Hành Trình Đến Thiên Đàng
Đây là một phần trích dịch từ cuốn sách Heavens của Mục Sư Jesse Duplantis. Ông được Chúa đem về Thiên-đàng năm 1988 trong thời gian đang giảng phục hưng ở hội thánh Magnolia Christian Center thuộc tiểu bang Arkansas. Lúc đầu ông không định chia xẻ kinh nghiệm nầy với ai, chỉ muốn giử nó như kinh nghiệm cho chính mình, nhưng Chúa Thánh Linh đã thúc giục ông chia xẻ kinh nghiệm nầy với những người khác; vì thế ông đã chia xẻ kinh nghiệm nầy trong những buổi giảng và đã gây dựng rất nhiều người và cũng vì thế cuốn sách Thiên-đàng được ra đời.
Jesse Duplatis là một mục sư truyền giảng đầy ơn được kêu gọi để chia xẻ sứ-điệp cứu rổi của Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Jêsus Christ cho toàn nhân loại. Jesse được xức dầu bởi Đức Chúa Trời với một sự giảng dạy đặc biệt đến nỗi làm tan chảy những tấm lòng cứng rắn với những hình ảnh, thí dụ vui cười và dạy dỗ xâu xa lời kinh thánh.
Từ năm 1978, mục đích chánh của Jesse là chia xẻ và mở rộng Tin Lành. Ông đã trở nên một diễn giả ưa chuộng ở những buổi nhóm nhà thờ, hội đồng, tu viện, chủng viện và những chương trình truyền hình Cơ đốc khắp nước Mỹ. Những bài giảng xức dầu của ông đã chỉ tội nhân đến thập tự giá và khuyến khích Cơ đốc Nhân thực tập quyền của họ trên ma quỷ bởi hiểu biết địa vị của họ trong Đấng Christ.
Jesse tin rằng Cơ Đốc Nhân không phải chỉ được đề cập đến trong mỗi bửa Chúa nhật; nhưng nó là ngày qua ngày tương giao với Chúa Jêsus Christ. Bởi sự tương giao gần gủi với Chúa Jêsus khiến cho những điều bất năng, bất lực thình lình có thể làm được hay thực hiện được.
Chương trình truyền hình ba mươi phút hằng tuần của Jesse đã đụng đến hằng triệu người với Tin Lành của Chúa Cứu Thế Jêsus. Chương trình của ông có thể được thấy qua đài Trinity Broadcasting Network và những đài khác trên thế giới.
CUỘC HÀNH TRÌNH ĐẾN THIÊN ĐÀNG
Trong năm 1988, Tôi đang giảng phục hưng ở Magnolia Christian Center, một hội thánh ở Magnolia thuộc tiểu bang Arkansas và Mục sư hội thánh là Paul Troquil. Trong thời gian ở đó tôi cư ngụ tại khách sạn Best Western.
Một buổi sáng nọ, Mục sư hội thánh gọi tôi, ông ta nói ông ta sẽ chở tôi đi ăn trưa. Khi tôi thức dậy buổi sáng đó, tôi biết có sự gì khác thường đang xãy ra. Tôi cảm thấy tâm linh bồn chồn. Trong thế giới thuộc thể, dường như nó là cảm giác của sự hồi hộp mà không biết lý do gì. Tôi không biết điều gì sẽ xãy ra, nhưng tôi luôn luôn có cảm giác Đức Chúa Trời sẽ làm gì đó với tôi.
Mục sư hội thánh Paul Troquil đến đón tôi ở khách sạn và chúng tôi đi bộ qua đường đến một nhà hàng. Sau khi chúng tôi đã gọi đồ ăn trưa, tôi cảm thấy thúc giục phải trở lại phòng ngủ của khách sạn. Cảm giác một sự khẩn cấp, lập tức tôi nói với Mục sư Paul Troquil: “Tôi không muốn mất lịch sự, tôi phải trở lại khách sạn. Có điều gì đang xảy ra. Tôi không biết là gì.” Vị Mục Sư hỏi, “Có điều gì sai phải không? Hay là ông bịnh?” “Không, không có gì sai cả. Tôi có một sự thúc giục phải trở lại phòng của tôi. Xin lỗi, tha thứ cho tôi.”
Tôi đứng dậy, đi ra khỏi nhà hàng và băng qua đường đến khách sạn. Khi tôi đến phòng của tôi, tôi treo bảng đừng làm phiền ở tay cửa và đóng cửa lại. Tôi nhìn vào đồng hồ, một phút trước một giờ. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra, vì thế tôi cầu nguyện và để Thánh Linh cầu thay. Tôi nghĩ có thể Chúa muốn nói với tôi buổi nhóm tối nay. Tôi cởi áo khoác ngoài ra và quỳ gối xuống bên cạnh giường ngũ. đồng hồ lúc đó chỉ đúng một giờ. Tôi nói, “Đức Chúa Trời ôi, có điều gì không? Việc gì sai trật? Việc gì đang xảy ra? Việc gì?”
Thình lình tôi cãm thấy một sức hút như là tôi đang bị kéo lên ra khỏi phòng. Tôi không có nhìn lại để xem tôi có rời khỏi thân thể như một số người đã diển tả hay không. Tôi nghe một tiếng, Vút! Và tôi đã được kéo lên ra khỏi phòng! Tôi thở hổn hển, Aaaah…. Tôi không biết tôi đang ở trong thân thể hay ở ngoài thân thể. Tôi biết rằng mình đã rời khỏi phòng và di chuyển với một vận tốc thật nhanh, trong một chiếc xe giống như xe điện. Nó là chiếc xe ngựa (chariot) nhưng không có ngựa, cũng không giống những xe ngựa chúng ta thấy trong phim. Tôi đã ở trong xe ngựa đó, tôi có thể thấy xuyên qua những cửa xổ lúc xe ngựa đang chạy, nhưng tôi không biết nó chạy làm sao.
Khi tôi nhìn lên, thấy một người đang đứng. Tôi mới khám phá ra rằng đó là thiên-sứ tóc vàng đã thăm tôi trong phòng ngũ ở Jonesville, Louisana. Tôi hỏi, “Chúng ta đi đâu vậy?” Thiên-sứ mĩm cười và nói, “Anh có một cái hẹn với Đức Chúa Trời, Giê-hô-va.” Tôi cãm thấy xe ngựa chậm lại, rồi sau đó ngừng lại. Khi cửa mở ra, tôi kinh nghiệm một sự giật mình trong cuộc đời của tôi. Tôi đã ở thiên-đàng!
Thiên-đàng dường như không xa lắm, không giống như tôi đã đi ra khỏi những dãy ngân hà của chúng ta. Dĩ nhiên, tôi không phải là nhà thiên-văn, vì thế tôi không biết chắc lắm. Khi tôi bước ra khỏi xe ngựa (chariot), mọi sự tôi thấy quá đẹp. Tôi luôn luôn có ý tưởng rằng, khi đến Thiên-đàng tôi sẽ chỉ thấy một thành phố. Nhưng nơi đầu tiên tôi thấy đó là điạ-đàng (paradise); nó không có bị hủy phá.
Paradise là một chổ lớn, vây quanh Thành-Thánh. Tôi quỳ xuống đất và ngợi khen Đức Chúa Trời, nói rằng, “Ngợi khen Đức Chúa Trời!” Thiên-sứ cũng quỳ xuống nói, “Ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời chí cao!” Chúng tôi cùng nhau thờ phượng Đức Chúa Trời. Tôi rất hứng khởi. Tôi liên tục hỏi Thiên-sứ, “Tôi đang ở đâu? Tôi đang làm gì ở đây?” Thiên-sứ nói, “Anh có một cái hẹn với Đức Chúa Trời vĩ đại Giê-hô-va. Chúng ta phải đi đến Thành-Thánh, anh sẽ hiểu.”
Khi tôi đứng dậy tôi thấy ánh sáng mà tôi chưa bao giờ thấy trong cuộc đời của tôi. Nhìn quanh, tôi mới biết rằng Đức Chúa Trời có những vật ở thiên-đàng với Ngài mà Ngài đã sáng tạo trên mặt đất. Tôi bị vây quanh bởi sự lộng lẫy, đẹp đẽ của những thung lũng, núi và những dòng suối. Tôi thấy cả tuyết, nhưng nó không lạnh tôi thật ngạc nhiên.
Có những bông hoa trên thiên-đàng tôi chưa bao giờ thấy trong cuộc đời của tôi và những mùi hương tôi chưa từng ngưởi. Tôi cũng chưa bao giờ thấy những màu sắc như tôi thấy ở đây. Có màu đỏ, xanh lá cây, tím, xanh da trời, màu vàng. Vàng ròng ở Thiên-đàng giống như vàng ròng ở thế gian tuy vậy nó trong suốt như pha lê. Nó là một vùng đất rất đẹp, có những cây mọc dọc theo dòng sông sự sống, chảy qua khắp nơi quanh paradise (địa-đàng). Có hằng ngàn người đứng chung quanh dưới những cây đó. Họ là những người được mang đến đó trong những chiếc xe giống như xe ngựa (chariot) tôi vừa đi.
Tôi luôn luôn nghĩ rằng mọi người đến thiên-đàng phải trưởng thành, nhưng tôi thấy những trẻ em ở đó. Tôi cũng thấy những con ngựa, chó và mèo; những con mèo lớn giống như sư tử. Mọi người đều hướng về Ngôi Đức Chúa Trời trong Thành-Thánh, mà tôi thấy từ đằng xa. Ngôi của Ngài cao và nhất lên, có thể thấy từ mọi hướng.
Tôi vẩn còn mặc những y phục bình thường, quần jean và áo thun nhưng tôi để ý thấy có nhiều người đến từ những chiếc xe ngựa (chariot) mặc những áo choàng lễ (robe) thật đẹp và lộng-lẫy. Khi họ bước ra những chiếc xe chariot đó, họ chạy thẳng về hướng Thành-Thánh vừa la lên vừa ngợi khen Đức Chúa Trời. Sau đó tôi thấy những người khác không có mặc những áo choàng lễ nhưng họ mặc những áo dài (gown). Họ bắt đầu đi hướng về Thành-Thánh, nhưng họ dường như bị yếu. Tôi thấy họ đi đến những cây, hái những trái cây và ăn. Sau đó họ lấy những lá cây đặt trên mặt của họ hít vào và ngưởi nó.
Tôi hỏi thiên-sứ, “Sự gì đang xảy ra?” Thiên-sứ nói, “Có một số người không có sống cuộc đời đáng phải sống. Họ tin Đức Chúa Trời và yêu mến Chúa Jêsus (Giê-xu) nhưng họ không sống đúng theo khả năng đầy trọn của họ.” Sau đó tôi hỏi, “Vậy họ có thể đến được ngôi Đức Chúa Trời không?” Thiên-sứ nói, “Vâng Đức Chúa Trời thương xót họ. Nhưng họ phải được sửa soạn để được đứng trong sự hiện diện của Đấng Toàn Năng.” Tôi hỏi tiếp, “Điều gì sẽ xãy ra khi họ ăn những trái cây đó?” Thiên-sứ nói, “Họ sẽ được thêm sức.” Thiên-sứ nói tiếp, “Khi đến gần thành thánh, sự sức dầu và ánh sáng sẽ mạnh hơn. Có thể bị mù khi đến trước Ngôi.” Sau đó tôi thấy một người bước ra khỏi xe chariot giống như của tôi. Ông ta mặc một áo dài (gown) chớ không phải áo lễ (robe). Ông ta nói, “Tôi không nghĩ là mình được cứu nhưng tôi lại được!.” Rồi ông ta úp mặt xuống đất và hôn mặt đất. Thiên-sứ đã mang ông ta đến đở ông ta dậy và nói, “Hãy đến, hãy đến, con của tôi.” Sau đó thiên-sứ mang ông ta đến những cây đó và nói, “Hãy ăn những trái cây nầy và ngưởi những lá cây nầy.”
Tôi phát hiện ra những lá cây đó là sự chữa lành cho các dân tộc mà sứ-đồ Giăng đã nói đến trong sách Khải-Huyền 22:1-2 “Thiên-Sứ chỉ cho tôi xem sông nước sự sống trong như lưu ly, từ ngôi Đức Chúa Trời và chiên Con chảy ra. Ở giửa phố thành và trên hai bờ sông có cây sự sống trổ mười hai mùa, mỗi tháng một lần ra trái; và những lá cây đó dùng để chữa lành cho các dân.”
Tôi thấy những trái cây đó giúp những người đó đứng trong sự vinh hiển Đức Chúa Trời. Tôi hỏi thiên-sứ đi với tôi, “Ông đó có đến được ngôi Đức Chúa Trời không?” Thiên-sứ nói “Ông ta chỉ vừa đủ để được vào, nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta hay thương xót!.”
Tôi biết đoạn Kinh-Thánh nói: Lìa khỏi thân thể là được hiện diện với Chúa (IICô-Rinh-Tô 5:8). Tôi nghĩ đều đó sẽ xãy ra lúc chúng ta bước qua thế giới bên kia. Mặc dầu một số người không có sống cho Đức Chúa Trời như họ phải sống, Đức Chúa Trời giàu lòng thương xót. Ngài vẫn giúp đở họ và đụng đến họ, nhưng họ phải được dạy bảo. Đều gì mà họ không học ở thế gian nầy, họ sẽ học ở đó. Những áo choàng lễ (robe) và áo dài (gown) thật đẹp. Sau khi tôi đã thăm thiên-đàng, tôi bắt đầu tìm hiểu về những quần áo tôi đã thấy. Tôi tìm gặp trong Ê-Sai 61:10-11 nói rằng Đức Chúa Trời đã cho áo cứu rỗi (gown) và áo choàng công bình (robe). Có sự khác biệt giữa hai cái áo đó. Hãy nhìn vào sự giải thích của Ê-Sai:
Tôi sẽ rất vui-vẻ trong Đức Giê-hô-va linh hồn tôi mừng rở trong Đức Chúa Trời tôi; vì Ngài đã mặc áo cứu rỗi cho tôi; khoác áo choàng công bình cho tôi, như chàng rễ mới diện mão hoa trên đầu mình, như cô dâu mới dồi mình bằng châu báu.
Vã như đất làm cho cây mộc lên, vườn làm cho hột giống nứt lên thể nào, thì Chúa Giê-hô-va cũng làm cho sự công bình và sự khen ngợi nứt ra trước mọi dân tộc thể ấy.
Có một số người không có sống gần gủi Chúa mà họ phải sống. Họ biết Chúa Jêsus là Đấng cứu thế của họ, nhưng họ không làm gì hơn. Ở Thiên-đàng dần dần họ sẽ đến được Ngôi Đức Chúa Trời, nhưng họ phải mất nhiều thời gian. Sứ đồ Phao Lô dạy rằng khi chúng ta được cứu chúng ta phải là những thí dụ của sự công bình của Đức Chúa Trời. Hãy xem II Cô-Rinh-Tô 5:20-21:
Vậy chúng tôi làm chức khâm sai của Đấng Christ, cũng như Đức Chúa Trời bởi chúng tôi mà khuyên bảo. Chúng tôi nhơn danh Đấng Christ mà nài xin anh em; hãy hoà-thuận với ức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội-lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời.
Khi tôi cãm thấy yếu, Thiên-Sứ đi đến những cây đó, hái một vài trái và mang nó lại cho tôi. Tôi không biết nó là loại trái cây gì, nhưng nó không phải là trái bôm (apple), nó chua chua ngờt ngờt nhiều nước và có màu vàng giống như màu của đồng. Thiên-Sứ nói cùng tôi, “Hãy ăn trái cây nầy để anh có thể chịu đựng nổi sự vinh hiển củaĐức Chúa Trời.” Thế là tôi ăn và được lại sức.
Tôi muốn nhìn quanh để thấy mọi sự. Tôi giống như một con chim đại bàng trên đỉnh núi cố gắng thấy mọi sự phía bên dưới, đến ngay cả lá cỏ. Tôi không muốn hụt mất bất cứ điều gì. Tôi luôn luôn nghĩ rằng Điạ-đàng (Paradise) không còn nửa, nhưng Đức Chúa Trời đã mang nó lên Thiên-đàng và giữ đó cho chúng ta. Thiên-Sứ họi tôi, “Anh có khát không?” Tôi nói, “Vâng.” Thiên-sứ nói, “Tôi sẽ lấy đồ cho anh uống.”
Có một người cao lớn, bộ ngực dạm dở bên kia dòng sông. Ông ta nói, “Tôi sẽ mang đến cho anh ta.” Tôi thấy ông ta có một cốc bằng vàng trong tay. Ông ta cúi xuống và nhận nó vào dòng sông. Con sông đó trông không lớn bằng sông Mississippi. Nó giống như một con lạch, một con suối lớn hay con rạch; chỉ có điều là nó tinh sạch và trong.
Tôi để ý người đàn ông có tầm vóc lớn đó, ông ta dường như lớn tuổi lắm; tuy vậy ông ta trông rất trẻ-trung, trên mặt ông ta không có những nếp nhăn. Khi tôi thấy ông ta, tôi biết trong tâm linh tôi ngay lập tức ông ta là ai, ông ta là Ab-ra-ham và tôi là dòng d ?i của ông. Đây là ông cố tổ, cố tổ, cố tổ của tôi. Nếu không có ông, tôi sẽ không có ở đây.
Sứ đồ Phao Lô dạy trong Ga-la-ti 3:14 phước hạnh ban cho chúng ta (người ngoại) nhọ Chúa Jêsus mà chúng ta có thể nhận lãnh lời hứa của Thánh Linh bởi đức tin, và sự liên hệ của chúng ta với Ab-ra-ham như dòng dỏi của ông ta được giải thích trong Ga-la-ti 3:26-29:
Vì chưng anh em bởi tin Đức Chúa Jêsus-Christ nên hết thảy đều là con trai của Đức Chúa Trời. Vả, anh em thảy đều chịu phép báp têm trong Đấng Christ, đều mặc lấy Đấng Christ vậy.
Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đ ?n ông hoặc đ ?n bà; vì trong Đức Chúa Jêsus-Christ, anh em thảy đều làm một. Lại nếu anh em thuộc về Đấng Christ, thì anh em là dòng dỏi của Ab-ra-ham tức là kẻ kế-tự theo lời hứa.
Tôi theo dỏi Ab-ra-ham khi ông đi đến cùng chúng tôi. Ab-ra-ham đưa tôi cái cốc và nói, “Hởi Jesse! Hãy uống nước nầy!” Tôi không thể nào dời mắt tôi khỏi Ab-ra-ham. Để chắc chắn, tôi hỏi, “Ông là ai?” Ông ta nói, “Tôi là Ab-ra-ham. Địa-đàng là chổ của tôi.” Tôi cãm thấy tôi đã biết ông giống như cha của tôi vậy. Tôi sấp mặt xuống trước ông, nhưng ông ta nói, “Hãy đứng dậy. Chỉ có Đấng mà anh thờ phượng chính là Chúa Đức Chúa Trời. Tôi là một người đầy tớ. Tôi đến để giúp anh. Tôi gặp mọi người đến đây, vì điạ-đàng (paradise) là lòng của tôi.” Khi tôi đứng dậy, Ab-ra-ham nói, “Tôi sẽ giúp anh.” Sau đó Ab-ra-ham hỏi tôi, tôi thấy thế nào. Tôi nói, “Tôi khoẻ, ngợi khen Đức Chúa Trời!” Nó bắt đầu bằng một chuổi dài đáp ứng, khi những người đứng gần chúng tôi ngừng lại và ngợi khen Đức Chúa Trời. Âm-thanh của sự ngợi khen dường như vang khắp điạ-đàng (paradise). Ab-ra-ham nói, “Hãy uống nước nầy. Nó sẽ giúp anh.” Thế là tôi uống. Nó rất mát và làm tươi tỉnh.
Ab-ra-ham bảo Thiên-sứ, “Hãy mang anh ta đi. Anh ta phải đứng trước mặt Đức Chúa Trời tối cao.” Nhưng tôi muốn nói chuyện thêm với Ab-ra-ham. Câu Kinh-Thánh mà tôi thích nhất chính là Rô-ma 4:17 nói về Ab-ra-ham, nói ông ta gọi những sự đó không có như có rồi. Giống như Ab-ra-ham, tôi không muốn lưỡng lự hoặc hồ nghi nhưng càng mạnh mẽ (Hãy xem Rô-ma 4:19-21). Ab-ra-ham nói với tôi, “Tôi sẽ gặp anh lại. Tôi phải gặp những người khác đã đến đất phước hạnh nầy.” Thiên-sứ nói, “Chúng tôi phải đem anh đến Thành-Thánh nơi anh có cuộc hẹn.”
Sau đó chúng tôi đứng sắp hàng với những người khác và bắt đầu đi hướng về Thành-Thánh. Khi chúng tôi đi bộ một khoảng, chúng tôi đi đến lối của bông hoa. Mùi hương và vẻ đẹp của nó ngoài sức tưởng. Thoạt đầu tôi không muốn bước lên nó, nhưng Thiên-sứ nói, “Hãy đi lên nó.” Tôi bèn bước lên nó. Tôi thật ngạc nhiên khi thấy những bông hoa không bị dập khi chúng tôi bước lên. Sau đó tôi phát giác ra rằng không có sự chết trên thiên-đàng. Những bông hoa đó đã dựng lên trở lại và hướng về chúng tôi khi chúng tôi đi qua, để chúng tôi luôn luôn thấy vẽ đẹp của nó. Tôi để ý không thấy có lá khô trên bất cứ cây nào và cũng không có bụi ở Thiên-đàng và cũng không có gì gẫy vỡ hoặc đỗ nát ở đó.
Đang đi bộ với thiên-sứ, tôi để ý không thấy bóng của tôi. Tôi liên tục nhìn xuống, Thiên-Sứ hỏi tôi, “Anh đang tìm kiếm gì vậy?” Tôi nói, “Tôi không có bóng.” Thiên-sứ nói, “Trong nơi này. Không có sự tối tăm. đức Chúa Trời là sự sáng trong Ngài không có sự tối tăm, không có bóng tối.” Thiên-Sứ không có trích Kinh-Thánh, nhưng tôi biết rằng điều thiên-sứ nói ở trong Kinh-Thánh; I Giăng 1:5 nói, Đức Chúa Trời là sự sáng trong Ngài chẳng có sự tối tăm. Gia cơ 1:17 giải thích mọi ân điển tốt lành đều ban xuống từ Cha sáng láng, Ngài không thay đổi như những bóng của sự biến cải. Tôi nói, “đợi tôi một chút, để tôi xem nếu tôi có thể làm một cái bóng.” Thiên-sứ nói, “Tôi đã bảo anh không có sự tối tăm. đây là nơi của sự sáng _ mọi sự đều sáng. Đức Chúa Trời đầy dẫy mọi sự.”
Tôi nhìn lên những dãy núi, tôi nhìn đến những dòng suối. Tôi nhìn khắp mọi nơi để xem có bóng nào không. Nhưng tôi không thấy sự tối tăm nào cả, mọi sự đều sáng; sự sáng thật phi thường bên cạnh sự suy tưởng của nhân loại.
Có một mùi hương trong không khí, thế là tôi họi thiên-sứ, “Mùi gì vậy?” Thiên-Sứ nói, ” Đó là mùi thơm của Đức Chúa Trời. Ngài trong mọi sự ở đây.” Tôi hiểu là Thiên-Sứ muốn nói đến mùi thơm toả khăp Thiên-đàng. Một lần nữa tôi sấp mặt xuống đất và bắt đầu thờ phượng Đức Chúa Trời. Tôi nói, “Giê hô va Đức Chúa Trời vĩ đại!” Thiên-Sứ cũng nói, “Ngợi khen Chúa, Đức Chúa Trời chí cao!”
Thình lình tôi nghe những đứa trẻ hát và ngợi khen Đức Chúa Trời. Rồi tôi thấy chúng nó cầm những cây đàn harp nhỏ. Tôi suy nghĩ không biết những đứa trẻ đang làm gì ở đây? Như tôi đã nói lúc trước, thần học mà tôi đã học dạy rằng không có những đứa trẻ trên Thiên-đàng. Vì thế tôi hỏi Thiên-sứ, “Những đứa trẻ nầy đến từ đâu?” Thiên-sứ trả lời, “Những đứa trẻ nầy là những đứa trẻ mà thế gian không muốn. Đức Chúa Trời đã mang chúng nó đến đây.” Tôi hỏi tiếp, “Nhưng tôi nghĩ mọi người lên Thiên-đàng vì sự chọn lựa của họ.” Thiên-sứ đáp, “Không, Jesse, những đứa trẻ phải được dạy những sứ điệp của Đức Chúa Trời.”
Tôi thấy có nhiều người dạy những đứa trẻ đó, thế là tôi hiểu rằng Đức Chúa Trời dùng người và Thiên-Sứ để dạy những đứa trẻ đó ở Thiên-đàng về Ngài.
Sau đó tôi hỏi, “Có phải Thiên-sứ nói về phá Thai không?” Thiên-sứ nói, “Vâng. Những đứa trẻ nầy không thể đợi để thấy mẹ chúng nó.” Tuổi của những đứa trẻ tôi thấy dường như từ ba đến mười tuổi. Những ấu nhi thì ở một nơi khác.
mọi người hát vang vui mừng và những đứa trẻ đó chơi những bài hát rất hay bằng đàn và ca hát. mọi người rất hứng cảm. Sau đó tôi nghe một tiếng thì thầm. Những người mặc áo lễ (gown) đang nhìn về phía Thành-Thánh. Những người chung quanh tôi bắt đầu nói, “Ngài đang đến! Ngài đang đến! Ngài đang đến!” Tôi hỏi Thiên-sứ, “Ai đang đến?” Thiên-Sứ đáp, “Ngươi sẽ thấy Đấng-Thánh.”
Thình lình tôi thấy một Ánh Sáng xuất ra từ Thành-Thánh, nhưng xa từ nơi tôi. Những đứa trẻ chạy hướng về Ánh-Sáng đó. Tôi biết đó chính là Chúa Jêsus! Tôi không thể thấy mặt Ngài vì tôi cách quá xa. Điều tôi có thể thấy là tay của Ngài dơ ra ôm những đứa trẻ khi chúng chơi đàn, hát và ôm lấy Ngài. Những đứa trẻ nầy chiêm ngưỡng Chúa Jêsus. Sao đó tôi nghe Chúa Jêsus nói, Hãy để con trẻ đến cùng ta…vì nước Đức Chúa Trời thuộc về những kẻ giống như con trẻ (Mác 10:14).
Thiên-sứ nói cùng tôi, “Chúng ta phải đi đến Thành-Thánh.” Khi chúng tôi đi về hướng đó, Thiên-sứ nói, “Anh sẽ bị yếu dần và yếu dần.” Thiên-sứ giữ những trái cây cho tôi và cho tôi ăn thường xuyên.
Tôi để ý thấy những người trong áo lễ (gown) ra khỏi những cây đó và đi hướng về Thành-Thánh. Họ sắp đến đó; sau đó họ ngừng lại, quay lại và đi trở lại. Dường như họ rất buồn. Tôi nghe một vài người nói, “Không có gì buồn ở đây. Hãy ăn cây sự sống, ngưỡi những lá cây cho sự chửa lành và để tâm linh mình gia tăng. Bạn sẽ đứng ở Ngôi Đức Chúa Trời.” Sau đó tôi thấy những người mặc những chiếc áo choàng (robe) của sự công bình đi thẳng vào trong Thành-Thánh.
Khi chúng tôi đi tới Thành-Thánh, chúng tôi đến bức tường bích ngọc được diển tả trong sách Khải-Huyền. Bức tường khổng lồ! Chiếu theo sách Khải-Huyền 21:17, bức tường 144 cubit, (chừng 72 yard). Chúng ta không biết đó là độ cao hay độ dầy nhưng thành-thánh chừng 1500 dặm; chiều dài và chiều ngang và chiều cao nó bằng nhau. Tôi muốn thấy những tên trên nền của tường đã được diển tả trong sách Khải-Huyền chương 21:14,18,19,22,23.
Tường của thành có mười hai cái nền, và trên đó có tên của mười hai sứ đồ của Chiên Con…
Tường thì xây bằng bích ngờc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thủy tinh trong vắt.
Những nền tường thành thì trang sức đủ thứ ngờc..
Ở đó tôi không thấy đền-thờ nào; vì Chúa là Đức Chúa Trời toàn năng và Chiên Con là đền thờ của thành. Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng để soi sáng, vì vinh hiển của Đức Chúa Trời chói lói cho, và Chiên Con là ngọn đèn của thành.
Thiên-sứ bắt đầu đi vào bên trong, nhưng tôi nói, “Xin ngừng lại! Tôi đã đọc về đều nầy. Tôi muốn thấy tên các các sứ đồ.” Tôi nhìn vào những cây trụ. Tên đầu tiên tôi thấy trên những nền của Thiên-đàng là Phi-e-rơ, Phao Lô, Gia cơ và Giăng. Tôi bắt đầu la lên với sự vui mừng, vì tôi thấy tên những người đó mà tôi đã học. Thiên-sứ nói, “Hãy đi nhanh lên. Anh phải đến cho kịp cuộc hẹn.” Nhưng tôi muốn thấy tên của những người đó. Tôi nói, “Tôi có thể giảng về đều nầy trên mặt đất. Hãy để tôi nhớ những tên nầy theo thứ tự trong trí của tôi.” Nhưng Thiên-sứ nắm tay tôi và nói, “Hãy đi.” Thế là chúng tôi vào trong xe ngựa (chariott) của chúng tôi và đi vào trong Thành-Thánh.
Bên phải Thành-Thánh tôi thấy Sách Sự Sống. Nó khổng lồ chừng năm feet năm inches chiều đứng và dầy một inch rưởi. Nó được bọc bằng một tấm vải bằng vàng và có chử khắc đậm ở trên. Có nhiều người đứng vòng quanh nó, nhưng tôi không biết họ đang làm gì. Thiên-sứ không để tôi ngừng ở đó.
Khi chúng tôi đi xuống những con đường, tôi thấy một người với cái vương miện trên đầu; sau nầy tôi khám phá ra đó là vua Đa-vít. Tôi nói với Thiên-sứ, “Xin ngừng. người nầy là ai?” Thiên-sứ nói, “Một chút nữa anh sẽ gặp ông ta.” Rồi chúng tôi tiếp tục đi. Thình lình,Tthiên-sứ ngừng xe của chúng tôi lại và nói, “Hãy quỳ xuống. Ngài ở đây.” Tôi cãm thấy yếu đi và qụy xuống gối của tôi. Thiên-sứ đưa tôi trái cây và nói, “Hãy ăn.” Tôi bèn ăn. Khi Chúa Jêsus đi hướng về chúng tôi, những đứa trẻ đó chạy đến Ngài. Chúng nó hát ngợi khen Ngài, và Ngài ôm lấy chúng nó. Khi những đứa trẻ hát, Ngài vui với chúng nó. Với tôi, Chúa Jêsus giống như tia ánh sáng. Ngài qúa vinh hiển. Ngài hướng về tôi, và tôi ngã xuống chân Ngài. Tôi nói một cách cung kính, “Đức Chúa Trời ôi!” Ngài nói, “Ta đây.”
Khi tôi đang quỳ, tôi để ý thấy chân chúa Jêsus giống như đồng sáng. Tôi nghĩ sẽ có những dấu thẹo trong tay và chân Chúa. Không giống như Ngài đã bị cắt và mang thẹo, tôi có thể thấy những lổ trong chân của Chúa Jêsus. Nó rất lớn – chừng kích thước của một đồng 5 xu (nickel) – ánh sáng chiếu sáng qua nó. Tôi mới biết rằng những cây đinh đã đóng vào tay chân Chúa phải lớn lắm.
Chúng ta không thật sự hiểu Chúa Jêsus phải chịu đau đớn trên thập tự giá dử dội như thế nào. Không có danh từ nào có thể diển đạt được sự đau đớn mà Ngài phải chịu. Chúa Jêsus đặt tay Ngài trên vai tôi và nói, “Jesse, hãy đứng dậy.” Tôi đứng dậy và nhìn Chúa Jêsus. Có một sự vinh quang xuất phát từ Chúa Jêsus giống như những lượng sóng của sự vinh hiển. Sự sáng xuất phát từ Chúa Jêsus. Y phục của Ngài rất đẹp và trong giống như những kim cương lấp lánh.
Chúa Jêsus cao hơn đều tôi suy nghĩ về Ngài. Tôi đoán Ngài cao khoảng năm feet mười một inch cho đến sáu feet một inch. Thoạt đầu tôi nghĩ tóc Chúa Jêsus trắng; nhưng khi Chúa quay đầu của Ngài, tôi thấy thoáng qua nó màu nâu. Khi Chúa Jêsus nhìn tôi, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời xuất phát từ Ngài. Tôi nói, “Chúa Jêsus!” Ngài nói, “Ngươi có thích nơi nầy không?” Tôi nói, “Thưa vâng.” “Hãy bảo dân ta, ta đang đến.” Việc đầu tiên tôi làm là thú nhận tội lỗi của tôi với Chúa. Tôi nói cùng Chúa, “Con không xứng đáng là người chúa mong muốn, con đã phạm nhiều lỗi lầm.”
Khi bạn đến Thiên-đàng, điều mình muốn làm là ăn năn! Nhưng Chúa Jêsus nói, “Con đã được tha rồi. Ta muốn con trở lại và bảo dân ta là ta sẽ đến.” Tôi đáp, “Nhưng họ không tin con.” Chúa Jesus nói “họ đã không tin hằng thế kỷ, nhưng ta đến và ta sẽ đến lần nữa.” Sau đó Chúa đặt tay trên vai tôi. Tôi không bao giờ quên. Ngài nhìn tôi và nói, “Có nhiều điều ngươi sẽ thấy và học hỏi ở đây, nhưng ta đã mang ngươi đến đây để ngươi bảo dân ta là ta sẽ đến.” Tôi nói, “họ biết điều đó.” “Không, họ không biết điều đó. Ta mang ngươi đến đây để ngươi bảo họ là ta sẽ đến. Ngươi có nghe ta không? Ta sẽ đến, hãy đi bảo cho họ.”
Bạn có thể hỏi, “Chúa Jêsus hình dạng ra sao? Chúa Jêsus rất đẹp – không chỉ đẹp trai, nhưng thật đẹp. Khi tôi nhìn vào Chúa, tôi thấy tình thương và sự nhân từ. Chúa là tình thương. Ngài có thể nhìn thấu một người. Sự vinh hiển xuất phát ra từ Ngài. Cặp mắt của Chúa giống như những giếng nước tình thương và Chúa là màu sắt của ánh sáng. Khi bạn vương ra để ôm Chúa có một phản ứng tự động: Chúa ôm lấy bạn. Chúa có thể nhìn vào hằng triệu người tuy vậy bạn là người duy nhất mà Chúa thấy. Sau đó tôi nói, “Có phải Chúa đã chăm sóc những đứa bé đó không?” “Ta không để mất đứa nào cả,” Chúa nói. Thỉnh thoảng một ý tưởng vào trong trí tôi, và trước khi tôi nói, Chúa đã trả lời tôi. Trong trí tôi tôi nghĩ chắc Chúa giận những người đó lắm. Trả lời, Chúa nói, “Không ta tha thứ cho họ, vì họ không biết điều họ làm. Nhưng có nhiều người có sự hiểu biết Ta là ai và họ sẽ chia sẽ đời sống và sự đời đời của họ với ơn ta đã gởi đến thế gian.” Chúa nói nhưng dường như Đức Chúa Cha nói xuyên qua Ngài.
Trong khi nói chuyện với Chúa Jêsus, tôi có thể thấy sự xúc cảm lớn mà Ngài có cho những người chưa nhận Ngài làm cứu Chúa của họ. Chúa yêu cầu tôi bảo cho mọi người biết là Ngài sẽ sớm trở lại! Tôi đoán đó là lý do tại sao tôi không được an nghĩ trong cuộc đời của tôi. Có một sự thúc dục trong giọng nói của Chúa Jesus. Chúng ta biết điều gì đó sẽ sắp sửa xãy ra. Chúa Jêsus sẽ trở lại nhanh chóng!
Có thể bạn muốn thấy Chúa Jêsus, muốn thấy Thiên-đàng, muốn nhìn vào những cây bông và đi bộ trên những con đường bằng vàng. Có thể bạn muốn thấy Thành-Thánh với sự lộng lẫy rực rở. Trí óc của chúng ta không thể hiểu biết những gì Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Đó là lý do chúng ta cần một thân thể mới để chúng ta có thể tiếp thụ điều Đức Chúa Trời có cho chúng ta. Nó cũng là lý do tại sao tôi muốn bảo mọi người tôi gặp, hãy tiếp nhận sự thật là Chúa Jêsus đã chết thế vào chổ của họ hầu cho tội lỗi của họ được tha thứ. Tôi đã thấy Thiên-đàng và biết điều gì đang chờ đợi mỗi người ở đó. Đó là lý do tôi muốn mọi người đặt Chúa Jêsus làm chủ cuộc đời của mình và tiếp nhận những phước hạnh Đức Chúa Cha dành cho họ.
Chúa Jêsus ôm lấy tôi khi Ngài nhìn một người đang đội mảo đi bộ hướng về chúng tôi. Sau đó Chúa Jêsus nói với tôi, “Ta muốn ngươi gặp một vì vua khác.” Tôi nhận ra ông ta là người mà tôi đã thấy lúc trước. Ông ta có mái tóc đen và râu đen. Tôi biết ngay lập tức đó là vua Đa-vít; khi ông ta đến gần chúng tôi, ông ta nói với Chúa Jêsus, “Tôi xin quỳ trước vì Vua của các vua.” Chúa Jêsus nói, “Jesse, ta muốn ngươi gặp vua của Do-Thái.” Chúa Jêsus nói, “Hãy đem Jesse đến ngôi nhà của ông ta. Cho ông ta xem ngôi nhà mà ta đã sửa soạn cho. Sau đó mang Jesse đến Ngai của ta. Ta phải đi. Cha ta muốn ta.” Sau đó Ngài quay đi. Tôi nhìn vào người mà Chúa Jêsus đã giới thiệu và nói, “Chào.” Tôi không biết phải nói gì. Tôi hỏi, “Có phải tên ông là Đa-vít không?” Ông ta trả lời, “Vâng”. Quỳ xuống tôi nói, “Chào vua!” Ông ta nói ” Đừng quỳ trước tôi. Anh vừa nhìn vào Vua của các vua. Tôi được đặt để dẩn anh đi khắp nơi.” Tôi hỏi, “Tôi có thể làm điều gì cho ông không?” Ông ta trả lời, “Anh không hiểu; chúng tôi là những người đầy tớ ở đây. Chúng tôi ở đây để phục vụ anh. Anh muốn gì, Jesse? Anh cần gì?”
Tôi kiếm xem có bóng vòng quanh Thiên-Sứ không. Ông ta hỏi, “Anh đang tìm gì?” Tôi nói, “Ông không có bóng.” Tôi vẫn còn ngạc nhiên bởi sự thật là không có bóng tối. Không! Tất cả đều sáng! Khiến tôi thật ngạc nhiên. Thiên-Sứ nhìn vào tôi và giải thích như lúc trước, “Không, không có sự tối tăm ở đây. Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài không có sự tối tăm, không có bóng của sự biến chuyển.” Sau đó vua Đa-vít nói, “Tôi được đặt để bởi Chúa để dẩn anh tới nhà của anh.” “Chổ của tôi?” Tôi nói.
Tôi rất muốn ở lại nơi bức tường hồng bích. Tôi muốn nói chuyện thêm nửa với Ab-ra-ham và với Chúa Jêsus. Tôi rất thích vị Thiên-Sứ đó. Tôi muốn nhìn vào những con đường bằng vàng và ngưỡi những bông hoa. Nhưng có một chương trình phải giử.
Đa-vít đẩn tôi vào một ngôi nhà, tôi không biết nó thuộc về ai. Chúng tôi đi vào một sảnh đường thật đẹp và bởi bức tường trong góc tôi thấy sứ-đồ Phao Lô đang ngồi với nhiều người. Tôi không thể bảo thêm cho bạn về ngôi nhà vì cặp mắt của tôi gắn chặt vào sứ-đồ Phao Lô. Sứ-đồ và những người đó đang bàn luận lời của Đức Chúa Trời. Sứ-đồ Phao Lô thì thấp! Tôi để ý thấy Sứ-đồ đang ngồi trên băng ghế nhưng chơn của ông không đụng đến mặt đất. Sứ-đồ Phao Lô nhìn lên chúng tôi và nói, “Jesse!” Tôi nói, “Ông ấy biết tên của tôi!” Phao Lô hỏi, “Jesse người ta nói gì về tin lành của tôi?” (Ông ta vẫn gọi nó là tin lành của ông.) Tôi nói, “Tôi giảng mọi điều ông nói. mọi điều! nếu sứ-đồ trở lại sẽ thấy tôi sao y bản chánh. Tôi thật giảng mọi điều ông nói. Những bức thư của ông thật tuyệt vời!”
Ông ta mĩm cười ở tôi. Tôi muốn nói chuyện thật lâu với sứ-đồ. Ông ta vẫn còn là thầy giáo, và tôi cảm giác rằng sứ đồ Phao Lô biết những điều mặc thị xâu xa để khi chúng ta đến Thiên-đàng chúng ta sẽ thích thú học. Tôi bị thu hút bởi sự hiểu biết của Phao Lô. Ông ta vẫn còn giải thích và dạy những người khác về Đức Chúa Trời.
Tôi nói với sứ đồ Phao Lô, “Ông được mang lên từng trời thứ ba. Tôi đã đọc trong kinh-thánh là ông đã được đem lên.” Tôi đang nghĩ đến II Cô-Rinh-Tô 12: 2 Tôi biết một người trong Đấng Christ cách đây mười bốn năm, (nếu mà trong thân thể, hay là ngoài thân thể, tôi không thể bảo nhưng Đức Chúa Trời biết;) đã được cất lên từng trời thứ ba.
“Giống như anh vậy,” Ông ta ngắt lời. “Thật, đây là một nơi tuyệt vời!,” Tôi nói. Sứ-đồ Phao Lô đồng ý và nói, “Tôi phải mất cả đời sống của tôi để đuợc ở đây.” Tôi có nhiều điều để nói với sứ-đồ Phao Lô. Tôi bảo sứ-đồ, “Tôi nghĩ ông là một người thông minh trí tuệ nhất được lôi kéo vào Cơ-Đốc-Giáo.” “Cám ơn,” Ông ta nói. “Chúa đã nhân từ đối với tôi.” Sứ-đồ thật khiêm nhường! sự khiêm nhường của ông đã dạy dỗ tôi. Tôi đoán nếu có một người anh hùng trong kinh-thánh, đó phải là sứ-đồ Phao Lô. Ông ta đã giữ đức tin mặc dầu những hoạn nạn bắt bớ lớn. Ông ta đã được sanh trong một gia đình lỗi lạc, là người vâng giữ luật pháp và là người Pharisee thuộc bộ lạc Bên-gia-min. Ông ta đang leo lên đỉnh cao nhưng khi ông gặp chúa Giê-xu ông đã đi đến điễm cao con người có thể leo. Ông ta đã giử đức tin, đã chiến đấu và hoàn thành cuộc đua. Tôi cũng quyết định đánh trận tốt lành giống như sứ-đồ Phao Lô. Tôi muốn được nói về tôi, “Anh ta đã giữ vững đức tin.” Và tôi đã làm điều đó. Tôi không nói điều đó một cách vô ý thức vì mỗi chúng ta có thể quyết định và đặt để chúng ta làm những điều mà chúng ta quyết định làm. Tôi nói với Phao Lô, “Ông đã trãi qua sự bắt bớ lớn.” Ông ta trả lời, “Vâng. Nhưng tôi đã giử đức tin. Tôi tập trung đời sống của tôi trên đức tin. Đó là cách mà anh hoàn thành sự việc.” Câu nói kế tiếp ông ta nói là câu tôi đã dùng trong những bài giảng. Ông ta nói, “Sự hoạn nạn của chúng ta chỉ có chốc lác. người ta lại xem nó như suốt đời. Hãy đổi nó lại chỉ một giây lác.” Tôi nổi da gà khi tôi nghĩ đến nó! Nó chỉ là giây lác, không phải suốt đời. “Hãy đổi nó lại một giây lác,” Ông ta bảo tôi.
Tôi đã dùng câu nói của Phao Lô trong những buổi giảng và người ta đã khen tặng tôi, nhưng lời đó không đến từ tôi, nó đến từ Phao Lô. Hãy nhìn vào Phao Lô nói trong sách II Cô-Rinh-Tô 4:17,18:
Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng, vô biên; Bởi chúng ta chẳng xem sự thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm-thọi, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy.
Phao Lô tiếp tục nói với tôi, “Hãy đổi nó lại chốc lác, Jesse.” Rồi ông ta thì thầm, “Hãy đổi nó lại chốc lác. Đừng coi nó suốt đời. Tôi đã giử đức tin, và đó là điều phải làm và hoàn thành.” Tôi không bao giờ quên lời nói của sứ-đồ Phao Lô trọn đời sống tôi. mọi sự khó khăn tôi đã có đã lăn khỏi lưng của tôi sau cuộc hành trình đến Thiên-đàng năm 1988. Sau đó Phao Lô mĩm cười ở tôi và nói, “Không bao giờ thay đổi sứ điệp vì cớ người nghe. Hãy nói điều gì Đức Chúa Trời ban cho anh.” Tôi viết những điều đó xuống khi tôi trở lại tôi sẽ không quên điều Phao Lô nói với tôi. Tôi còn đang nói chuyện với Phao Lô thì Đa-vít và Thiên-sứ bảo tôi hãy đi cho kịp cuộc hẹn. Đa-vít dường như muốn để tôi có thêm giờ, nhưng Thiên-sứ luôn luôn nhắc tôi là tôi còn có nhiều chổ cần phải đi.
Khi Đa-vít đi bên cạnh tôi, tôi nói với ông ta, “Ông luôn luôn là một đặc tính thích thú cho tôi. Tôi được nói tiên tri hòi nhỏ là tôi có cuộc đời giống ông.” Ông ta cười và nói, “Anh có những điều đang chờ đợi anh!” Tôi cũng cười. Tôi bảo Đa-Vít tôi cũng là một nhạc sĩ. Ông ta dường như sáng lên vì nhạc là ơn của ông. “Dĩ nhiên, tôi không có viết những bài nhạc như ông viết,” Tôi nói thêm. Đa-Vít cười lần nữa. Tôi cãm thấy là tôi biết Đa-vít suốt đời của tôi. Nhân cách của ông ta thật mạnh mẽ và oai nghiêm. Nhưng ông là một người đầy tớ, bởi Đức Chúa Trời đã làm việc trong ông. Ông ta dường như là một người bạn, tuy vậy ông ta là một vị vua. Ông ta là người duy nhất tôi thấy có vương miện trên đầu ngoài Chúa Jêsus ra. Có một sự tôn kính về ông, và sự tôn kính lớn được bài tỏ với ông bởi những người đi qua. Đa-vít có một nụ cười truyền cãm. Có người bảo tôi là tôi có hàm răng xinh, nhưng răng của ông ta thật đẹp. Đa-vít rất ít cười. Khi cười thì rung chuyển cả thân người. Tôi cảm thấy thoải mái với ông ta. Tôi hỏi Đa-vít làm thế nào ông có được những tư tưởng cho bài hát của ông, tôi biết nhiều nhạc sĩ lấy những tư tưởng từ mọi khía cạnh sáng tạo. Ông ta trả lời, “Từ Chúa.” Chúng tôi đều cười. Ông ta tiếp tục, “Tôi thật đã viết nhạc về những kinh nghiệm riêng của tôi, giống như nhiều người khác đã làm. Nhưng những bài tốt hơn là khi tôi bài tỏ sự chủ tể của Chúa trong tôi hơn là sự khó khăn tôi nói đến.” Đa-vít không nói điều nầy, nhưng tôi biết ông ta muốn nói đến một số người nhặt lấy những khó khăn của ông cũng như là điều họ cũng phải trãi qua. Nhưng điều ông muốn nói là khi ông để Đức Chúa Trời hướng dẩn, ông có thể viết những sứ điệp đầy ơn như, Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; tôi cũng sẽ chẳng thiếu thốn gì.
Ông ta dùng Thi-Thiên 23 như một thí dụ khi ông ta giải thích, “Tôi đã để Chúa và sự xức dầu của Ngài xuyên qua bài hát đó. Trong những bài hát khác tôi đã ca một cách mạnh mẽ về sự khó khăn của tôi. Đúng ra tôi phải ngợi khen Chúa nhiều hơn về sự trả lời của Ngài thay vì phàn nàn.” Đó không phải là những lời chính xác của Đa-vít, nhưng tôi biết đó chính là điều ông muốn nói. Sau đó Đa-vít thêm, “Tôi mong ước tôi đã viết thêm những bài hát về sự trả lời của Đức Chúa Trời hơn là về sự khó khăn của tôi. Nếu tôi đã lắng nghe Chúa, tôi sẽ không phải trải qua một số điều. Bây giờ anh có dấu tích của tôi, hãy đi theo dấu tích Đức Chúa Trời bảo tôi và anh sẽ không phải trải qua một số điều mà tôi đã đi qua.” Tôi không bao giờ quên những lời đó. Đa-vít hỏi tôi chơi nhạc cụ nào, tôi nói guitar và piano. “Piano giống như Harp,” Tôi giải thích. Tôi không nghĩ họ có piano trong thời Đa-vít. Đa-vít trả lời, “Tôi biết.” Tôi cười vì tôi thật sự hiểu rằng ông biết nhiều hơn tôi về mọi điều, nhưng tôi không ngừng hỏi dường như đã có câu trả lời rồi.
Sau đó Đa-vít dẩn tôi đến ngôi nhà của tôi. Khi tôi đi đến, tôi nhìn vào mặt đất. Có một hồ phun nước trước sân nhà và có cỏ đẹp. Nó là một nơi đẹp nhất mà mắt tôi chưa bao giờ thấy qua. Tôi nói, ” Đây là nhà của tôi sao?” Đa-vít nói “Vâng. Anh có muốn vào bên trong không?” Tôi trả lời, “Vâng, tôi muốn vào bên trong?” Đối với tôi, lối vào của ngôi nhà nói lên ngôi nhà. Chúng tôi đi vào cửa phía trước, nhà có trần cao và những đường viền. “Anh có thích không?” Đa-vít hỏi. “Vâng, tôi thích nó. Đẹp quá!” Tôi trả lời. mọi sự được trang trí cùng với những bàn, ghế, tủ, giường giống những loại tôi thích. Tôi nói, “Nơi nầy đẹp qúa! Tôi không ngờ gặp điều nầy. Hãy nhìn vào nơi nầy! Kìa, tôi có tủ, bàn, ghế, giường giống như ở thế gian! Tôi thích lắm!” “Vâng, Chúa biết anh thích nó, thế là Ngài để nó trong nhà của anh. Chúng tôi đã bảo anh là Ngài sẽ ban cho anh điều lòng anh khao khát.” Đa-vít tiếp tục nói, “mọi điều khao khát điều được chu toàn ở đây. mọi sự có thể nghĩ đến – mọi điều anh khao khát và mọi điều mà anh chưa bao giờ nghĩ đến.”
mọi sự điều toàn hảo đến cả chi tiết cuối cùng! mọi sự điều qúa đẹp! Tôi nhìn vào những vật thể trong nhà của tôi hơn là nhìn những điều khác. Có đá cẫm thạch (marble), có một cái bàn trong lối vào với những con chim phượng hoàng bằng vàng! Tôi nói, “Hãy nhìn xem cái nầy! Đa-vít.” Tôi nói tiếp, “Có nhiều vật ở đây giống như ở thế gian.” Đa-vít trả lời, “Phải, thế gian là vị nếm của Đức Chúa Trời. Hãy nhớ, Chúa đã sáng tạo nó. Vì thế có nhiều điều anh thấy ở đó anh sẽ thấy ở đây. Hãy đi, tôi sẽ chỉ anh thêm.” ” Điều mà bận tâm tôi, Đa-vít, là tôi không bao giờ nghĩ sẽ có những điều như là những dãy núi.” “Jesse, thế gian là sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Sự nếm của Ngài ở đó là sự nếm của Ngài ở đây. mọi điều khao khát anh có thể nghĩ đến sẽ được ban cho ở đây đặc biệt cho ngôi nhà của anh, cộng thêm Đức Chúa Trời để thêm một vài vật của chính Ngài. Tôi sẽ cho anh xem thêm.”
Khi chúng tôi rời ngôi nhà để đến Ngôi Đức Chúa Trời, tôi thấy một người đàn ông, một người đàn bà và một số đứa trẻ bên ngoài. Tôi đi đến cửa và nói, “họ là ai?” Đa-vít nói, “Đây là gia đình đã bị giết trong một tai nạn máy bay. mọi người đều ở đây.” Tôi phân vân, “Tôi cần hỏi một câu họi. Xin lỗi vì sự thiếu hiểu biết của tôi, nhưng tôi không nghĩ chúng ta sống với nhau như một gia đình. Một người đàn bà bảo tôi là bà ta không muốn đi lên Thiên-đàng nếu bà ta không thể sống với chồng bà. Tôi có một người vợ tên Cathy. Chúng tôi có họp lại với nhau không?” “Vâng, anh sẽ sống với nhau,” Đa-vít trả lời. “Nhưng không giống như điều anh biết trên thế gian. Nó tốt hơn điều anh nghĩ.” Tôi bèn hỏi gia đình đó, “Gia đình ông bà đi đâu vậy?” họ nói, “Chúng tôi đi đến nhà chúng tôi và sau đó đi picnic. Anh có muốn đi với chúng tôi không?” Tôi nói, “Vâng!” Tôi thật muốn đi picnic với họ. Nhưng Đa-vít chận tôi và nói, “Chúng ta phải đi đến Ngôi Đức Chúa Trời trước. Sau đó tôi sẽ đưa anh đến đó. Tôi được ủy thác để dẩn anh đến Ngôi Đức Chúa Trời. Đó là điều tôi phải làm. điều tốt nhất vẫn chưa được thấy. Chúng ta phải đi nhanh lên.”
Đa-vít muốn chỉ cho tôi thêm những ngôi nhà trên đường đến ngôi Đức Chúa Trời. Đa-vít dẩn tôi đến một con đường giống như thành phố New York xưa, hoặc đường St. Charles ở New Orlean, nơi mà những vinh thự nằm dọc theo. Tôi hỏi, “Những nhà nầy của ai? Của những ông tổ thời xưa?” Đa-vít nói, “Vâng. Đây là nơi những tiên tri sống.” Tôi thấy nhà của họ, và tôi thấy một vài tiên tri mà chúng ta biết trong thời cựu ước.
Khi chúng tôi đi ngang qua, họ vẫy tay và nói, “Chào, Đa-vít.” Khi tôi vẫy tay lại, họ nói, “Chào, Jesse.” Tôi nói, “họ biết tôi sao?” Đa-vít giải thích, “Anh đã giảng những bài giảng của họ, Đức Chúa Trời ban phước cho họ vì biết sứ điệp của họ vẫn còn đụng đến loài người. họ thích nó vì Đức Chúa Trời dùng nó nhiều đến nỗi bài giảng của họ vẫn còn tiếp tục.”
Tôi phải tiếp tục ăn thêm những trái cây có màu đồng vì tôi cãm thấy yếu. Nó ngọt và có nhiều nước, và nó thêm sức cho tôi.
Tôi đã thấy Giô-na lúc trước, nhưng Thiên-sứ liên tục di chuyển tôi hướng về cuộc hẹn tôi có. Nhưng trên con đường nơi những tiên tri sống tôi nhận ra Giô-na lần nửa khi ông ta đến từ ngôi nhà của ông. Tôi rất thích thú muốn biết về con cá voi đã nuốt ông. Tôi thật sự muốn biết nó là con cá thường hay cá voi và cảm giác thế nào ở trong bụng cá ba ngày và ba đêm. Tôi xông tới Giô-na và nói, “Ông đã ở trong bụng cá voi! Ông cãm thấy thế nào ở trong bụng cá đó?” Ông ta dường như do dự, dường như ông ta cãm thấy không vui một chút.
Tôi cãm thấy rằng có lẽ tôi đã mang lại một kỷ niệm không vui mà ông ta muốn quên đi. Sau đó Giô-na đính chánh với tôi. Ông ta nói, “Không, Tôi đã không vâng lời.” Không vâng lời,” Tôi lập lại và nhận thức rằng tôi đã để ý sai phần của câu chuyện. Tôi nhớ Đức Chúa Trời đã bảo Giô-na đi đến thành Ni-ni-ve và công bố rằng sự chú ý của họ trên những thần tượng vô ích và cũng là nguyên do khiến họ lìa bỏ Đức Chúa Trời – nguồn cội của sự nhân từ và thương xót. Chương 4, câu 2, của sách Giô-na cho thấy Giô-na cãm nhận rằng Đức Chúa Trời sẽ không hình phạt thành Ni-ni-ve như lời Ngài nói, và ông ta không làm theo sự ủy thác của Đức Chúa Trời.
Trong khi ở trên tàu đi ngược hướng thành Ni-ni-ve, một cơn bảo lớn đã nổi dậy và những thủy thủ trên tàu bắt thăm xem ai là người khiến cho tai vạ nầy đến trên họ. Thăm trúng nhằm Giô-na. Sau khi họi Giô-na, họ ném ông ta khọi tàu! Bảo tố liền yên lặng! Khi những thủy thủ thấy đều đó, họ thờ phượng Đức Chúa Trời vĩ đại của Giô-na! Một con cá lớn, hoặc một vài kinh dịch nói là quái vật biển, đã nuốt Giô-na. Giô-na đã ở trong bụng cá ba ngày và ba đêm (Giô-na 1:1-17). Nhưng bây giờ tôi thấy Giô-na không quan tâm nhiều về con cá trong ba ngày đó; ông ta quan tâm về sự không vâng lời của ông ta đối với Đức Chúa Trời.
Không vâng lời là một điều dể sợ nghịch lại bạn. Không chỉ trong đời nầy bạn đang sống, nhưng ở đây. Tôi thật không hiểu điều Giô-na ám chỉ trong câu nói đó, nhưng ông ta nhấn mạnh điểm không vâng lời. Tôi nghĩ ông ta ám chỉ rằng sự không vâng lời gây sự trì trệ trong sự tiến đến mức độ mà chúng ta đúng phải đến. Chúng ta có thể tiến đến mức độ đó trong cỏi vĩnh hằng, nhưng tôi tin rằng sự vâng lời Chúa đưa chúng ta nhanh hơn tới bước mà Đức Chúa Trời đã định liệu cho chúng ta.
Tôi nhớ những lời nói của Giô-na một cách chính xác. Giô-na nói, “lời của Đức Chúa Trời phải được để ý từng chử một.” Giô-na tiếp tục, “Khi tôi ra khọi đó, điều duy nhất trong trí của tôi là làm theo điều Đức Chúa Trời đã bảo tôi phải làm. Nhưng khi Đức Chúa Trời giử lấy thành phố, thay vì hủy diệt nó, tôi cãm thấy tức tối về điều đó.”
Tôi cố gắng giữ chặt từng lời nói một của Giô-na. Tôi biết rằng Giô-na đã nói tiên tri với dân thành Ni-ni-ve là Đức Chúa Trời dự định sẽ hủy diệt thành trong bốn mươi ngày. Dân thành đã tin Giô-na, và vua đã rao ra sự kiêng ăn, mặc bao gai và khóc lóc về tội lỗi của họ. Không người hay vật ăn bất cứ vật chi, hoặc uống nước để bài tỏ sự hối lỗi của họ. Vua đã nài xin, biết đâu Đức Chúa Trời sẽ nghĩ lại và cất đi lời phán của Ngài nghịch cùng chúng ta, và nguôi đi cơn giận hầu cho chúng ta không bị hủy diệt (Giô-na 3:9 AMP).
Chương 3, câu 10, ghi chép, Đức Chúa Trời thấy việc làm của họ, bởi họ đã từ bỏ điều ác; và Đức Chúa Trời ăn năn về việc xấu mà Ngài nói là Ngài sẽ làm đối với họ; và Ngài đã không làm điều đó. Chương 4 cho thấy rằng Giô-na biết Đức Chúa Trời giàu lòng thương xót, nhân từ, chậm giận và giàu ơn. Vì Đức Chúa Trời nhân từ và không làm theo lời của Giô-na hủy diệt dân thành Ni-ni-ve, Giô-na muốn chạy đi nữa. Tôi nghĩ chúng ta có thể nói ông ta tự ái.
Sau đó Giô-na nói với tôi, “Tôi cãm thấy tức tối vì tôi nghĩ về tôi hơn là tôi nghĩ đến bẫm chất của Đức Chúa Trời. Bẫm chất của Ngài không phải hủy diệt, nhưng chửa lành và ban phước.”
Tôi được ban cho rất nhiều để suy nghĩ về. Tôi muốn thấy thêm Thành-Thánh, nhưng tôi không nhớ đến trong trí của tôi. Tôi biết tôi có một số mệnh hay là điều gì đó phải hoàn thành. Tôi biết Đức Chúa Trời để tôi thấy Thiên-đàng có một lý do. Thiên-sứ cho tôi ăn thêm trái cây và dẩn tôi hướng về Ngôi Đức Chúa Trời. Tôi cãm thấy yếu dần và yếu dần khi chúng tôi tiến đến chính diện của Ngôi. Dường như có hằng triệu người ở đó. Nhìn quanh, tôi thấy có hai mươi bốn ghế trống gần Ngai Đức Chúa Trời.
Tôi nói, “Tôi đã đọc trong Kinh-thánh về hai mươi bốn trưởng lảo.” (Khải-Huyền.) ” Đó là những ghế của họ! họ bây giờ ở đâu?” Đa-vít bảo tôi như đã bảo tôi lúc trước, “Jesse, chúng ta là đầy tớ ở đây. họ đi ra ngoài Thành- Thánh và Điạ-đàng để giúp đở và ban phước mọi người. Chúng ta giúp đở mọi người ở đây. mọi người phục vụ. Luôn luôn có người muốn làm gì đó cho bạn. Luôn luôn có người hỏi tôi có thể làm gì cho bạn không?” Ngay cả những bông hoa hướng về bạn với thái độ phục vụ. Nó quay và nhìn vào bạn. Nó không có mắt, nhưng nó biết bạn ở đó. Bạn không thể làm giập nó; nó đi xuyên qua chân của bạn. Tôi nhìn xuống bông hoa tôi đã bước lên và nghĩ, tại sao tôi không làm giập nó? Đa-vít nói, “Anh không thể giết bất cứ gì ở đây. Không có sự đổ nát ở đây.”
Sau khi thấy mọi người phục vụ lẫn nhau nơi Thiên-đàng, tôi không nghĩ Đức Chúa Trời kiếm những người tài năng. Tôi tin Ngài kiếm những người có tinh thần đồng đội. Tôi nhớ khúc Kinh-thánh khi Gia-cơ và Giăng, con của Xê-bê-đê, đã hỏi Chúa Jêsus làm thế nào họ có thể có một chổ đặc biệt nơi Thiên-đàng. Trong Mác đoạn 10:43-45 Chúa Jesus giải thích:
…hễ ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì sẽ làm đầy-tớ; còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người. Vì con người đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.
Có nhiều thiên-sứ to lớn có cánh bay vòng quanh phòng. Họ khổng lồ! những gương mặc của thiên-sứ rất đặc thù như được dủa mài cẩn thận. Họ có cặp cánh vương ra khoảng chừng ba mươi feet. Thiên-sứ đi với tôi không có cánh; giống như một người thường.
Càng đến gần Ngôi Đức Chúa Trời, tôi càng cãm thấy yếu dần, bởi vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Khi mọi người tiến đến Ngôi Đức Chúa Trời, bạn thấy sự xức dầu của Đức Chúa Trời trên họ, những mức độ vinh hiển trên họ khác nhau. Nhưng khi đến Ngôi, không gì so sánh được sự vinh hiển Đức Chúa Trời. Khi ánh sáng từ Ngôi chạm đến tôi, tôi không thể đứng dậy; tôi qụy xuống, thiên-sứ đưa tôi thêm trái cây và nói, “Hãy ăn nó để anh có thể chịu đựng nổi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” Tôi bèn ăn nó, nhưng đầu gối tôi đã xụm xuống. Tôi nằm dưới sàn. mọi người khác điều đứng dậy. Nói một cách tốt hơn là khi bạn đứng hoặc ngã ở Ngôi, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đẩy lui sự vinh hiển của bạn. Sự vinh hiển của Ngài đi vào trong bạn và trên bạn.
mọi sự trên Thiên-đàng đều đẹp. Sàn nhà giống như đá cẫm thạch có vàng ở phía trong, những lằn chỉ bằng vàng chạy xuyên qua đá cẩm thạch. Mặc dầu tôi không thể nhìn lên một lúc lâu được, tôi cố gắng nhìn về phiá ánh sáng vô biên, và tôi thấy Ngài! Tôi thấy Ê-lô-him, Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Yaweh đang ngồi trên Ngai! Nhưng tôi chỉ thấy chân của Ngài. Ánh sáng từ Ngài quá sáng, tôi không thể thấy mặt Ngài được. Bây giờ tôi mới biết tại sao Kinh-thánh nói chúng ta không thể thấy mặt Giê-hô-va và sống. Ít nhất, tôi biết tôi không thể! Tôi phải tiếp tục cuối nhìn xuống, ánh sáng qúa kinh khủng. Nhưng khi tôi nhìn lần nữa, tôi thấy phần dưới của tay Ngài gát lên tay ghế. Ngài quá lớn bạn không thể diển tả Ngài bằng kích thước. Tay của Ngài khổng lồ! thân thể của Ngài, hình thể giống như năng lượng, linh (spirit). Có một bức tường vòng quanh Ngai, nhưng Ngai (Ngôi) thì cao hơn bức tường – đó là lý do bạn có thể thấy Ngôi (Ngai) từ tứ hướng đằng xa. Và năng lượng giống như khói của Đức Chúa Trời bao phủ vòng quanh Ngai.
Tôi nghe một tiếng, Whoooooosh! Có một năng lượng vô cùng vĩ đại hoặc to lớn ở nơi đó. Đó là điều duy nhất tôi có thể giải thích. Đó là quyền năng của Đức Chúa Trời! Bạn nghe tiếng động đó rồi năng lượng trở lại trong Ngài. Có khói và năng lượng và tiếng động – nơi nầy ồn ào! và các thiên-sứ thì kêu la. Những thiên sứ với những cánh bay vòng quanh Ngôi, vừa hát vừa hô vang, ” Đức Chúa Trời vĩ đại Giê-hô-va!” Mỗi lần họ bay vòng quanh Ngai họ ngợi khen Đức Chúa Trời vì họ thấy một điểm mới lạ của Ngài mà họ chưa bao giờ thấy trước đó. Họ đã phát biểu điều họ thấy bởi nói, “Thánh thay! Thánh thay! Thánh thay!”
Mặc dầu những thiên-sứ đã bay lượng vòng quanh Ngai từ lúc bắt đầu có họ, họ vẫn thấy những sự mặc thị mới lạ của bản tính Ngài, tình yêu của Ngài và sự vinh hiển của Ngài! Để thấy được Đức Chúa Trời vĩ đại thế nào!
Có một cụm mây giống như khói bay lên từ Ngai và tôi nghe âm thanh dể sợ đó, Whoosh! Một sức mạnh dể sợ mà tôi chưa bao giờ kinh-nghiệm trong đời sống của tôi. Sau đó tôi thấy ngón tay của Đức Chúa Trời rất ít di động, nhưng khi nó di động, một thiên-sứ bay gần Ngài bị liệng bắn vào vách tường. Bam! Nó không gây thương tích cho thiên-sứ, nhưng tôi cãm thấy nếu Đức Chúa Trời chỉ di động một chút thôi thì cả vũ trụ có thể bị tiêu hủy.
Tôi vẫn còn nằm sắp mặt xuống và bị yếu dần. Trong năng lượng và sức mạnh khổng lồ đó tôi có thể thấy Giê-hô-va Đức Chúa Trời – chân của Ngài – đang ngồi. Có một bục khổng lồ trước Ngôi giống như sân khấu. dường như nó bằng phẳng, nhưng thật sự nó được nhấc lên. mọi vật ở Thiên-đàng được nhấc lên và địa hình của đất đi lên hướng về Ngai.
Từ một năng lượng kinh khủng của ánh sáng, tình thương và năng lực tôi thấy Chúa Giê-xu xuất hiệt trong hình thể con người. Ngài ở đó giống như tôi đã thấy Ngài ở Địa-đàng (Paradise). Dường như cả hằng triệu người ở trước Ngai Đức Chúa Trời đã ngã xấp trước mặt Ngài. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời của tôi, tôi có thể hiểu ba ngôi Đức Chúa Trời trong ngôn từ vật lý. Chúa Giê-xu xuất hiện từ đám mây và quyền năng của Đức Chúa Cha. Chúa Giê-xu đã xuất hiện một cách thực thể từ sự tồn tại của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, và khi Ngài xuất hiện, mọi người la lên.
Chúa Giê-xu và Đức Chúa Cha là một, tuy vậy họ là hai. Ngài ở trong Đức Chúa Cha và Đức Chúa Cha ở trong Ngài. Ngài ở bên hửu Đức Chúa Trời. Khi Ngài ra khọi năng lực đó, Ngài trong hình thể con người mà chúng ta có thể sờ được.
Suốt đời sống tôi như một mục sư, tôi nghĩ Chúa Giê-xu như một thầy giáo, có một kiểu cách mềm mại, trầm lặng. Khi Ngài xuất hiện trên bục giảng của Ngai đó, tôi nghe một âm thanh từ Đức Chúa Cha, Whoosh! Whoosh! Đó là âm thanh của quyền năng! Chúa Giê-xu tôi thấy ngày đó không phải là một thầy giáo nhưng là một người truyền giảng hùng hồn, dỉ nhiên là Ngài có thể dạy.
Tôi luôn luôn nghĩ Chúa Giê-xu như một thầy giáo êm lìm, nhưng Ngài đầy quyền năng và giảng với uy quyền. mọi người ở đó đều lắng nghe. Chúa Giê-xu đã giảng với sự xúc cảm mạnh. Tôi có thể thấy Ngài bị đau đớn, dày dò, thương xót những người còn ở trên trần gian. Ngài giảng thuyết về sự đến của Ngài trên thế gian. Ngài nói, “Ta sẽ đến đón Thân-Thể của Ta, và Thân-Thể của Ta sẽ ở nơi nầy mà Cha Ta đã sáng tạo cho chúng ta tất cả.” Có một sự dức dấy trong số người, và họ bắt đầu la lên và ngợi khen Đức Chúa Trời. Ngài bắt đầu la to: “Ta sẽ cứu anh em ngươi! Ta sẽ cứu chị em ngươi! Ta sẽ cứu gia đình ngươi! Ta sẽ mang họ trở lại nơi nầy để sống với ta mãi mãi!” Ngài là một nhà truyền giảng đầy sự chiến thắng, la hét vang lừng! Ngài hứng khởi, và mọi người ré rên và hét theo.
Khi Ngài giảng, dầu trong một thân thể mới, người ta đã té ngã dưới quyền năng của Đức Chúa Trời. Mặc dầu trong thân thể mới của Thiên-đàng họ vẫn té ngã dưới quyền năng của Đức Chúa Trời! Sao đó tôi nghe tiếng Giê-hô-va nói, “Ta rất đẹp lòng.”
Tôi đang nằm trên sàn, cố gắng ghi nhớ mọi điều đang xãy ra. Đó là một kinh nghiệm lạ lùng nhất, vĩ đại nhất mà tôi đã trãi qua.
Tôi không thể nào nhìn vào mặt Giê-hô-va, nhưng tôi có thể nhìn vào Chúa Giê-xu. Bạn thấy, tấm lòng của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Cha; mặt của Đức Chúa Cha được tiết lộ bởi Đức Chúa Con (Jêsus); Tiếng của Đức Chúa Trời được nghe qua Chúa Thánh Linh; Tay của Đức Chúa Trời được mở ra qua hội thánh.
Khi Chúa Giê-xu đang giảng, tôi thấy Ngài quay lại nhiều lần và nhìn vào ánh sáng to lớn hay khổng lồ đó. Nhưng tôi nhận biết rằng tôi không thể làm điều đó. Tôi phải tiếp tục nhìn xuống, nhưng tôi cố gắng nhìn lên lâu đủ để thấy thoáng qua những gì xung quanh tôi, và tôi có thể thấy mặt Chúa Giê-xu. Tôi không chịu nổi quyền năng của Đức Chúa Cha. Chúa Giê-xu ngó lại Đức Chúa Cha, thỉnh thoảng chỉ liếc qua vai của Ngài, dường như họ không muốn không thấy nhau lâu. Tôi có thể cảm nhận tình thương của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu, và tôi có thể thấy sự trìu mến và sự yêu thương được truyền đạt tới luôi giửa Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Tôi chưa bao giờ thấy sự yêu thương giống như vậy. Nó giống như là nam châm.
Chúa Giê-xu đi vào và đi ra trong sức mạnh, lửa và năng lượng khổng lồ đó. Khi Chúa Giê-xu đi vào trong nguồn năng lượng, tôi phải gục đầu xuống, bởi vì tôi không thể chịu đựng nổi Ánh Sáng vô biên đó. Nhưng hình ảnh Con người khi Ngài đi hướng về năng lượng đó đã biến đổi thành Linh (Spirirt). Tôi đã hiểu làm thể nào Ba Ngôi là Ba, tuy vậy họ là Một. Vẫn còn nằm trên sàn, tôi quay đầu của tôi hướng về Thiên-sứ và hỏi, “Chúa Thánh Linh ở đâu?” Thiên-sứ đáp, “Ngài ở thế gian.”
Sau nầy khi tôi nghĩ lại về sự việc nầy, tôi cãm thấy ngu xuẫn đễ hỏi một câu hỏi như vậy ở Ngôi Đức Chúa Trời. Tôi vẫn còn xấu hổ về điều đó.
Tôi thấy những sự sống mới của những hài nhi nhỏ đang ca và bay lượng vòng quanh Ngôi Đức Chúa Trời. Đối với tôi dường như những hài nhi đó vừa xuất hiện từ hơi thở của Đức Chúa Trời. Chúng nó giống như đang mặc đồ ngũ và bay vào sự hiện diện của Đức Giê-hô-va. Tôi mới hiểu đó là những linh hồn mới đến từ tư tưởng của Đức Chúa Trời (Thượng-đế). Đức Chúa Trời nghĩ đến những đứa trẽ. Bây giờ tôi biết tại sao những hài nhi đó rất quý. Những hài nhi là những món quà ban cho chúng ta trực tiếp từ Ngôi Đức Chúa Trời.
Tôi nghe chúng nó nói với Đức Chúa Trời, “Tôi có thể là linh (spirit) không? Ngài có gởi tôi đến thế gian để tôi có thể là một linh không? Tôi muốn trở nên một người được cứu chuộc. Tôi có thể là linh không?” Trong khi tôi theo dỏi, tôi nghe âm thanh rất lớn của quyền năng Đức Chúa Trời, Whooosh! Tôi thấy những hài nhi (babies) nầy rời khỏi Ngôi, bởi quyền năng của Đức Chúa Trời.
Tôi không biết tôi ở đó bao lâu, nhưng Tôi cãm thấy rằng tôi không thể nào chịu đựng lâu hơn nữa. Đó là lý do tại sao mà tôi nghĩ tôi đã ở đó trong xác thịt nghĩa là thân thể tôi thật sự ở đó.
Thình lình, Thiên sứ nói, “Chúng ta phải đi. Nó qúa mạnh cho anh. Hãy đi. ” Thiên sứ bèn dẩn tôi ra khọi Ngôi Đức Chúa Trời, và Đa-vít đi cùng chúng tôi. Tôi trở lại vào xe ngựa (chariot) với Đa-vít và Thiên sứ. Khi chúng tôi rời đi, mọi người vẫy tay ở tôi. Tôi hỏi Đa-vít, “Chúng ta có gặp Ab-ra-ham trước khi rời đây không?” Đa-vít nói “Vâng. Anh sẽ gặp ông ta trước khi anh trở lại.”
mọi người bắt đầu rời khỏi Ngôi Đức Chúa Trời, trở vào thành phố và vào trong Địa-đàng (Paradise). họ đang giúp đở những người khác và trở nên một nguồn phước. Tôi thấy người ta bàn luận những điễm thần học về lời Đức Chúa Trời trong số họ.
Chúng tôi đi xuống con đường của các tiên tri. Khi chúng tôi đi qua một vinh thự đẹp, Tôi hỏi, “Tôi có thể vào trong đó không?” Thiên-sứ trả lời, “Không. Không có con mắt loài người nào đã thấy bên trong vinh thự nầy.” Tôi hỏi tiếp, ” Đó là gì vậy?” Thiên sứ nói, ” Đó là điều được giữ kín trong sự hiểu biết của Đức Giê-hô-va. Không có con mắt loài người nào đã thấy nó, ngay cả Hê-nóc.” Tôi không biết đó là gì.
Khi chúng tôi đang đi trên đường phố của các đấng tiên tri, thình lình tôi nghe một giọng nói quen thuộc, “Jesse.” Tôi quay lại. Đó là Chúa Giê-xu. Tôi nói, ” Đó là một sứ điệp rất hay và tuyệt vời.” Chúa Jêsus long lanh khi Ngài nói, ” Đó là một sứ điệp thật. Đó là lý do tại sao con được đưa đến đây. Con hãy bảo dân ta.” Tôi nói, “họ không tin con.” giọng Ngài cứng rắn, “Hãy đi bảo dân ta, Ta đang đến.”
Số mệnh của tôi là cho bài học nầy. Tôi suy nghĩ, phải rồi? Đó là lý do tại sao tôi được đưa đến đây? Tôi thất vọng khi biết rằng cuộc hành trình đến Thiên-đàng là cho bài học nầy. Tôi nghĩ tôi sẽ học những điều mà chưa bao giờ ai học. Mục đích của tôi đến Thiên-đàng là để nghe Chúa Jê-xu nói rằng Ngài sẽ trở lại cho chúng ta, và tôi phải bảo những người khác. Tôi đã có sự không tin viết đầy trên mặt tôi. Tôi nói, “Lạy Chúa, họ biết điều đó.” Ngài trở nên cứng rắn với tôi và lên giọng của Ngài khi Ngài nói, “Không, họ không biết! Ngươi hãy đi bảo họ ta đang đến.”
Sứ đồ Phao-lô viết cho chúng ta liên quan đến sự trở lại của Đấng Christ trong I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18:
Hởi anh em, chúng tôi chẳng muốn anh em không biết về phần người đã ngủ, hầu cho anh em chớ buồn-rầu như người khác không có sự trông cậy. Vì nếu chúng ta tin Đức Chúa Jêsus đã chết và sống lại, thì cũng vậy, Đức Chúa Trời sẽ đem những kẻ ngủ trong Đức Chúa Jêsus cùng đến với Ngài. Vả, nầy là đều chúng tôi nhọ lời Chúa mà rao bảo cho anh em: Chúng ta là kẻ sống, còn ở lại cho đến kỳ Chúa đến, thì không lên trước những người đã ngủ rồi. Vì sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên-sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mìnhChúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết. Kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại, sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không-trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn. Thế thì, anh em hãy dùng lời đó mà yên-ủi nhau.
Cường độ tình yêu của Chúa Jêsus dành cho chúng ta thật mãnh liệt được biểu lộ qua gương mặt và giọng nói của Ngài. Khi tôi nhìn vào mắt Ngài, tôi hiểu sự quan trọng của điều Ngài đang nói. Ngay lúc đó, tôi biết sự đến của Ngài là điều vĩ đại nhất chúng ta có thể chờ đợi. Sứ điệp Chúa Jêsus sớm trở lại là tin tức lớn nhất mà chúng ta có thể chia-xẽ.
Chúa Jêsus vừa tiết lộ lòng khao-khát của Ngài cho tôi. Ngài đã yêu cầu tôi bảo những người khác là Ngài sẽ trở lại thế gian. Ngài đầy xúc cảm và chọ tôi trả lời Ngài. Tôi nói, “Lạy Chúa, con sẽ làm mọi điều con biết phải làm. Con yêu Chúa với cả tâm hồn của con. Nhưng con đã phạm một số lỗi lầm trong đời sống của con.” Chúa nói, “Ta không biết con đã làm điều gì. Ta đã rửa sạch nó rồi. Con được tự do.” “Cám ơn!” Tôi nói.
Tôi thấy những giọt lệ trong mắt Chúa Jêsus khi Ngài nói với tôi: “Ngày xấu nhất của ta chưa đến.” Thình lình lúc đó Đức Chúa Cha nói xuyên qua Đức Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Trời đang chia xẽ với tạo vật của Ngài. Ngài nói, “Con có biết câu Kinh-Thánh nói Ta sẽ lau hết nước mắt ở Thiên-đàng không?” Tôi trả lời, “Thưa Chúa, Chúa biết, con chưa bao giờ thật sự hiểu điều đó.” Tôi biết rằng sứ-đồ Giăng đã nói trong sách Khải-Huyền 21:1-5 là Đức Chúa Trời sẽ lau ráo hết nước mắt: Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhứt và đất thứ nhứt đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa.
Tôi cũng thấy thành thánh, là Giê-ru-sa-lem mới, từ trên trời, ở nơi Đức Chúa Trời mà xuống, sửa-soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang-sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: Nầy đền tạm của Đức Chúa Trời ở giửa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Đức Chúa Trời sẽ ở với chúng.
Ngài sẽ lau ráo hết nước m¡t khọi m¡t chúng, sẽ không có sự chết, cũng không có than-khóc, kêu-ca, hay là đau-đớn nữa; vì những sự thứ nhứt đã qua rồi.
Đấng ngự trên ngôi phán rằng: Nầy ta làm mới lại hết thảy muôn vật.
Đoạn lại rằng: Hãy chép; vì những lời nầy đều trung-tín và chơn-thật.
Bây giờ Chúa Jêsus bắt đầu giải thích sự bí ẩn nầy cho tôi. Ngài nói, “Những nước mắt đó bao gồm những nước mắt trong mắt của ta, Jesse. Trong ngày phán xét lớn đó, ta sẽ phải bảo một số tạo vật ta yêu là hãy lìa khỏi ta. Ta sợ ngày đó. Ta sợ nó! Ta sợ nó!”
Mắt Ngài đầy lệ khi Ngài nói đều nầy. Nó đụng đến lòng tôi. Chúng ta luôn luôn tập trung về Đức Chúa Trời sẽ lau ráu nước mắt khỏi mắt chúng ta. Chúng ta không có hiểu tình yêu của Đức Chúa Trời có cho chúng ta. Tôi muốn vươn tới và an ủi Ngài, thế là tôi để tay tôi lên Chúa. Tôi không biết làm gì khác hơn. Tôi có thể bảo là Chúa Jêsus đang bị đau đớn.
Có những lần khác trong Kinh-Thánh cho chúng ta thấy Chúa Jêsus khóc. Ngài khóc cho Giê-ru-sa-lem khi Ngài có thể thay đổi tình hình. Chúng ta thấy nước mắt của Ngài cho La-xa-rơ, nhưng Ngài đã khiến La-xa-rơ sống lại. Chúng ta thấy những giọt nước mắt của Ngài ở thập tự giá, nhưng Ngài đã thay đổi ký ức đó với sự sống lại của Ngài. Nhưng khi ngày phán xét đến, Ngài không thể thay đổi nó. lời của Ngài sẽ là kết cuộc. Khi Ngài phải ngoảnh mặt khỏi loài người, phần thưởng của sự sở hửu của Ngài, Ngài không thể thay đổi nó được. Ngài sợ ngày đó.
Sau đó Ngài nói, “Jesse, đó là cuối cùng. Ta không thể thay đổi nó được. Những giọt nước mắt đã chảy từ mắt của Ta từ buổi sáng tạo, A-đam đã sa ngã. Nhưng ta đã biết ta phải gởi chính mình ta. Ta đã có một cơ hội để đụng đến loài người. Nhưng ngày đó đang đến và cuối cùng. Khi nó đã tuyên bố, ta không thay đổi nó được. Ta phải lau những giọt lệ từ mắt của ta.”
Chúa Jêsus cứng rắn với tôi, “Hãy bảo họ ta đang đến, Jesse.” Tôi nói, “Lạy Chúa, Khi nào Chúa trở lại?” Ngài không trả lời tôi trực tiếp nhưng Ngài nói, “mọi người tìm những dấu hiệu thay vì tìm chứng tích của Ta.” Tôi hiểu Chúa định nói là chúng ta nhìn vào những dấu hiệu của thời gian như là sự trở lại của Chúa. Chúa muốn chúng ta nhìn vào chứng tích Ngài là ai, con người của Chúa Jêsus Christ. Tôi hiểu rằng Chúa Jêsus không biết khi nào Ngài sẽ đến trong ngôn từ của ngày và năm. Tôi thấy rằng sự đến của Ngài không phải chỉ là sự trở lại, nhưng nó là sự chứng nhận Ngài là ai. Khi Ngài nói trong các sách tin lành là nước của Ngài không thuộc về thế gian nầy, Ngài cố gắng giúp mọi người thấy được Ngài là ai chớ không phải chỉ hiểu những dấu hiệu chỉ Ngài là Đấng Mê-si. Tôi cãm thấy rằng Chúa muốn nói: mắt của chúng ta phải nhìn đến Ngài, thay vì những năm đại nạn.
Như thân thể của Ngài, chúng ta không vâng lời bởi chiến đấu với nhau. Chúng ta không đến với nhau để làm chứng về Ngài là ai. Liên minh lớn nhất của Satan là làm sao phân rẽ thân thể của Đấng Christ. Tôi nghĩ Chúa Jêsus muốn chúng ta, nhà thờ, hãy nhìn vào Ngài nhiều hơn thay vì để ý hay tập trung vào sự khác biệt của chúng ta.
Nếu thân thể của Đấng Christ, hội thánh, bắt đầu tiết lộ Đấng Christ là ai và nâng Ngài lên cho toàn thế giới đều thấy, người ta sẽ kéo đến với Ngài. Tôi nghĩ chúng ta làm chậm trễ sự đến của Ngài bởi chờ đợi một dấu hiệu trước khi chúng ta hành động trên lời của Ngài, thay vì bài tỏ cho thế gian hư mất và những người đang chết, Ngài là ai.
nhiều người trong chúng ta nghĩ những phép lạ sẽ đem mọi người đến nhà thờ. Nhưng những phép lạ thật sự tạo ra sự nghi ngờ. Giăng Báp-tít không có một phép lạ nào trong chức vụ của ông, tuy vậy ông đã gây ra sự biến đổi về đạo đức. Tôi nghĩ ông là người giãng đạo duy nhứt mà hội thánh đến để gặp ông. Ngay cả một người không tin gì cả lớn nhất trong tỉnh, Hê-rốt, đã tôn trọng ông.
Chúng ta cần giảng Chúa Jêsus, thân vị, và Đấng Christ, sứ điệp, về sự xức dầu của Ngài. Loài người không hiểu Chúa Jêsus như một nhân vị. Tôi biết Ngài như một nhân vị. Tôi đã không nhận sự hiểu biết đó ở Thiên-đàng; tôi nhận nó tối đêm đó ở Boston, Massachusetts, khi tôi được cứu. Tôi tin nếu nhà thờ làm việc với nhau để tỏ cho thế gian biết chúa Jêsus là ai, và nếu chúng ta có thể giảng sứ điệp của Đấng Christ, chúng ta có thể truyền bá phúc âm trong vòng một ngày.
Chúa Jêsus không thể bảo cho tôi khi nào Ngài đến. Tôi có thể thấy tại sao Đức Chúa Cha đã không tiết lộ cho Chúa Jêsus khi nào sẽ là ngày phán xét. Tôi cãm thấy Chúa Jêsus sẽ bảo cho tôi nếu Ngài biết ngày đó, thế là tất cả chúng ta sẽ chuẩn bị. Tôi không nghĩ Ngài có thể giử điều đó bí mật bởi vì tình yêu của Ngài cho nhân loại qúa mạnh. Mác 13 nói về những dấu hiệu xãy ra trước sự trở lại của Chúa Jêsus. Câu 32-37 nói:
Về ngày và giờ đó, chẳng ai biết chi hết, các thiên-sứ trên trời, hay là Con cũng chẳng biết nữa; song chỉ Cha mà thôi. Hãy giữ mình, tỉnh-thức; vì các ngươi chẳng biết kỳ đó đến khi nào. Ấy cũng như một người kia đi đường xa, bỏ nhà, giao cho đầy-tớ mỗi đứa cai-quản một việc, và cũng biểu đứa canh cửa thức canh. Vậy, các ngươi hãy thức canh, vì không biết chủ nhà về lúc nào, hoặc chiều tối, nửa đêm, lúc gà gáy, hay là sớm mai, e cho người về thình-lình, gặp các ngươi ngũ chăng. Điều mà ta nói cùng các ngươi, ta cũng nói cho mọi người: Hãy tỉnh-thức!
Tôi mới khám phá ra rằng Đức Chúa Trời khao khát tình yêu của chúng ta. Trước đó tôi không biết là Ngài thật cần tôi vươn ra để đụng đến người khác. Tôi luôn luôn nghĩ là tôi cần Ngài, chớ không phải Ngài cần tôi.
Tôi nói, “Con sẽ làm mọi sự cho Chúa. Con biết đó có thể là một câu nói thiếu suy nghĩ; Phi-e-rơ đã nói nó. Nhưng như điều con biết, Con sẽ làm bất cứ điều gì cho Chúa.”
Chúa Jêsus mĩm cười ở tôi và nói, “Ta đã chọn con. Không ai muốn con cả, và ta cần con, Jesse.”
Tôi nói, “Con sẽ bảo mọi người con gặp, là Chúa sắp đến.”
Chúa Jêsus nói, “Ta đã mang con đến đây với mục đích nầy.” Rồi Ngài tiếp, “Bây giờ con hãy trở lại.”
Tôi nói, “Con muốn ở đây.”
Ngài nói, “Con sẽ ở đây đời đời.” Sau đó Ngài nhìn vào Đa-vít và Thiên-sứ và nói, ” Đa-vít, Jesse thích núi non. Hãy dẩn anh ta đi con đường núi.”
Chúa Jêsus nhìn vào tôi và mĩm cười, và tôi đễ ý gương mặt Chúa lần nữa. Tôi không thể bảo mắt Chúa màu gì, nhưng nó giống như bễ tình yêu. Chúa Jêsus nói, “Ta sẽ sớm gặp lại con. Một ngày kia chúng ta sẽ không còn phân rẽ nữa. Nó sẽ mãi mãi và nhanh hơn điều con suy tưởng.” Ê-sai đã tiên tri về Đức Chúa Trời hứa sẽ lau hết nước mắt trong Ê-sai 25:8.
Ngài đã nuốt sự chết đến đời đời. Chúa Giê-hô-va sẽ lau nước mắt khỏi mọi mặt, và trừ bỏ sự xấu hổ của dân Ngài khọi cả thế gian; vì Đức-Giê-hô-va đã phán vậy.
Giăng đã học giống bài học khi thấy Thiên-đàng. Khải-Huyền 7:17 ghi:
Vì Chiên Con ở giữa ngôi sẽ chăn giữ và đưa chúng đến những suối nước sống; Đức Chúa Trời sẽ lau hết nước mắt nơi mắt chúng.
Tôi có thể thấy sự thương xót trong ánh mắt Chúa Jêsus. Ngài không muốn ai bị hư mất cả, nhưng muốn mọi người ăn năn để họ nhận được mọi điều Đức Chúa Cha dành cho họ.
Tôi vào trong xe ngựa (chariot) với Đa-vít và Thiên-sứ. Chúa Jêsus đã bảo họ hãy mang tôi trở lại nhà của tôi bằng con đường núi. Khi chúng tôi đi qua những dãy núi, tôi có thể nghe những đứa trẻ ca hát. Tôi không thể giải thích Thiên-đàng kỳ diệu như thế nào. Tôi chỉ có thể đồng ý với lời của sứ-đồ Phao Lô trong I Cô-rinh-tô 2:9,10:
Songle, như có chép rằng: Ấy là sự mắt chưa thấy, tai chưa nghe, và lòng người chưa nghĩ đến, nhưng Đức Chúa Trời đã sắm sẳn đều ấy cho những người yêu mến Ngài. Đức Chúa Trời đã dùng Đức Thánh Linh để bày-tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Đức Thánh Linh dò-xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời nữa.
Khi chúng tôi đến gần những dãy núi, tôi thấy mọi người đang có Picnic – vừa ăn vừa thưởng thức nó. Sau đó tôi cũng thấy gia đình mà tôi đã nói chuyện trước đó. Một người trong số họ nói với tôi, “Xin lỗi là anh không thể ở lại. Nhưng khi nào anh đến, chúng ta sẽ ăn với nhau.”
Tôi thấy những apartment và nhà Condominium. Tôi hỏi Đa-vít, ” Đây là gì vậy?” Ông ta nói, “Jesse, mọi điều ao ước được ban cho ở đây. mọi người sống ở đó có một căn nhà trong thành phố nhưng một vài người thích một nơi ở ngoại ô. Những người sống trong thành phố, có một số người thích apartment giống như là nhà của họ, thế là Đức Chúa Trời vĩ đại đã cung cấp cho họ. mọi điều khao khát của mỗi người điều được ban cho ở đây.” Tôi hỏi, “Có phải Đa-vít muốn bảo tôi là những người có những biệt thự quyết định có một chổ ngoài nầy phải không?” Đa-vít đáp, “Vâng. Anh có muốn một cái như vậy không? Nó sẽ được thành toàn, vì Đức Chúa Trời vĩ đại là Đức Chúa Trời thương xót. mọi điều khao-khát điều được chu toàn.” Tôi không thấy một dấu hiệu của sự tham lam ở nơi nầy. Đức Chúa Trời ban phước cho mọi người. Thi-Thiên 37: 3,4 xác định:
Hãy tin-cậy Đức Giê-hô-va, và làm điều lành; khá ở trong xứ, và nuôi mình bằng sự thành-tín của Ngài.
Cũng hãy khoái-lạc nơi Đức Giê-hô-va, thì Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình ao-ước.
Tôi thấy nhiều sắc dân ở đó. Sau đó tôi để ý thấy một nhóm nhỏ trẻ em Á-đông được dạy những điều luật của Đức Chúa Trời bởi một phụ nử. Tôi hỏi, “Cha mẹ của họ có ở đây không?” Đa-vít đáp, “Chỉ có một vài người thôi. Nhưng phần lớn là không có. họ đến tuổi họ phải tin nhận Chúa hay từ chối Ngài. Cha mẹ của họ có lẽ đã chối bỏ Chúa và đi con đường khác, nhưng Đức Chúa Trời là Đấng thương xót; Ngài không từ bỏ con nhỏ của họ. Thỉnh thoảng có những đứa trẻ qua đời sớm, thế là chúng tôi dạy chúng nó và chúng nó lớn lên.”
Tôi biết có những cha mẹ vừa mới mất con gần đây sẽ rất vui khi biết rằng họ sẽ gặp lại con của họ ở đó. Con của họ sẽ được dạy những điều luật của Đức Chúa Trời.
Tôi tin rằng nếu mọi người có thể thấy những kho tàng mà Đức Chúa Trời đã sắm sẳn cho họ ở Thiên-đàng, họ sẽ không gặp khó khăn để hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời là muốn họ thạnh vượng và được chửa lành trong khi họ còn trên mặt đất nầy.
Có những chiếc lá chửa lành ở Thiên-đàng và sự thạnh vượng khắp mọi nơi. mọi điều mà bạn có thể nghĩ đến, bất cứ điều gì mà bạn muốn trên mặt đất sẽ được ban cho bạn ở đó.
Nhân loại gặp khó khăn để nhận lãnh điều Đức Chúa Trời có cho chúng ta bởi vì tội lỗi đã đụng chúng ta. Tội lỗi đánh cấp đi những vật từ chúng ta bởi đánh cấp tư tưởng chúng ta và sự tự tin nơi lời hứa của Đức Chúa Trời.
Có bao giờ bạn để ý chử tin lành chỉ có trong Tân-ước? Đó là vì tin lành có nghĩa là tin tức tốt lành, và không có tin tức tốt lành trong Cựu-ước. Trước khi Chúa Jêsus Christ chết cho chúng ta, nó là “làm hay chết.” Cựu-ước chỉ cho chúng ta luật pháp mà chúng ta không thể giữ.
Nhưng Đấng Christ đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, và bởi lằn roi Ngài mà chúng ta được lành bịnh! Bởi ân điển của Ngài mà chúng ta có thể tiến đến ngôi của Đức Chúa Trời, được hoà thuận lại cùng Đức chúa Cha, và ý định vinh hiển của Ngài là để ban phước cho chúng ta.
Nếu có bao giờ bạn muốn làm điều gì cho Chúa, bạn có thể bảo mọi người là Ngài đang đến và Ngài muốn đến cho họ. Hãy giúp đỡ Ngài đụng đến những người chưa bao giờ nghe tin lành của Ngài.
Trong lúc tôi đang rời khỏi Địa-đàng (Paradise), Ab-ra-ham nói, “Tôi sẽ gặp lại anh.” Nhìn lại Ab-ra-ham, tôi cãm thấy tôi không thể đợi ngày đó, giống như người hành khất trong Lu-ca 16, câu 22, tôi sẽ được thiên-sứ mang vào lòng của Ab-ra-ham. Tôi nói, “Cám ơn.”
Sau đó tôi trên đường trở lại nhà của tôi. Xe ngựa bắt đầu gia tăng tốc độ. Tôi nghe tiếng whoosh! trong vòng mấy giây rời khỏi paradise (điạ-đàng), tôi đã trở lại trong phòng của tôi giống như vị trí khi tôi rời khỏi vào lúc 1:00 p.m. Trong trí óc tôi, mọi sự dường như qua rất nhanh. Tôi nghĩ tôi chỉ đi chừng ba mươi phút, nhưng nó là 6:15 p.m. khi tôi nhìn vào đồng hồ. Tôi đã ở Thiên-đàng năm giờ mười lăm phúc!
Có người sẽ đến rước tôi đến nhà thờ theo như đã dự định vào lúc 6:45 p.m.; thế là tôi ăn mặc vội vàng. Tôi vẫn còn phân vân và nghĩ, tôi sẽ không nói điều nầy, mọi người sẽ nghĩ tôi điên.
người đàn ông chở tôi mỗi đêm cho cuộc truyền giảng thường thường là người hay nói chuyện. Nhưng lần nầy trên đường lái xe đến nhà thờ, ông ta không nói một lời; ông ta chỉ nhìn vào tôi. Tôi nghĩ, bộ tôi nói điều gì làm ông ta buồn?
Khi chúng tôi đến nơi, buổi nhóm đã bắt đầu. mọi người đang ca hát, thế là tôi đi lên đằng trước nhà thờ. mọi người bắt đầu chỉ vào tôi và nói, “Hãy nhìn anh Jesse. ông ta đang chiếu sáng.” Có một sự sáng trên gương mặt của tôi. Tôi đã ở trong sự hiện diện vinh-hiển của Đức Chúa Trời.
Khi tôi đi lên bục giảng, mục sư chủ tọa lùi lại. Tôi định ngồi xuống một băng ghế nhỏ, nhưng ông ta ra dấu cho tôi đến. Tôi nói với họ, “Tôi đã ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.” Nhưng họ nghĩ tôi có ý nói tôi đã ở trong sự cầu nguyện. Biết rằng họ không hiểu, tôi giải thích, “Không, tôi không nói về cầu nguyện; Tôi muốn nói đến ở trong sự hiện diện thực thể của Đức Chúa Trời.” Tôi đã được đưa đến Thiên-đàng!
Tôi không có giảng đêm đó. Tôi không có nói gì cả, nhưng người ta bắt đầu ngã dưới quyền năng Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời! Có một sự thăm viếng khắp hội trường mà tôi không phải nói gì thêm !!!.
Hỡi bạn đọc, quý vị không thể nào vào Thiên đàng nếu tên của quý vị không được ghi trong sách Sự Sống của Chiên Con! Nếu quý vị chưa được cứu, xin hãy tận dụng thì giờ ngay bây giờ, quỳ xuống trước Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi của quý vị, và nhận qúy vị làm con. Bất cứ giá nào, quý vị nên quyết định bây giờ, để nhận lấy thiên đàng làm nhà ở đời đời cho mình.
Làm thế nào để tôi thoát khỏi Hỏa ngục mà vào Thiên-đàng?
Lời Chúa dạy: “vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời” (Rô-ma 3:23).
“Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi.” (Công vụ 3:19).
“Vậy nếu miệng ngươi xưng Ðức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Ðức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu.” (Rô-ma 10:9)
Nếu bạn muốn tiếp nhận Chúa Jesus vào linh hồn và đời sống bạn, mời bạn cầu nguyện theo những lời hướng dẫn sau đây với tấm lòng chân thành của bạn:
Lạy Đức Chúa Trời (Thượng-đế) là Đấng Tạo Hóa và là Chúa của vũ trụ nầy! Con biết con đã phạm tội, và làm những việc không đẹp lòng Ngài. Con cám ơn Ngài, vì Ngài đã yêu thương con và ban sự sống đời đời cho con qua sự chết đền tội của Chúa Jêsus trên thập tự giá cho con. Con xin Ngài tha thứ tất cả tội lỗi của con, và tẩy sạch đời sống con. Con cầu xin Chúa Jesus Christ bước vào đời sống con. Con xin dâng chính mình con và cuộc đời con cho Ngài. Xin dạy con đặt Chúa đầu tiên trong mọi suy nghĩ và mọi việc làm của con. Xin giúp con theo Ngài và vâng theo những Lời dạy của Ngài. Xin giúp con thắng hơn những cám dỗ, và bảo vệ con khỏi mưu kế của kẻ ác. Con thờ phượng và ngợi khen Ngài. Cảm tạ sự hy sinh của Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá, để con có được sự sống vĩnh cửu nơi Ngài. Con cầu nguyện trong Danh Chúa Jêsus, Amen!
(“A-men” có nghĩa là: “muốn thật hết lòng như vậy”)
Bạn hãy tìm đến một Hội Thánh Tin Lành, nơi Tín hữu tôn trọng uy quyền tuyệt đối của Kinh Thánh là Lời Chúa, để được giúp đỡ thêm trong đức tin và trong đời sống mới theo Chúa của bạn!
Ngưỡng Cửa Thiên Đường
Thừa hưởng thiên ân cả thế gian Nhân loại mưu đồ thêm tội lỗi Sao sáng ngàn sao Thiên sứ ngự Vũ trụ reo vui người cứu thế Nhân loại bon chen vùng thế sự Cây cỏ ngàn sau ghi tội lỗi |
ÁNH SÁNG NGÀN THU
Hởi ánh sáng ngàn thu * Hởi ánh sáng ngàn thu * Hởi ánh sáng ngàn thu * Hởi ánh sáng ngàn thu * Hởi ánh sáng ngàn thu * Hởi ánh sáng Giê xu * Dâng ánh sáng ngàn thu |