[:en]
Hoa Huệ Giữa Chông Gai
Anh Hùng Đức Tin. Hoa Huệ Giữa Chông Gai Nguyên tác: Danyun Lời Giới thiệu Tác phẩm “Hoa Huệ Giữa Chông Gai” ghi lại 8 câu chuyện, là những lời chứng về các anh hùng đức tin tại Trung Quốc, ngay trong thời đại của chúng ta. Đức Chúa Trời đã dùng những con người tầm thường nhất (theo quan điểm của thế gian) để làm thành công việc vĩ đại của Ngài ở Trung Quốc: Công việc rao truyền ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho các dân tộc sống dưới ách cai trị độc tài vô thần của cộng sản tại Trung Quốc và thống nhất Hội Thánh của Chúa trên đất nước bao la này. Tám câu chuyện. Tám lời chứng được đóng dấu bằng máu và nước mắt, nhưng không kém phần hùng tráng. Từ trong đáy vực tối tăm của đày đọa nhục hình, của địa ngục trần gian, những lời nguyện, những lời ca phát xuất từ những con tim đã trọn vẹn hiến dâng cho Chúa, vượt không gian, đến tận ngôi Thánh của Đức Chúa Trời, làm thức hương thơm dâng lên cho Ngài, và vượt cả thời gian, chạm đến triệu triệu con tim của mọi thánh đồ, để minh chứng rằng: “Sự bình an của Đức Chúa Trời, vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jesus Christ.” (Phi líp 4:7). Ước mong rằng cuốn sách “Hoa Huệ Giữa Chông Gai” này sẽ làm thức tỉnh những con dân Chúa đang mơ màng trong những giấc mộng của cuộc đời: danh, lợi, quyền… sớm thức tỉnh để hết lòng dấn thân cho công việc rao giảng Tin Lành, là trách nhiệm của mỗi một con dân Chúa. CÂY BÁCH CỦA RỪNG LI-BAN X. Mao ra đời năm 1916. Lúc còn trẻ tuổi anh chống đối đạo Chúa kịch liệt. Anh khinh bỉ Cơ-đốc giáo và dùng mọi cơ hội để phỉ báng những người tin Đức Chúa Trời. Anh nằm ở nhà một mình, trong lúc rất tuyệt vọng và gần kề với sự chết, thì có một người bà con đến thăm và giục lòng anh tin Chúa Giê-xu. Trong cơn hoạn nạn, Mao đã bám vào cọng rơm duy nhất còn lại này, còn có thể mang hi vọng đến cho anh. Sau vài lần nói chuyện với người bà con anh đã quyết định: nếu như Giê-xu này có thể giúp anh thực sự, thì anh sẽ từ bỏ tất cả những thái độ chống đối của mình với Cơ-đốc giáo. Bây giờ, nó liên hệ đến sự sống của anh và anh cũng chẳng mất mát gì. – Nên anh đã quyết định làm một thử nghiệm và cầu nguyện với Giê-xu. Khi anh nói rằng, anh muốn bắt đầu một cuộc sống mới với Chúa Giê-xu là Chúa của mình thì anh đã nói bằng sự nghiêm túc và chân thành. Ngay lập tức, anh kinh nghiệm một sự bình an mới mẻ trong lòng và xua tan mọi sự sợ chết đang dày vò. Trong những ngày tiếp theo, tình trạng sức khỏe của anh tiến triển khá hơn. Bây giờ thì anh muốn biết ông Giê-xu này là ai, mà đã giúp đỡ anh quá rõ ràng, mặc dù từ trước tới giờ, anh toàn chống đối. Anh tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu thêm về Đức Chúa Trời và Kinh thánh. Mấy ngày sau đó, anh hoàn toàn bình phục. Kể từ lúc đó, không có gì làm anh say mê hơn là được tiếp cận với Đức Chúa Trời và với Lời của Ngài. Chỉ bảy tuần lễ sau khi tin nhận Chúa, anh đã được người mục sư cử đi giảng ở một vùng nọ. Đó là sự bắt đầu của một cuộc đời làm mục sư và rao truyền tin lành. Anh đã phục vụ Đức Chúa Trời rất tận tụy. Anh càng nhận biết Ngài, thì càng yêu mến Ngài hơn, và càng được kinh nghiệm quyền năng và sự gần gũi bên Ngài nhiều hơn, hầu cho anh không hề sợ hãi trước những sự tấn công, bắt bớ vì cớ đức tin. Mao đã trả lời bằng một giọng điềm tỉnh: “Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Rỗi đời sống tôi. Nếu không có Ngài thì chắc hôm nay tôi không còn nữa. Trong khi tôi bị ốm chỉ còn chờ chết, thì Ngài đã đến và cho tôi khỏe mạnh trở lại. Tôi sẽ rất vô ơn nếu như tôi chối bỏ Ngài. Tôi không thể làm theo mệnh lệnh của các ông được.” Khi những người công an nghe điều đó thì họ trở nên giận dữ, và bắt đầu đấm đá anh túi bụi. Mao đã cầu nguyện khẩn thiết, xin Đức Chúa Trời giúp đỡ mình, để khỏi bị sợ hãi trước những đau đớn. Anh không khi nào muốn phản bội lại niềm tin của mình, nhưng với sức lực con người của bản thân, thì chắc anh khó có thể chịu đựng nổi cuộc tra tấn này. Và, trong khi những đòn tra tấn đổ xuống trên thân thể, anh kinh nghiệm được một niềm vui mừng siêu nhiên, càng ngày càng đầy dẫy trong anh càng thêm. Anh cảm nhận Đức Thánh Linh gần gũi mình rất đặc biệt và rất dễ chịu. Mặc dù những kẻ tra tấn dùng đủ mọi biện pháp, cũng không đạt được ý muốn là làm khuất phục ý chí của Mao. Họ gán cho anh là kẻ phản Mác-xít và nổi loạn chống lại “chủ tịch vĩ đại”. Anh bị chụp mũ là một tên phản cách mạng và bị công an canh giữ. Ít lâu sau đó, chính quyền lên án anh đã cấu kết với các tổ chức phản động nước ngoài. Mấy ngày sau đó anh bị bắt giam. Vào khoảng cuối năm 1954, anh bị kết án năm năm tù và bị đem đi cải tạo ở một trại cải tạo thuộc tỉnh H. vùng lạnh nhất của Trung Quốc. Ở đó, không những anh đã trung thành với niềm tin của mình, mà còn kể cho những bạn tù nghe về Chúa Giê-xu. Vì vậy, án tù của anh đã bị tăng lên mười năm. Vậy là anh phải chịu mười lăm năm sống trong một trại lao động và cải tạo ở miền Đông Bắc Trung quốc. Đó không phải là một thời gian nhẹ nhàng. Anh ở trong một nhà tù vô nhân đạo, nền đất hầu như quanh năm phủ tuyết băng giá. Anh thường xuyên bị tên cai ngục đánh bằng roi da hay phải bị tra khảo không ngớt. Tại nơi quê nhà xa xôi, anh không còn bố mẹ, anh chị em hay là Hội Thánh đứng đàng sau mình. Niềm an ủi duy nhất của anh, đó là lời cầu nguyện của người vợ và những lời khích lệ trong những lá thư chung thủy và dạt dào tình cảm. – Vào năm tù thứ hai, anh phải nói cho người vợ trẻ yêu dấu của mình là anh đã bị tăng án tù từ năm năm trở thành mười lăm năm. Anh cảm thấy lo lắng cho vợ mình, nàng sẽ chịu đựng ra sao cái hung tin này? Một thời gian lâu, anh không nhận được thư trả lời của vợ. Sau đó, lá thư đã đến. Đó là một sự chấn động kinh hoàng, sự đau đớn nhất mà anh chưa từng thấy. sau khi vợ anh nghe tin án tù của anh đã tăng lên mười lăm năm, đó là một thời gian dài của sự lạnh giá và đói khát, thì nàng đã từ bỏ niềm hi vọng được nhìn thấy chồng mình, nên đã yêu cầu Mao đồng ý cho nàng li dị. Mao vừa đọc xong thư, anh vẫn còn chưa tin ở mắt mình. Sau khi anh đã biết chắc rằng người đề nghị li dị đó là vợ mình, thì một sự hốt hoảng và kinh khủng đã ập đến, khiến anh bị ngất đi. Về sau, anh đã suy nghĩ về hoàn cảnh của mình, anh mới cảm thấy đau đớn, vì bây giờ không còn ai ở bên cạnh anh nữa. Cùng với người vợ, anh cũng đã mất đi người duy nhất trên trần gian này, là người giúp đỡ và cầu nguyện cho anh.—————- Anh thấy mình bị bỏ rơi và bất hạnh, không còn biết gì đến sự lạnh giá, anh đã mở toang cánh cửa phòng và chạy ra một khu rừng nhỏ, ở đó, anh đã quì gối xuống trên tuyết và khóc nước mắt dàn dụa, kêu la thống thiết lên với Chúa. Nỗi đau đớn đầy trong anh, đến nổi không thể nói bằng lời được. Anh cứ để cho nước mắt mình trào ra. Rồi bỗng nhiên anh nghe thấy tiếng êm dịu của Đức Thánh Linh nói rằng: “Con phải nhịn nhục để làm trọn ý muốn Đức Chúa Trời, sau đó con sẽ nhận được lời hứa.” Tức thì anh nhớ đến Thi Thiên 73:25 “Ở trên trời tôi có ai trừ ra Chúa? Còn ở dưới đất tôi chẳng ước ao người nào khác hơn Chúa.” Sự hiện diện của Đức Chúa Trời dần dần an ủi anh trở lại, và nỗi đau đớn tan dần. Sau khi anh đã trút hết tấm lòng mình cho Chúa, thì anh bắt đầu hát bài hát này: Sự gần gũi êm ái và âu yếm của Đức Thánh Linh bao phủ anh. Đức Chúa Trời của anh sẽ không bao giờ lìa bỏ anh, như Ngài đã khẳng định trong Lời Ngài. Bằng một giọng nhỏ nhẹ, anh cảm tạ Đức Chúa Trời vì tình yêu vĩnh cửu của Ngài. Ngài thật xứng đáng để phú thác và Ngài đã đáp ứng mọi nhu cầu của anh. Nếu giả sử không còn ai cầu nguyện cho anh, thì Chúa Giê-xu hàng ngày ở bên Cha để cầu nguyện cho anh. Đức Thánh Linh nhắc anh nhớ lại tất cả những lời an ủi trong Kinh thánh, để chỉ cho anh thấy tình yêu Đức Chúa Trời, dần dần, anh trở nên bình tỉnh lại. Anh có thể tha thứ cho người vợ của mình, có thể chúc phước cho cô và anh cảm tạ Đức Chúa Trời, là Đấng sẽ săn sóc anh bằng những sự an ủi và động viên trong những năm tháng sắp đến đang ở trước mặt anh. Anh từ từ đứng lên và đi trở về phòng giam. Ngay trong buổi tối của ngày hôm đó, anh đã viết một bức thư cho vợ mình, tuyên bố mình đồng ý li dị. Ở trong trại cải tạo lao động có tất cả 1,300 tù nhân, nhưng số người tin Đức Chúa Trời là thiểu số rất ít. Bởi vì Mao là một Cơ đốc nhân, nên anh thường xuyên bị theo dõi. Những công an mật, trà trộn nhan nhản mọi nơi, không rời mắt khỏi anh. Vào một ngày kia, khi anh đang kể cho những bạn tù về Chúa Giê-xu, thì có những kẻ giám sát rình nghe trộm được. Nhiều lính canh xông vào anh, trói anh lại và đem lên văn phòng quản lý nhà tù. Ở đó, chúng bắt anh quỳ trên một chiếc ghế gỗ nhỏ có chiều ngang chỉ bằng bốn ngón tay. Chúng vây quanh anh, thay phiên nhau mà đấm vào mặt anh, nhổ trên mặt anh và lấy làm thích thú: “Đấng Cứu Thế của mày ở đâu rồi hả? Hãy nói với Ngài để đến mà báo thù chúng tao!” Mao quì trên ghế gỗ và cứ để cho mọi điều đó diễn ra, mà không trả lời một câu nào. Trong lòng, anh cầu nguyện không thôi. Anh tha thứ cho những kẻ hành hạ mình và xin Đức Thánh Linh ban sức lực cần thiết cho anh. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời đã đưa anh qua khỏi cơn gian nguy này, trong lòng anh đầy sự bình an và anh thấy vui mừng vì kinh nghiệm được sự gần gũi của Đức Chúa Trời hơn mọi sự tấn công và đau đớn. Hàng giờ đồng hồ trôi qua, những dây trói cắn chặt vào khuỷu tay, chân anh bị tê dại, cuối cùng anh thấy mặt tối sầm, ngã qụy xuống đất và ngất đi. Dường như những tên cai tù không thiếu những sáng kiến hành hạ tù nhân. Nhiều lần chúng đeo lên cổ anh một tấm vĩ sắt của lò sưởi bằng gang, nặng hơn 20 cân. Trên đó, chúng gắn một tấm bảng đề: “X. Mao, tên cầm đầu theo sự mê tín dị đoan, phản cách mạng”. Anh phải đeo nó đi vòng quanh ngoài nhà tù. Khi chúng thấy tất cả những cái đó không giúp ích gì, và dường như X. Mao thà chết còn hơn là phải từ bỏ niềm tin của mình, thì chúng dùng đến biện pháp cứng rắn nhất mà chúng hiện có. Chúng xiềng tay anh lại, trói chân anh vào một khúc gỗ bị chôn chặt xuống đất, và anh cứ phải ở như vậy trong một xà lim cá nhân trong mấy tháng liền, không có cửa sổ. Nhưng điều đó không thể khuất phục được đức tin của Mao, vì Đức Chúa Trời ở gần bên anh trong từng giây phút, đến nỗi những sự đày đọa bên ngoài không thể so sánh với những sự tốt lành bên trong mà anh kinh nghiệm với Đức Chúa Trời.—– Vào một mùa đông đặc biệt buốt giá. Trong khắp tỉnh H. nhiệt độ giảm xuống 45 độ âm. Nhiều người già và yếu bị chết vì lạnh. Đồng thời có một bệnh dịch truyền nhiễm lan tràn ra trong vòng những tù nhân. Những tù nhân mắc bệnh bị sốt cao, mắt họ lồi ra và chân tay run rẫy, rồi chết. Đó là một cảnh tượng đầy tang thương. Trong vòng ít ngày đã có 1,050 người chết trong số 1,300 tù nhân. Những người có trách nhiệm đã cho đào một hố lớn, dùng xe tải chở những xác chết và vứt xuống hố chôn người tập thể đó. Khi người bác sĩ nghe điều đó, ngay lập tức và rất bình tĩnh, ông đã quì gối xuống và nói: “Đức Chúa Trời của anh là thật. Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời hằng sống. Bây giờ tôi cũng muốn tin Ngài và xin Ngài tiếp nhận tôi.” ————————— Mao đã nhiều lần chứng kiến Đức Chúa Trời cứu anh khỏi nanh vuốt của tử thần ra sao. Ở một miền đất không có sự sống, đầy băng tuyết, phải chịu đưng mười lăm năm ròng rã, bị phó cho những sự tra tấn và đày đọa dã man, anh còn sống sót được, thì đó quả là một phép lạ. ———————————————– Và rồi, ngày anh được thả ra đã đến. Mười lăm năm ở trại lao động cải tạo lùi lại sau lưng, lúc anh ngồi trong toa tàu vào năm 1969, chở anh về tỉnh quê nhà. Trong suy nghĩ, anh tràn đầy sự biết ơn, khi nhớ lại những lúc đau thương, nhưng trong những lúc có cả máu và nước mắt đó, anh đã kinh nghiệm được sự gần gũi của Đức Chúa Trời và sự nương náu trong Ngài, đồng thời sự suy nghĩ của anh cũng vượt nhanh hơn chuyến tàu. Anh không ngớt nghĩ đến sự tái ngộ với các anh chị em con cái Chúa khác, và những điều mình sẽ kể cho họ. Có biết bao phép lạ anh đã kinh nghiệm trong những năm qua! Anh vui mừng vì sẽ được chia xẽ cho các bạn bè ở quê hương về những kinh nghiệm này. Nhưng anh chưa biết rằng thời kỳ hoạn nạn của anh chưa phải là chấm dứt, rằng đang còn những sự bắt bớ tiếp tục chờ đợi anh.——————————————————– Trong khi Mao còn ở trên chuyến tàu dài ngày và cuối cùng đến trong mảnh đất quen thuộc, mà trước đây từng là quê hương mình, thì anh chưa thể hình dung hết những điều gì đã xảy ra ở dưới cuộc cách mạng văn hóa. Anh không biết rằng cuộc cách mạng văn hóa đã lan tràn khắp nơi và đến cả những nơi xa xôi hẻo lánh nhất. Những công nhân viên và quan chức của chế độ cũ bị nghi ngờ, thì bị đem giải đi công khai trên đường phố đến các cuộc đấu tố, đó là những chuyện thường ngày xảy ra ở thời kỳ đó. Họ bị tra khảo, bị mắng chửi, bị đánh đập và bị bắt ép “tự tố giác mình”. Và cuộc sống của những người xưng nhận niềm tin công khai lại càng ở trong sự nguy hiểm.———————— Và cũng như vậy, Mao vừa đặt chân đến chỗ ở mới của mình, là anh bị chính quyền địa phương mời lên. Những cán bộ hỏi anh: “Sau khi ông đã ở trong trại cải tạo mười lăm năm, ông có từ bỏ niềm tin của mình không?” ——————————————- Mao suy nghĩ về sự hiện diện của Đức Chúa Trời mà anh đã thường xuyên kinh nghiệm được suốt mười lăm năm qua. Dẫu anh cảm thấy yếu đuối và trong những hoàn cảnh đó, dù sự tấn công chống lại anh có điên cuồng và tàn bạo đến đâu, thì anh cũng được kinh nghiệm quyền phép của Đức Thánh Linh một cách đặc biệt. Nhưng làm sao anh có thể giải thích cho những con người này hiểu được rằng sống trong sự tương giao với Đức Chúa Trời là tuyệt vời đến dường nào. Anh cảm thấy vài cặp mắt long sòng sọc nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống anh và anh trả lời cách quả quyết: “Mười lăm năm qua trong trại lao động đã không làm cho niềm tin tôi bị yếu đi, nhưng nó đã góp phần làm cho mối quan hệ của tôi đối với Chúa Giê-xu càng khăng khít hơn, và niềm tin tôi lại càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.” Ngay lập tức, Mao, tuy vừa ra tù, lại bị đánh đập túi bụi bằng đấm đá và gậy gộc. Vào năm 1970, mùa hè năm sau đó, chính quyền địa phương lại ra lệnh bắt giam anh và bắt anh phải tham gia một khóa huấn luyện cải tạo. Tham gia khóa này có phần lớn những kẻ đầu trộm, đuôi cướp, chủ chứa, chủ sòng, và những người khác, đó là những người không muốn hội nhập vào trong xã hội. Những người này hay bộc lộ sự cứng cỏi và bản lĩnh của mình. Nhưng giờ đây đối diện với bạo lực và chuyên chính của nhà nước, thì trông họ như những võ sĩ bại trận nhục nhã. Họ đi lướt thướt với đôi vai thòng xuống, và một sự bạc nhược tràn ngập trên họ. Mao phải sống chung với họ suốt 73 ngày, và dù họ có thường xuyên khiêu khích hay thậm chí đánh đập anh, nhưng anh không để bị mất tinh thần, bất cứ lúc nào thuận tiện anh đã hát và cầu nguyện nho nhỏ. Điều đó không chỉ xảy ra một lần, khi anh đang nhắm mắt trước bát cơm và tạ ơn Đức Chúa Trời về thức ăn, thì những kẻ chung quanh đã lấy mất thức ăn trước mặt anh. Nhiều cú đấm của sự điên khùng và khiêu khích, do bị dồn chứa lâu ngày, đổ lên đầu và thân thể anh gầy còm của anh. —————————————- Một ngày kia, có một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng bị bắt giam và bị sắp vào cùng lớp huấn luyện đó. Ông bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tột độ, hết sức tuyệt vọng và nản chí, đến nỗi ông đã nghĩ đến chuyện tự kết liễu đời mình. ————————– Một lần nữa tất cả các tù phạm lại bị bắt buộc tham gia một cuộc diễu hành trên đường phố. Trong khi Mao đã nhiều lần tham gia, thì đối với vị tu sĩ, đây là lần đầu tiên ông phải tham gia một cuộc diễu hành như vậy. Trong những ngày đó, những cuộc đấu tố thường là phương tiện thông dụng của sự cải tạo. Một cái mũ dài thòng như mũ thằng hề được đem đội trên đầu các tù nhân, cứ như vậy họ phải đi đi lại lại trên các đường phố, từ sáng sớm đến chiều tối. Trên mũ đề tất cả những tội phạm có thể có của người đó. Dân làng, thường là những người hàng xóm và bạn thân của nạn nhân, hô lên những lời đấu tố họ. Người ta xui trẻ con ném đá vào những “kẻ tội phạm đã thú tội”. Tiếng hoan hô reo hò nổi lên khi có một đứa trẻ chạy ra giữa đường đánh vào tù nhân hay ném rác vào mặt họ. Đó là những giờ rất nhục nhã mà các tù nhân phải chịu đựng.—————— Vào buổi tối khi họ trở về nơi mình bị nhốt, thì người Phật tử bắt chuyện với Mao và hỏi: “Hôm nay tôi quan sát ông trên đường phố, trông ông bước đi dõng dạc và hiên ngang, làm sao ông có thể quên được điều đang xảy ra quanh mình?” Mao tươi cười trả lời: “Tôi là một người theo Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu của tôi đã sống lại từ cõi chết, Ngài có thật và sống, tôi đi đâu thì Ngài cùng đi với tôi. Nhờ được ở bên cạnh Ngài tôi có sự bình an lớn và sự vui mừng vô biên. Đối với ông, không như vậy sao? Vì ông là người theo Phật Thích Ca, thì chắc Phật Thích Ca phải đến và an ủi ông?” Người Phật tử không đáp lại lời đó được.————————————————————– Vào một buổi chiều đặc biệt nóng bức. Không một làn gió, sức nóng như đè lên mọi người. Mao phải cùng với những tù nhân khác tham gia một cuộc đấu tố. Những cán bộ ra lệnh một vài tù nhân trói nhóm người được đem lên buổi mít tinh hôm nay. Số tù nhân đi trói tỏ vẻ khoái chí khi được thi thố bạo lực. Chúng siết dây trói thật chặt, đến nổi làm những người bị trói phải kêu la. Rồi họ được xe tải đem đến một chỗ gọi là D. là nơi tổ chức buổi đấu tố. ———————————————————— Bên cạnh những cuộc cổ động rầm rộ, thì đây là phương tiện thường được dùng trong cuộc cách mạng văn hóa, để chống lại tất cả các phần tử khả nghi của cách mạng văn hóa, hay đơn giản, chỉ vì họ quá giàu, hay học vấn quá cao. Nhưng các Cơ đốc nhân cũng đặc biệt hay bị lâm vào. Nếu có một cuộc đấu tố được tổ chức, thì trước đó hàng giờ đồng hồ các xe tải chạy qua các đường phố và phát loa phóng thanh, thông báo về thời gian và địa điểm của buổi họp đấu tố. ———————————— Sự tham gia là nghĩa vụ. Những bục khán đài được dựng lên tại những nơi xa xôi nhất, ở trong những làng mạc hẻo lánh nhất. Các “tội đã thú nhận” của các nạn nhân được đọc lên cho công chúng nghe. Nó có thể liên quan đến việc chứa chấp một đĩa nhạc Bết thô ven, một cái quần ngoài tiêu chuẩn, hay một thái độ mập mờ chống đối đảng. Chiếu theo những lời đó, lính hồng vệ binh hô to lời tuyên án. Những người trong công chúng được yêu cầu bước lên và vạch mặt “phần tử tội phạm”. Vào giờ khắc được ấn định trước, có tiếng hô từ trong đám đông: “Đủ rồi, chúng tôi muốn sự công bình!” Những người khác hùa theo. Rồi tất cả cùng la to: “Sự công bình! Sự công bình!” Một cán bộ hỏi qua loa phóng thanh đặt ở trên xe tải: “Có tội hay không có tội?” Khung cảnh giống như một sự đánh cá cược, xem ai là tội to nhất. Chính mình mà không tham gia vào, cũng đồng nghĩa với sự phải tự quì lên khán đài, trước đám đông, để tiếp nhận “sự công bình”. Mặc dù bị chấn thương nặng nhưng Mao không chết, trong vài tuần sau, anh được hồi phục. Cha của Mao vốn ở một làng nhỏ trên núi, là nơi hầu hết những bà con anh đang sinh sống. Khi họ hàng nghe tin rằng Mao sống không xa họ lắm và chỗ anh ở thường xuyên bị công an, chính quyền tấn công, thì họ tìm mọi cách để xin cho anh được về ở cùng chỗ với cha anh. Dù được chấp thuận cho chuyển chỗ ở nhưng không phải vì vậy mà anh thoát được sự bắt bớ. Chỉ ít ngày sau khi chuyển về chỗ ở mới, anh đã bị bắt giam, bị giải đến trước mặt chính quyền địa phương và bị giam giữ, tra khảo trong nhiều ngày liền. Họ muốn biết kết quả của sự huấn luyện cải tạo anh về chính sách chính trị và tôn giáo đã đi đến đâu. Kết quả đã khiến cho cấp lãnh đạo không hài lòng. Một cuộc vận động quần chúng công khai được tổ chức ngay trong sân làng. cả làng phải đến dự từ khi sáng sớm. Những cán bộ tường thuật cho dân chúng nghe về quá khứ “phản cách mạng” của Mao. Sau đó, họ tuyên bố thời gian của cuộc đấu tố: “Vào lúc tám giờ sáng mai sẽ có buổi họp đấu tố ở D., chúng tôi muốn tất cả dân làng phải có mặt.” Ở vùng này đã từng có nhiều Hội Thánh Cơ đốc giáo lớn mạnh và hoạt động từ nhiều năm nay. Những Cơ đốc nhân đã trải qua nhiều sự bắt bớ, dù vậy, điều đó không làm lu mờ tình yêu nhiệt thành và triệt để của họ đối với Chúa Giê-xu. Bây giờ, khi họ nghe rằng con người của Đức Chúa Trời này đang đứng trước một cuộc đấu tố, thì họ lập tức bắt đầu cầu nguyện và kiêng ăn ráo riết cho anh. Họ quyết định sáng ngày mai sẽ có mặt ở buổi đấu tố, để ủng hộ anh bằng sự cầu nguyện và sự có mặt của họ. Vậy nên, vào sáng sớm hôm sau, trước giờ khai mạc rất lâu, đã có một đám đông những con người nhóm lại chung quanh khán đài, là nơi sẽ xảy ra màn kịch, trước khi những công an đem “tù phạm” đến.————————————————————— Sau đó, những người tổ chức màn kịch đã đến. Họ giải theo X. Mao bị trói chặt. Cùng với súng ống đã lên đạn sẵn sàng, họ đem anh lên khán đài. Khi Mao nhìn lướt qua chung quanh, anh kinh ngạc nhận ra nhiều khuôn mặt trìu mến quen thuộc đứng quanh mình. Những người chờ đợi chung quanh không phải là những người buộc tội và thanh trừng anh, mà đó là những anh chị em cùng đức tin. Vị mục sư địa phương ngồi ngay hàng ghế đầu tiên. Ông gật đầu chào anh, ánh mắt ông chan chứa sự an ủi và thông cảm. Mao cảm nhận được uy quyền và sự hiện diện của Đức Chúa Trời khi anh nhìn vào ánh mắt của vị mục sư. Dường như họ ngầm báo tin cho nhau: “Không, chúng ta không lẻ loi và vô vọng đâu, Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Nếu có ai tấn công chúng ta, thì sẽ không thành công, vì nó xảy ra ngoài Đức Chúa Trời. Nếu ai tấn công chúng ta thì rơi vào sự tấn công chống lại Đức Chúa Trời. Những vũ khí chế ra chống lại chúng ta sẽ không được thành công. Chúng ta sẽ định tội mọi lưỡi dấy lên cáo kiện chúng ta (Ê sai 54). Mao nhướng thẳng người lên, anh cảm thấy năng quyền và sự xức dầu của Đức Thánh Linh đến trên mình và mạnh hơn tất cả những gì con người có thể làm hại anh. Một tên lính xô Mao lên phía trước, giơ cao tay phải hắn lên và bắt đầu hô khẩu hiệu: “Đả đảo Mao là tên phản cách mạng” Chúng ta không dung chứa một sự mê tín dị đoan tôn giáo nào.” Nhưng chỉ có vài giọng rời rạc từ trong đám đông cùng hô khẩu hiệu với hắn. Điều sau đó xảy ra giống như trong các buổi đấu tố trước mà Mao đã phải trải qua. Trước hết, một viên chỉ huy bắt đầu chửi rủa nhà thờ. Hắn kết tội Mao đội lốt tôn giáo hoạt động phản cách mạng. sau đó, hắn ra lệnh cho anh nhận tội và phải tuyên bố chối bỏ đức tin vào Chúa Giê-xu. Những Cơ đốc nhân đứng trước khán đài kinh ngạc, vì thấy có một ánh hào quang của Đức Chúa Trời chiếu trên gương mặt của Mao. Anh từ từ bước lên mi-crô, và bắt đầu nói: “Tại sao các ông không lấy con dao và moi trái tim tôi ra, thì các ông có thể thấy được thật cái gì đã chứa đựng trong nơi sâu thẳm nhất của lòng tôi?” “Tôi muốn trung thành với điều được giao cho tôi Khi những người công an nhận định được tình hình, thì trước hết họ bối rối và không biết nên xử trí ra sao. Họ không những đã nhìn thấy và nghe lời hát của những người mà đáng lẽ sẽ nguyền rủa và lên án tù nhân, mà còn cảm thấy bầu không khí của sự bình an, sự hiệp một và tình yêu, đó là điều khiến họ không chịu đựng nổi. Những tên lính vũ trang trên khán đài chờ đợi cách vô vọng xem sẽ có ai can thiệp vào. Thật là nhục nhã! Mồ hôi tuôn đổ trên trán họ. Nếu rốt cuộc có sự gì đó xảy ra, thì điều đó cũng như một sự giải cứu, tức là khi có một vài người có trách nhiệm gạt đám đông đi lên, đẩy Mao xuống khỏi khán đài và đem anh đến văn phòng trung tâm của chính quyền địa phương. Những Cơ đốc nhân nhóm lại cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự can thiệp của Ngài, họ nghĩ rằng sự việc chắc là đã trôi qua và ai nấy trở về nhà mình. Nhưng phòng công an an ninh vẫn chưa xong kế hoạch của họ. các cán bộ an ninh sôi sục sự giận dữ và căm thù. Dám cả gan làm mất mặt họ giữa nơi thanh thiên bạch nhật. Mao đã khiến cho họ trở thành trò hề. Bọn họ chắc chắn sẽ không chịu ngồi yên vì chuyện này. Họ nghĩ rằng dù sao đi nữa thì rốt cuộc họ cũng vẫn là những người cầm đằng chuôi. Vậy thì tên Cơ đốc nhân này đừng hòng sống sót được. Vào buổi chiều cùng ngày hôm đó, Mao bị trói chặt bằng một sợi dây ni lông mỏng tanh. Những viên công an đã dùng hết sức bình sinh mà siết những sợi dây thật chặt, đến nỗi nó cứa đứt khắp người anh. Mao bủn rủn vì đau đớn. Bây giờ sẽ diễn ra một cuộc diễu hành. Mao phải đội một cái mũ hề nhọn đấu, bị giải đi qua các đường phố, có các công an vũ trang vây chung quanh. Có nhiều kẻ hiếu kỳ tham gia vào đoàn người, nhưng không có ai trong số họ là Cơ đốc nhân. Những học sinh của trường phổ thông cơ sở và trung học đang trên đường về nhà, đều theo sau Mao và cùng tung hô khẩu hiệu: ————————————————————— “Đả đảo mọi kẻ thù giai cấp!” Mao bước đi hiên ngang và đường hoàng giữa đám đông hỗn loạn. Trong ý thức, anh biết chắc rằng mình không đơn độc. Chúa Giê-xu đi cùng với anh. Sau khi họ đã nhiều lần đi qua, đi lại trong vùng, thì những viên chỉ huy hỏi anh: “Anh có tiếp tục tin Chúa Giê-xu hay không?” Mao đã trả lời không hề lưỡng lự: “Tôi tin và tôi sẽ còn tin cho đến hết cuộc đời tôi”. Ngay khi anh nói chưa dứt câu, đã có kẻ dùng búa đập lên đầu anh. Máu chảy ra từ vết thương, chảy lên tóc và lên áo anh. Sau vài bước, bọn chúng lại hỏi anh: “Anh muốn tin đến bao giờ?” Anh trả lời sang sảng và dõng dạc: “Tôi tin, và dù các ông có đánh tôi chết, tôi vẫn tin.” Những tên lính lại đánh anh bằng búa và các bứu to tiếp tục sưng lên trên đầu anh. Trong khi anh bước đi, bọn họ đánh anh không ngừng. Chẳng mấy chốc, trên đầu anh đầy những thương tích và khối u. Sau khi đoàn người bước đi như vậy chừng nửa cây số, thì đầu anh sưng to và máu khô đọng cứng lại bởi những trận đòn, đến nỗi mắt anh hầu như không mở lên được nữa, vì mặt đã bị sưng vù. Cứ như thế, đoàn người đi qua một quầy hàng, trước cửa quầy hàng đó là một đống đá xanh, chất cao lởm chởm. Các tên chỉ huy dùng dao nhọn bắt anh phải tiếp tục đi tới, trèo qua đống đá đó mà đi. Nhưng vì hai tay Mao bị trói chặt, nên anh bị mất thăng bằng và trượt ngã trên những hàng đá nhọn, không có gì chống đỡ, khiến anh bị gãy vài cái xương sườn. Những kẻ hành hạ anh lại lôi anh đứng dậy và bắt anh đi tiếp tục. Bây giờ khuôn mặt anh ướt đẫm mồ hôi, trở nên trắng bệch, anh thở hổn hển và máu trào ra từ miệng. Anh phải đi tiếp như vậy dưới những trận đòn. Đoàn người đi ngang qua một hố xí công cộng. Thật ra những người có trách nhiệm muốn ném anh xuống hố phân sâu hơn hai mét đó. Nhưng vì cớ đoàn người đi xem đã trở nên rất đông, nên họ không dám làm điều đó. Thay vào đó, họ ném mũ của Mao xuống hố phân. Họ dùng một gậy tre tẩm nó trong phân người, và đội nó lên đầu Mao đang đầy các thương tích. Phân người, nước tiểu chảy trên đầu, tràn trên gương mặt và trên lưng anh, cho đến khi cái áo sơ mi anh bị ướt sũng. Trong khi tiếp tục giải anh đi như vậy, một tên công an lấy hai cây tre, gắp phân chó và tìm cách nhét vào miệng Mao. Bởi vì anh ngậm chặt miệng lại nên hắn đã bôi trét phân chó hôi thối lên trên mồm và môi của anh. Khi Mao mở miệng để thở lấy hơi, thì một ngụm máu tươi đã trào ra khỏi miệng anh. Không biết con người còn có khả năng tàn bạo đến đâu nữa! Thỉnh thoảng, nếu trong khi học Kinh thánh có một chương đoạn đặc biệt cảm động ông, Đức Thánh Linh giải thích lời Ngài cho ông và làm cho lời đó trở nên sống, thì ông mừng rỡ đến nỗi nhảy tung lên và bắt giọng một bài hát, nhảy múa vòng quanh phòng. Mặc dù ông không lấy vợ sau lần li dị và chưa hề có con, và mặc dù đời sống ông trong những năm tháng ở trại lao động khổ sai không phải là nhẹ nhàng, và sau đó ông cũng hay đi công tác khắp nơi trong nước như một người rao giảng Tin Lành, mặc dù nhiều lần mọi sự đe dọa bị bắt giam lại và mọi sự bắt bớ gian nguy luôn rình rập ông, mặc dù vậy cuộc đời ông vẫn được đánh dấu bằng một niềm vui mừng lớn. Nếu ông là khách ở bất kỳ đâu, thì những người hàng xóm ở đó có thể nghe thấy tiếng ông hát, khi ông càng già, giọng ông càng dõng dạc hơn. Ông là một con người có thể hát, cười và khóc bằng cả trái tim. Cùng với một người bà con cũng là Cơ đốc nhân, và là một người bạn thân của ông, cả hai có thể thức thâu đêm đến sáng. sau đó, họ kể cho nhau nghe những gì mình đã kinh nghiệm được từ Đức Chúa Trời, khích lệ lẫn nhau và cùng nhau đọc Kinh thánh, cùng nhau hát ngợi khen Chúa. Bài hát mà họ yêu thích, thường cùng nhau hát đi hát lại hàng tiếng đồng hồ, có những lời như sau: “Khi tôi đắm chìm trong biển đời tội lỗi Những Chúa Nhật đối với X. Mao là những ngày hội. Ông thường dùng những ngày này cho sự tự do để thưởng thức sự tương giao với Đức Chúa Trời, với Lời Ngài, và với những Cơ Đốc Nhân khác. Trong toàn bộ cuộc đời theo Chúa của ông chỉ có bốn lần ông không đi thờ phượng Chúa. Tất nhiên ngoại trừ thời gian mười lăm năm ông ở trong trại khổ sai. Nhiều năm liền, ông đã đi đến các địa phương vùng núi V., là nơi không chỉ khó đi lại thôi, mà còn nguy hiểm nữa, nhất là vào mùa đông những con đường nhỏ, cheo leo trên dốc núi, bị phủ băng tuyết. Nhưng ông không quản ngại gian khổ, lúc bão tuyết ông cũng lên đường thăm viếng các Cơ Đốc Nhân và giảng cho họ về Chúa Giê-xu; nên Tin Lành về Chúa Giê-xu lan rộng trên khắp vùng núi V., và có nhiều Hội Thánh mới mọc lên khắp nơi. Ông rất kỷ luật và cẩn thận về những điều ông nói và làm. Ông ghét mọi loại tội lỗi và ông là một tấm gương trong mọi việc cho các Cơ Đốc Nhân. Lối sống của ông rất bình dị, ông không bao giờ thích sự nhàn rỗi hoặc sự tán gẫu. Ông ăn uống đơn giản, khoai lang và rau quả, ông ăn mặc không cầu kỳ và sống trong một túp nhà nhỏ, đơn sơ. Dù vậy, ông vẫn cho cách sống của mình như vậy là “lãng phí” (khi so với sự đói khổ của bao người dân Trung Quốc). Trước khi Mao qua đời, ông nằm liệt giường tám mươi ngày. Hàng ngày, nhiều Cơ Đốc Nhân từ mọi nơi đến thăm ông. Mặc dù ông không có con theo xác thịt, nhưng ông là người cha thuộc linh của nhiều con trai và con gái. Những đứa con đó đã khiến cho đời sống ông đầy sự vui mừng. Ông chết vào ngày mười bảy tháng mười năm 1989. Một cuộc đời hạnh phúc đầy đủ và rất thành công. Hơn nghìn người đã đến dự lễ an táng ông. Tất cả họ đều yêu mến ông già này và đều muốn noi theo tấm gương của ông. Khi họ thả chiếc hòm xuống huyệt, thì tất cả cùng đồng thanh hát bài: “Khi các môn đệ của Chúa Giê-xu rời khỏi đất, thì họ về nhà |
[:]