vật thì thú tính trong họ sẽ mạnh lên. Nhưng bây giờ “thịt Ta là thịt thật và huyết Ta là đồ uống thật” (Giăng 6:55), bởi vì chúng đem lại sự sống tâm linh, và nhờ chúng mà con người có thể nhận được sức khỏe trọn vẹn và niềmhạnh phúc vui tươi của thiên-đàng.
5. Được tha tội không có nghĩa là được cứu rỗi trọn vẹn, vì sự cứu rỗi trọn vẹn chỉ đến khi người ta được hoàn toàn giải thoát khỏi tội lỗi. Có thể một người chết vì bệnh hoạn do tội lỗi của mình mặc dầu đã nhận được sự tha thứ. Ví dụ, một người bị cơn đau lâu ngày ảnh hưởng tới bộ óc, trong khi bộ óc anh ta bị ảnh hưởng như vậy anh ta tấn công một người khác và giết người đó đi. Khi quan tòa tuyên án tử hình anh ta, các thân nhân anh ta giải thích hoàn cảnh của anh ta và kêu xin sự khoan hồng cho anh ta, và anh ta được miễn xá tội sát nhân. Nhưng trước khi bạn bè đến gặp báo tin mừng cho anh ta, trong khi họ còn đang trên đường đi, thì anh ta đã chết vì chứng bệnh đã khiến cho anh ta phạm tội sát nhân.
Như vậy sự ân xá đó có ích lợi gì cho kẻ sát nhân? Anh ta muốn thật sự an toàn thì phải được chữa lành bệnh, rồi anh ta mới có thể sung sướng hưởng ơn khoan hồng. Vì lý do đó mà Ta đã tỏ mình Ta ra trong xác thịt, hầu cho Ta có thể giải thoát những người thật sự ăn năn và tin Ta khỏi hình phạt và khỏi sự chết của chứng bệnh tội lỗi; như vậy sẽ cất đi cả nguyên nhân lẫn hậu quả. họ sẽ không chết trong tội lỗi mình, vì Ta sẽ cứu họ (Ma-thi-ơ 1:21), và họ sẽ vượt qua khỏi sự chết để trở thành người kế nghiệp sự sống đời đời.
6. Đối với nhiều người cuộc đời là đầy dẫy những hiểm họa, và họ giống như người săn bắt gặp được một tổ ong trên một cành cây vươn ra trên một giòng suối. người ấy trèo lên và bắt đầu nếm vị ngọt của mật ong, hoàn toàn không biết rằng anh ta đang bị sự chết đe dọa, bởi vì trong giòng suối bên dưới anh ta có một con cá sấu nằm há miệng chờ để nuốt anh ta, trong lúc đó xung quanh gốc cây một bầy sói dữ đang lăm le chực anh ta leo xuống. Tệ hơn nữa, cái cây anh đang ngồi đã bị côn trùng ăn ruỗng hết rễ và có thể ngã đổ bất cứ lúc nào. Sau một lúc té ngã thật người thợ săn vô tình đã thành miếng mồi cho con cá sấu. Cũng vậy tâm linh con người ẩn tàng trong thể xác, trong một thời gian ngắn ngủi hưởng thụ những thú vui giả dối chóng qua của tội lỗi tụ tập trong tổ ong của trí não, mà không hề nghĩ rằng mình đang ở giữa cánh rừng đáng sợ của thế gian. Tại đó Satan đang ngồi chực xé tâm linh đó ra từng mãnh, và hỏa ngục giống như con cá sấu há mõm đợi để nuốt chửng nó, trong khi đó côn trùng của tội lỗi tiềm ẩn đã ăn hết những gốc rễ của thân thể và sự sống. Chẳng bao lâu linh hồn con người bị ngã đỗ và trở thành miếng mồi cho hỏa ngục. Nhưng tội nhân nào đến với Ta thì Ta giải thoát họ khỏi tội lỗi, khỏi Satan, và khỏi hỏa ngục, Ta sẽ cho họ niềm vui vĩnh cữu “Không ai lấy khỏi họ được” (Giăng 16:22).
7. Satan dùng ngôn từ xảo trá và những lời dụ dỗ ngon ngọt để kéo loài người đến với nó và nuốt họ giống như con rắn dùng đôi mắt sáng của nó để thôi miên những con chim nhỏ, và bắt chúng ăn thịt. Nhưng những người nào tin Ta, Ta sẽ giải thoát họ khỏi con rắn xưa và khỏi sự cám dỗ của thế gian làm hủy hoại linh hồn. Ta giải phóng họ cũng như con chim kia có thể chống cự hấp lực của tội lỗi ở trên đất và họ có thể bay bổng trên bầu trời cao cất đôi cánh cầu nguyện lên và tiến vào nơi ở an toàn là căn nhà thân yêu của tâm hồn họ, do tình yêu ngọt ngào của Ta thu hút họ.
8. Giống như một người bị bệnh vàng mắt nhìn thấy cái gì cũng vàng, đối với tội nhân và triết gia của đời nầy thì chân lý tự nó mang hình thái và phong cách của tội lỗi họ và những lý thuyết của họ, và như vậy không có gì đáng ngạc nhiên nếu những con người đó tiến thêm một bước và kể Ta cũng là tội nhân như họ. Nhưng công việc Ta, là công tác cứu rỗi tội nhân, không tùy thuộc vào ý kiến tốt của thế gian nhưng luôn luôn hành động không ngừng nghĩ trong đời sống của người tin. Giống như Lê-vi, khi ở trong lòng của Áp-ra-ham phải dâng phần mười cho Ta dầu người chưa sinh ra, cũng vậy tất cả mọi thế hệ người tin đều nhận được trong Ta sự cứu chuộc và sự chuộc tội và giá chuộc của tội lỗi họ khi Ta dâng mình trên thập tự giá, dầu lúc đó họ chưa qua đời; bởi vì sự cứu rỗi nầy là cho mọi chủng tộc nhân loại trên thế gian.
9. Bảo rằng một người có thể dùng nỗ lực vào việc lành của chính mình để đạt được sự cứu rỗi là câu nói điên dại và vô lý. Những lãnh tụ của đời nầy và các giáo sư đạo đức thường nói “Hãy làm lành đi thì sẽ trở nên người tốt”, nhưng Ta nói rằng, “Hãy trở thành người lành trước khi làm việc lành. Khi sự sống mới và tốt lành đã vào trong người, thì kết quả tự nhiên là sẽ làm việc lành.”
Chỉ có người khùng mới bảo rằng cây đắng cứ việc sinh trái đều đặn thì cuối cùng sẽ trở thành ngọt. Thật ra cây đắng có thể trở thành ngọt bằng cách ghép vào một cây ngọt, hầu cho sự sống và những phẩm chất đặc biệt của cây ngọt sẽ truyền qua cây đắng rồi chất đắng của nó sẽ tiêu tan đi. Đây là cái mà chúng ta gọi là sự tạo dựng mới. Cũng vậy tội nhân có thể rất mong ước làm điều lành, nhưng kết quả chỉ là tội lỗi; nhưng khi họ ăn năn và bởi đức tin ghép vào Ta thì con người cũ trong họ sẽ chết đi, và họ trở thành một tạo vật mới. Từ từ cuộc sống mới nầy bắt nguồn trong sự cứu rỗi, việc lành sẽ đến như là kết quả, và quả nầy sẽ tồn tại mãi mãi.
10. Có nhiều người đã học được kinh nghiệm rằng sự thiện lành tự nhiên của con người không thể đem cho tấm lòng sự bình an thật, cũng không cho họ biết chắc về sự cứu rỗi hay sự sống đời đời. người thanh niên đến với Ta tìm kiếm sự cứu rỗi đời đời là một trong những trường hợp đó. Ý nghĩ đầu tiên của anh ta về Ta là sai, cũng như một số người khôn ngoan theo đời nầy và những kẻ theo họ vào thời nay. Anh ta nghĩ Ta là một trong số những người dạy đạo giống như những mồ mã tô trắng, mà cuộc sống của họ không có một chút nào thiện lành, chân thật. Bởi vậy Ta đã bảo anh ta, “Tại sao ngươi hỏi Ta về sự thiện lành? Chỉ có một Đấng Thiện Lành mà thôi.” Tuy anh ta có thể nhìn thấy được Ta chính là Đấng ban sự sống và thiện lành; và khi Ta tìm cách nhận anh ta vào mối giao ngộ với Ta và làm cho anh ta trở thành người lành thực sự, và ban sự sống cho anh ta, thì anh ta đã buồn bã bỏ Ta đi. Tuy nhiên cuộc sống của anh ta nói lên một điều hết sức rõ ràng; đó là sự thiện lành cũng như giữ điều răn của anh đã không làm anh ta thỏa mãn và làm cho anh ta biết chắc mình được sự sống đời đời. Nếu việc lành của anh ta đã cho anh ta được bình an thì anh ta đã không đến hỏi Ta. Anh ta đã bỏ Ta đi và anh đã ra đi trong nỗi buồn rầu, nhưng nếu anh ta tin lời Ta thì anh đã ra đi trong niềm vui.
Không lâu sau đó, một thanh niên khác là Phao Lô đã nhận ra Ta, và những ước vọng của tâm hồn người nầy đã được hoàn toàn thỏa mãn. Thay vì bỏ đi trong buồn rầu, người đã bỏ tất cả mọi sự mình có để theo Ta (Phi Líp 3:6-15). Như vậy bất cứ người nào thôi tin cậy vào sự công chính riêng của mình và theo Ta thì sẽ nhận được nơi Ta sự bình an thật và sự sống đời đời.