Trân Ở Tù Cùng Với Chúa Giê-xu
Tác giả: Danyun
1. Bởi Con Người đến để tìm và cứu kẻ bị mất. (Lu-ca 19:10)
Trước kia tôi thường hay coi khinh những người tin Chúa Giê-xu. Tôi hoàn toàn không biết làm gì với những điều họ nói với tôi về Đức Chúa Trời. Cho đến một ngày kia, mẹ tôi bịốm nặng. Bà đã già rồi và bác sĩ nói rằng chẳng bao lâu bà sẽ chết. Mẹ tôi biết rằng mình sẽ không khỏe lại nữa, trong những ngày đó, bà đã rất thay đổi. Bà làm tôi ngạc nhiên vì bà bắt đầu quan tâm đến niềm tin Cơ-đốc, bà càng yếu chừng nào thì sự mong muốn được tìm hiểu nhiều hơn về Chúa Giê-xu càng tăng lên. Hồi đó tôi kiên quyết chống lại Cơ-đốc giáo và không ngần ngại khước từ mọi lời nài xin của mẹ tôi và giữ không cho các Cơ-đốc nhân đến gần ngôi nhà chúng tôi. Cuối cùng, bà đã chết mà không có ai có thể kể cho bà nghe về Chúa Giê-xu. Tôi buồn rầu vì cái chết của bà, nhưng tôi đã cho rằng mình đã cư xửđúng đắn.
Vào mùa đông 1979, bỗng nhiên tôi bị bệnh nặng. Trong khi đó tôi đã lập gia đình và có ba con nhỏ. Giống như phong tục ở Trung Quốc, gia đình chúng tôi sống ở nhà bố mẹ chồng. Trong vòng mấy ngày sau, các con cái tôi cũng lần lượt bịốm theo, cho đến khi tất cả bốn chúng tôi đều nằm trên giường. Tôi rất yêu các con tôi và thấy đau lòng khi không thể an ủi và săn sóc chúng được. Nhưng tôi quá yếu không thể rời khỏi chiếc giường. Những sự lo lắng cho con cái cứ canh cánh trong lòng, tôi không thể chịu được những tiếng khóc của chúng. Tôi sẵn sàng làm bất cứđiều gì, miễn là tôi có thể giúp được chúng nó. Nhưng bản thân tôi càng ngày càng thậm tệ hơn. Trong sự tuyệt vọng mình, tôi bắt đầu cầu nguyện. Vì tôi không biết gì về niềm tin Cơ-đốc, nên tôi đã cầu nguyện với những ông thần của Phật giáo mà tôi quen thuộc. Nhưng sự sợ hãi của tôi càng tăng lên, tôi không thểăn và ngủ được nữa, những hình ảnh về sựđau khổ và cái chết của các con dày vò tôi, và chính tôi cũng cảm thấy dường như cái chết đang đến gần. Cuối cùng, tôi thấy chán sống và muốn được chết và bắt đầu nghĩ về sự tự sát. Tôi đã từ bỏ mọi hi vọng cho chính mình và cho các con tôi.
Trong những ngày đen tối đó, có một bà hàng xóm đến thăm tôi đều đặn, bà là người tin Chúa Giê-xu. Trước kia, tôi luôn luôn cấm bà không được nói về niềm tin Cơ-đốc, nhưng trong lúc này, tôi đã quá tuyệt vọng để bám vào mỗi một cọng rơm còn lại. Bà kể cho tôi nghe rằng, Chúa Giê-xu yêu tôi và có thể giúp đỡ tôi được. Những lời lẽ bà đã tác động tôi sâu sắc, và Đức Thánh Linh đã thay đổi nội tâm tôi, hầu cho tôi có thể tin cậy vào Đức Chúa Trời, và bằng mọi sự quyết tâm, tôi đã quay khỏi thái độ trước kia, căn bệnh của tôi đã biến mất trong thời gian ngắn nhất mà không cần một sựđiều trị y tế nào, và các con tôi cũng nhanh chóng lành bệnh, và cho đến hôm nay là những đứa trẻ khỏe mạnh, vui tươi, căng tràn sức sống.
Một cuộc sống mới bắt đầu. Có một niềm vui đầy dẫy tôi dù trong hoàn cảnh nào. Tôi yêu thích học Lời Chúa và tận dụng mỗi giây phút rảnh rỗi để đọc Kinh thánh. Càng ngày, Kinh thánh càng hấp dẫn tôi nhiều hơn, tôi nghiệm thấy rằng đó là những lời hằng sống của Đức Chúa Trời đã thay đổi bản chất tôi. Tất nhiên, sự chuyển hướng trong đời sống tôi không thể qua mắt được những người khác ở chung quanh, và tôi vui mừng về mỗi dịp tiện có thể kể về sự Đức Chúa Trời đã bắt đầu làm trên đời sống tôi. Những điều tốt lành mà tôi khám phá được trong Chúa Giê-xu, trước hết tôi thường hay kể lại cho chồng. Chồng tôi bị bệnh huyết áp cao, tôi đã cầu nguyện cho anh và Đức Chúa Trời với sự nhân từ Ngài, đã chữa lành hoàn toàn cho anh. Dẫu vậy, anh chống đối Đức Chúa Trời và đặt cho tôi nhiều tảng đá cản trở trên đường đi. Mặc dù anh vẫn đối xử tốt với tôi, nhưng bây giờ anh đã cấm tôi đi thờ phượng Chúa, và cả việc cầu nguyện ở nhà anh cũng cấm tôi. Vậy nên, tôi đã quen thức đến khuya, chờ cho anh đi ngủ. Sau đó, tôi lẻn ra sân đằng sau nhà và cầu nguyện. Thỉnh thoảng, anh bắt được tôi, thì giận dữ và trách tôi nặng nề, nhưng điều đó không làm cho tôi nản chí, vì sự vui mừng bên trong lớn hơn những lúc chịu khổđó. Tôi vui hưởng những giờ phút trong sân, khi đó tôi trút đổ tấm lòng mình cho Đức Chúa Trời và đặc biệt cầu nguyện nhiều cho chồng, xin Chúa Giê-xu mở mắt anh, để anh nhận biết tình yêu Đức Chúa Trời và dâng hiến mình cho Ngài.
Năm tháng sau đó, có điều không thể hiểu được đã xảy ra: Chồng tôi làm việc trong một công xưởng, bị một tai nạn vì đã chạm phải dòng điện cao thế. Anh chết ngay lập tức. Khi tôi nhận được tin anh chết và nhìn thấy thân thể cháy đen của anh, thì sựđau đớn và buồn khổ tràn ngập tôi như những đợt sóng màu đen, đánh gục tôi và kéo tôi xuống vực sâu. Thêm vào đó, mẹ chồng và gia đình bên chồng, là nơi chúng tôi đã sống chung, đã lập tức chống lại tôi, trách cứ và loại tôi ra khỏi những cuộc trò chuyện và quyết định của gia đình. Điều đó quá nhiều đối với tôi, tôi bị chơi vơi, mất chỗ đứng. Vô vàn những sự kinh hoàng, đau khổ và sự thù nghịch đó là quá sức đối với tôi. Một dạng như sự chấn động tinh thần đè lên tôi, tôi phải nằm xuống và ngất đi. Tôi đã nằm bất tỉnh như vậy khoảng ba mươi phút, thì có những Cơ-đốc nhân từ bên hàng xóm, nghe tin về sự bất hạnh của tôi đã đến để an ủi tôi. Họ thấy tôi bị bất tỉnh nhân sự và bắt đầu cầu nguyện cho tôi. Cảm tạ Chúa về sự cứu giúp của Ngài, sau đó tôi đã tỉnh lại, đứng lên và thậm chí cảm thấy mạnh mẽ.
Một thời gian rất khó khăn bắt đầu đối với tôi. Con tôi, đứa lớn nhất là chín tuổi, đứa nhỏ nhất mới lên ba. Bây giờ, toàn bộ trách nhiệm trút lên cho tôi. Tôi không chỉ chăm sóc cho con tôi, nhưng cho cả mẹ chồng. Dẫu vậy, thái độ của bà đối với tôi vẫn thù ghét, và bà muốn đuổi tôi ra khỏi nhà là tốt nhất. Bà không bỏ qua một cơ hội nào, để tỏ cho tôi thấy sự hắt hủi của bà và ngăn trở công việc tôi. Bây giờ, vì con trai bà không còn nữa, nên tôi và các con tôi trở nên không cần thiết trong cuộc sống bà. Hằng ngày bà chửi mắng tôi. Nhưng Đức Chúa Trời tôi che chở tôi và ban cho tôi năng lực và sự can đảm để muốn sống tiếp tục.
Chồng tôi và tôi đã sống chung được chín năm và chúng tôi rất yêu thương nhau. Tôi thật thấy thiếu vắng anh, và mặc dù anh đã chết, tôi vẫn không thôi yêu anh. Trước khi anh chết, chúng tôi có chụp cho anh một tấm ảnh, bấy giờ tôi đem đến hiệu ảnh phóng to ra. Tôi mua một khung ảnh thật đẹp và đặt ảnh của anh vào nơi trang trọng trong căn phòng chúng tôi. Mỗi ngày tôi ngắm nhìn gương mặt anh rồi khóc và nhớ thương anh. Càng ngày sự buồn rầu của tôi càng tăng lên, cho đến khi tôi hoàn toàn đánh mất sự bình an và niềm vui bên trong, tôi càng lẫn trốn vào trong những sự nhớ thương đau đớn và những giấc mơ ban ngày. Tấm ảnh này trở nên một cái bẫy cho tôi, và chỉ còn cách gang tất, tôi đã suýt nữa gây ra một sự bất hạnh tiếp theo.
Một ngày kia, có một phụ nữ đến thăm tôi, bà là con cái Chúa. Bà vừa bước chân vào trong nhà tôi, thì ngã lăn đùng xuống đất, và sau vài hơi thởđã chết trước mắt tôi. Tôi chết lặng người vì kinh hoảng và hoàn toàn không biết mình phải làm gì. Điều duy nhất tôi nhớđược là quì gối xuống và kêu cầu Chúa.
“Chúa ơi, như thế là quá nhiều đối với con, xin đừng để cho như vậy! Đức Chúa Trời ơi, có phải tại con hay không? Con có làm gì sai không? Xin Chúa hãy thương xót người đàn bà này, xin đừng để cho bà chết! Và Chúa ơi, nếu đó là tại tội lỗi trong đời sống con, thì xin hãy chỉ ra, xin hãy thương xót chúng con!”
Tôi kéo thân thể không còn động đậy của người chị em vào trong phòng ngủ của tôi và đặt lên giường tôi. Sau đó tôi sai đứa con trai cả: “Con ơi hãy chạy thật nhanh và gọi tất cả những Cơ-đốc nhân đến đây, hãy nói với họ, có điều kinh khủng đã xãy ra, và họ phải cầu nguyện! Họ đừng để mất thời gian!” Những con cái Chúa sống cách đó gần nhất cũng bảy tám cây số và chắc sẽ rất lâu cho đến khi họđến được chỗ tôi.
Trong khi tôi ở lại một mình với người chết, vẫn còn trơ người nhưđá vì sợ hãi, tôi cố gắng cầu nguyện tiếp tục. Thình lình, tấm ảnh chồng đập trước mắt tôi. Tôi dường như cảm nhận rằng, Đức Chúa Trời muốn nói với tôi là phải cất bỏ nó khỏi chỗđó. Bất ngờ và còn hơi không chắc chắn, tôi đứng dậy, cầm lấy tấm ảnh và đặt nó úp mặt xuống đất. Cùng lúc đó, người chị em bắt đầu động đậy. Đột nhiên tôi hiểu là: “Chúa Giê-xu yêu tôi, và Ngài biết điều sâu thẳm trong lòng tôi. Điều đó đã không giấu được Ngài, rằng tôi còn yêu những điều hư không và hư nát của đời này. Nhưng để được gần Ngài, điều cần thiết là phải cắt đứt mọi thần tượng trong đời sống tôi. Ngài chỉ có thể là Chúa của tôi, nếu tôi giải phóng mình khỏi mọi cái đó và chỉ nhìn lên Ngài. Phục vụ Ngài, có nghĩa rằng Ngài là đối tượng quan trọng nhất trong đời sống tôi.” Trong chớp nhoáng mọi điều đó đã rõ ràng trong tôi. Về nội tâm tôi phải tách khỏi người chồng đã chết của mình. Ngay lập tức, tôi lấy tấm ảnh ra khỏi khung và xé nó thành những mảnh nhỏ, trong khi vừa lớn tiếng cảm tạ Chúa Giê-xu, tôi quẳng những mẫu giấy xé vụn đó vào đống lửa đang cháy bập bùng trong lò sưởi nhỏ của chúng tôi. Trong lúc đó, người chị em đã ngồi dậy và hỏi tôi điều gì đã xãy ra thế. Một lát sau con trai tôi và những Cơ-đốc nhân chạy bổ vào nhà thở hổn hển. Tôi kể nhanh gọn cho họđiều gì đã diễn ra và sau đó chúng tôi cùng nhau dự một buổi thờ phượng cảm tạ và tôn vinh Chúa ở trong phòng ngủ của tôi. Cuối cùng, sự bình an thiên thượng tuyệt vời đó, mà kể từ khi chồng chết, tôi không còn được biết nữa, đã đầy dẫy tôi trở lại.
Nhưng gia đình chúng tôi còn phải đứng trước những sự tấn công tiếp theo của Sa-tan. Hồi đó, chúng tôi sống trên tầng bốn của tòa nhà, và trong khi những anh chị em con cái Chúa đến thăm tôi, họđều cảm thấy không được thoải mái ở trong nhà tôi.
Vào một ngày nọ, có một bà tín đồ đã già và đáng yêu đến thăm tôi, bà đã ngoài bảy mươi tuổi. Chúng tôi thường có thói quen là nói chuyện ngắn gọn vài câu, rồi cùng quì gối xuống và cầu nguyện. Đứa con gái lớn cùng cầu nguyện với chúng tôi, đứa con gái út ngồi trong phòng trên giường và đang chơi. Bỗng nhiên, đứa nhỏ bắt đầu kêu lên: “Mẹơi, đầu gối con đau quá.” Tôi nghĩ rằng chắc là nó thấy chán và muốn cho chúng tôi chơi chung, cho nên tôi không hề mở mắt, mà cứ cầu nguyện tiếp tục. Nhưng ngay sau đó nó bắt đầu rên rĩ, rồi la to: “Ôi, đau quá mẹơi, cái chân con bị làm sao thế này …” Tôi bật dậy và chạy đến chỗ con, nhưng tôi không thể làm gì được nữa. Truóc con mắt tôi diễn ra cảnh tượng rùng rợn: nó hét lên, một tiếng kêu thất thanh, tôi chưa từng nghe có ai kêu như vậy, sau tiếng kêu đó, bỗng nhiên nó im bặt, ngã lăn ra giường và chết. Sự kinh khủng túm lấy tôi như một bàn tay lạnh.
Đứa con gái lớn của tôi lúc đó được tám tuổi, cũng đứng dậy và chạy lại chỗ đứa em, lúc đó đã tắt thở. Nó nhảy xổ tới và ôm đứa em trong tay, lắc lắc nó và muốn đánh thức nó dậy. Nhưng trong khoảnh khắc tiếp theo, nó cũng không còn động đậy nữa và nằm bất động trên đứa nhỏ.
Cả bà tín đồ cũng ngừng cầu nguyện và chạy đến bên giường, chỗ tôi đang đứng bàng hoàng và không hiểu được điều gì đang diễn ra trước mắt. Tôi chết điếng người vì sợ hãi. Bà cúi người xuống để đỡ đứa con gái lớn tôi dậy, nhưng ngay lúc đó, bà lại ngã quị xuống nền nhà và chết.
Tôi chao đảo bước lùi vài bước, mồ hôi đổ ra sau lưng vì khiếp đảm, tôi không dám đụng đến những người chết. Rốt cuộc chỉ còn tôi là người còn sống sót, vừa mới trước đây ít phút thì ởđây còn là một nhóm nhỏ vui vẻ…! ‘Ngươi là đứa kế tiếp!’ , đó là điều duy nhất mà tôi nghĩ tới lúc đó, đầu tiên tôi không thể cầu nguyện hay làm một điều gì khác. Mắt không rời khỏi ba thân thể bất động, tôi sụp xuống vào một góc phòng và những tiếng nấc không còn nước mắt rung lên trong tôi, trong khi tôi run rẩy đem trình sự việc lên: “Chúa ơi, xin cứu chúng con!” Tôi cứ gọi liên tục, kêu van và than khóc: “Đức Chúa Trời ơi, xin cứu chúng con!”
Vì những tiếng khóc và kêu nài của tôi nên những người hàng xóm đã để ý, và có một đám người đứng trước phòng tôi. Nhưng không ai dám bước vào phòng, họ chỉ nhìn qua cánh cửa, và cảnh tượng mà họ nhìn thấy khiến họ vội bỏđi: hai đứa trẻ chết nằmtrên giường, một bà già dưới nền nhà phía trước, tôi ngồi thu lu ở góc phòng đối diện, không ngớt kêu cầu Đức Chúa Trời. Một trong những bà hàng xóm đã nói điều đó cho ông giám đốc nhà máy, nơi tôi làm việc. Ông làm điều cần thiết nhất là đặt một chiếc xe chở xác chết.
Không lâu sau đó, ông giám đốc và những người khiêng xác chết đã đến. Họ muốn đem ba xác chết đến nhà xác. Ông thủ trưởng hỏi tôi: “Cô Trân, tôi cho rằng, sau mọi điều đã xảy ra hôm nay, cô nhìn ra được rằng niềm tin của cô vào ông Giê-xu này là nguy hiểm?”
Nhưng câu trả lời của tôi đến không chút lưỡng lự: “Tôi tin, và vẫn luôn tin. Và nó cũng tốt cho ông, nếu cuối cùng ông cũng tin Chúa Giê-xu.”
“Thật là điều vô lý,” ông giám đốc đáp lại, “cô hãy đem những người chết vào bệnh viện. Niềm tin của cô không giúp gì cho cô, mà cô là một nạn nhân của sự mê tín này.”
Sau đó, quyền năng Đức Chúa Trời đã đến trên tôi, sự sợ hãi đã biến mất và bỗng nhiên tôi biết phải làm điều gì. Tôi đứng dậy khỏi góc phòng và tuyên bố bằng uy quyền: “Chúng tôi sẽ không đi đến bệnh viện. Chắc chắn Chúa tôi sẽ giúp đỡ tôi!”
Những lời vừa ra khỏi miệng, tôi còn chưa có thời gian để ngạc nhiên về sự dạn dĩ của mình, thì phép lạđã xãy ra. Những đứa trẻ và người phụ nữ cùng một lúc động đậy trước mắt ông thủ trưởng của tôi. Trong khi cả ba đã sống lại, thì những người đàn ông kia nhanh chóng rời khỏi căn phòng tôi.
Không còn phải hỏi, Đức Chúa Trời đã nói vào đời sống tôi bằng cách thức rất khác thường. Nhưng Ngài dùng biến cố này để tỏ cho tôi thấy tình yêu của Ngài. Tinh thần tôi yếu đuối và đầy sự tự thương hại mình, tôi đeo theo mấy đứa con tôi hơn là đeo theo Chúa Giê-xu, và những điều hư không chóng qua, tôi coi trọng hơn là việc nói về Chúa Giê-xu cho những linh hồn quí giá. Đức Chúa Trời đã biết sự yếu đuối của tôi và Ngài đã dùng mọi cái để làm cho tôi được mạnh và giải phóng tôi khỏi mọi sự nông cạn. Tôi học được sự nhận biết chắc chắn rằng tình yêu Ngài là sựđáng tin cậy nhất trong đời sống tôi, tình yêu Ngài còn mạnh hơn cả sự chết. Được tình yêu đó bồng ẵm, tôi có thể dám phú thác cho Ngài và đầu phục Ngài. Về bên trong, tôi đã được chuẩn bị như vậy cho sự chịu khổđang chờở phía trước mình, và trong trường học của sự phú thác này, tôi đã được rèn luyện để về sau ở trong tù, có thể đứng vững trong Đức Chúa Trời mình và trở nên một nguồn phước cho những tù nhân khác.
Đức Chúa Trời bắt đầu dùng căn hộ của chúng tôi để phục vụ những người cần được sự giúp đỡ. Hầu như không có ngày nào mà không có những bạn bè con cái Chúa của tôi đem đến cho tôi những người cần sự cầu nguyện. Trong lúc đó, tôi thường nghĩ đến câu Kinh thánh: “Nếu ai không yêu anh em mình thấy được, thì không thể yêu Đức Chúa Trời, là Đấng mình không thấy được.” (I Giăng 4:20). Nên tôi sẵn sàng tiếp nhận tất cả mọi người.
Trong thời gian đó, ba con tôi và tôi chỉ có khẩu phần ăn cho một người. Cuộc sống của chúng tôi chắc chắn là không nhẹ nhàng chút nào, nhưng Đức Chúa Trời đã chúc phước cho tôi bằng những đứa con tuyệt vời. Chúng không bao giờ than vãn và chấp nhận hàng ngày chỉăn một bữa, mà thường là những bữa ăn rất đạm bạc. Sau đó, những đứa trẻ thường hay ra đồng và tìm rau cỏ, để chúng tôi ăn độn với ‘bánh bao’. Nếu chúng tôi có khách, thì chúng tôi đem giấu những ‘bánh bao’ đó và sai các con đi mua một vài thứ để chúng tôi có thể nấu cho những người khách những đồ ăn ngon. Các con tôi luôn luôn đồng ý.
Và Đức Chúa Trời bằng sự nhân từ của Ngài đã ở về phía chúng tôi, cho nên, chúng tôi luôn khỏe mạnh. Hằng ngày, tôi và các con cùng nhau ngợi khen Đức Chúa Trời, và chúng tôi tràn đầy niềm vui. Thỉnh thoảng, tôi giúp đỡ bố tôi làm công việc cho ông và thường khi đó phải đi làm muộn, điều đó khiến cho tôi bị trừ lương và bị phê bình, nhưng tôi được bảo bọc bởi sự bình an, và không ai và không có gì có thể làm suy chuyển được.
2. Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta? (Ê-sai 6:8)
Vào một ngày, Đức Chúa Trời nói rất rõ cho tôi. Ngài nói với tôi là tôi sẽ rao truyền Tin lành của Chúa Giê-xu ở một nơi xa xôi. Đó là vào năm 1982. Lúc ấy tôi chưa có đến một quyển Kinh thánh riêng, và tôi cũng không thể tưởng tượng được là sẽ nói tin lành trước đông người. Về khoản ăn nói, tôi vừa không được tập luyện lại không có năng khiếu. Và Đức Chúa Trời cũng không nói cho tôi là ởđâu. Điều mà khi ấy tôi không thể lường được, là Đức Chúa Trời đã chọn tôi để nói về Ngài ở trong tù.
Đến tháng 3 năm sau, tôi cùng với năm anh chị em tín đồ khác đến một địa điểm nọ để thăm viếng và làm báp tem cho những người mới tin Chúa. Chúng tôi đã có một thời gian tuyệt vời ở cùng nhau và trở về đầy sự vui mừng và được mạnh mẽ trong đức tin. Ở nhà có một bà tín đồ đang đợi tôi, bà bị ung thư và tình trạng bệnh tật của bà càng trầm trọng. Tôi đón bà vào nhà mình, và cùng anh Vũ, chị Linh, chúng tôi đã cùng nhau kiêng ăn cầu nguyện ba ngày và cầu xin Đức Chúa Trời chữa lành cho người phụ nữ này. Tuy chúng tôi đã cầu nguyện hết sức khẩn thiết với Đức Chúa Trời, nhưng không có gì xảy ra, càng tệ hơn, mỗi ngày, bà càng trở nên yếu ớt hơn. Bà thở càng khó khăn mệt nhọc, và rõ ràng là bà không còn sống lâu nữa.
Tôi thấy hết phương cách và vô vọng. Tại sao Đức Chúa Trời không can thiệp vào? Ngài vẫn thường chứng tỏ quyền phép của Ngài mà! Trong suốt thời gian ba ngày này, sự mong muốn cho người chị em đó được lành thật lớn, thậm chí, tôi đã cầu nguyện rằng, thà Chúa để cho con tôi về với Ngài còn hơn là để cho bà ta chết. Tôi không hiểu tại sao, nhưng Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu nguyện của chúng tôi, và người chị em chết vào ngày thứ ba trong nhà tôi.
Khi tin về cái chết của người phụ nữ này được đồn ra, thì có nhiều con cái Chúa ở hội thánh địa phương đến thăm tôi. Một vài người chỉ trích tôi và nói rằng tôi đã làm một điều hết sức ngu dại, mà tiếp nhận người chị em vào nhà mình, trong khi thấy bà có thể sẽ chết. Nhưng tôi biết rằng tôi đã hành động đúng đắn, nên tôi đã bình tĩnh và không nói gì đối với họ. Tôi không thất vọng, vì Đức Chúa Trời không can thiệp, và hoàn toàn không sợ hãi. Một sự bình an thiên thượng đầy dẫy tôi. Anh Vũ và chị Linh cố tình ở lại nhà tôi. Tôi tìm cách thuyết phục họ rằng, họ hãy về nhà mình đi, vì tôi biết rõ rằng trong hoàn cảnh đó không phải là không nguy hiểm. Cái chết của người phụ nữ sẽ được tâu trình lên cho công an và qua đó sẽ có một lý do để chống lại những Cơ-đốc nhân chúng tôi.
Tôi nói đủ mọi cách: “Xin hãy nghĩ đến gia đình các anh chị, không cần anh chị phải tự nộp mình cho sự bắt bớ. Tôi nhận lấy trách nhiệm này về một mình tôi cũng không sao cả, và đằng nào tôi cũng phải làm, dù anh chị có ởđây. Nhưng bây giờ xin hãy đi, tôi xin anh chị, trước khi công an họ đến!” Ít giờ đồng hồ sau đó, công an đến, và không cần phải nói nhiều, họđem chúng tôi lên đồn. Anh Vũ vừa ra về và đã thoát khỏi sự bị bắt.
Vừa đến đồn công an, họ lập tức tách chúng tôi ra. Tôi bị hỏi cung đầu tiên. Một viên cán bộ cấp cao của công an địa phương ngồi bệ vệ đằng sau một chiếc bàn cũ, với vẽ người trơ trơ, kênh kiệu, với bộ quân hàm hãnh diện, mà tôi không biết được giá trị cấp bậc của nó. Ông cùng một giọng nói giống như tôi, nhưng gương mặt thì lạnh lùng và ông vặn tôi bằng giọng như dao cắt: “Cô hãy nói cho tôi biết, ai chịu trách nhiệm về cái chết của người đàn bà này?”
Mặc dù tôi chưa lần nào ở trong một tình huống giống như vậy, nhưng tôi cảm thấy thật bình an, cho đến nỗi người ta cho thái độ của tôi là không tôn trọng. Tôi biết rằng, tôi không làm điều gì sai trái, dẫu bên ngoài mọi người có thể thấy tôi ở trong thế bất lợi đến đâu. Và tôi biết rằng Đức Chúa Trời đang ở bên tôi. Nhưng điều đó còn hơn cả sự hiểu biết: Tôi vẫn còn cảm nhận sự bình an sâu lắng đó, là sựđã tràn ngập tôi kể từ cái chết của người chị em. Giữa tình cảnh đầy sự thù nghịch này tôi vui hưởng được sự nương náu của tình yêu Đức Chúa Trời. Tôi trả lời bằng một giọng bình tĩnh, chắc chắn: “Tôi là người chịu trách nhiệm.”
“Cô nói dối! Chúng tôi biết có một người đàn ông ở chỗ cô! người đó là ai?” Rất có thể là những người hàng xóm không những chỉ báo công an về cái chết của bà ở trong nhà tôi mà còn nói ba chúng tôi đã cầu nguyện.
Tôi đáp lại: “Không, chỉ có mình tôi cầu nguyện cho bà ấy. Không ai tham gia vào nữa.”
“Cô đã giết bà ấy bằng cách nào?”
“Tôi muốn bà ấy đến bệnh viện, nhưng bà từ chối. Tôi đã không làm gì hơn là hát ca ngợi Chúa và cầu nguyện với Đức Chúa Trời.”
Người công an nhỏm dậy đằng sau cái bàn, mặt ông ta đỏ bừng, cố gắng kiềm chế, ông gằng giọng: “Tốt hơn hết là cô hãy tự động khai thật đi. Nếu không, chúng tôi cũng có những biện pháp để moi toàn bộ câu chuyện nơi cô ra.” Và để làm tôi hoảng sợ, ông vớ lấy một trong những dụng cụ tra tấn ở xung quanh, mà tôi chỉđoán được những công dụng của nó, ông cầm vật đó quay quay và tỏ vẻ lơđễnh.
Chỉ bởi ân điển Đức Chúa Trời, mà trong hoàn cảnh đó tôi đứng trước con người này không hề sợ hãi gì. Tôi lập lại những điều vừa nói: “Xin ông hãy tin tôi, tôi là người cầu nguyện cho bà ấy. Nhưng vì thời gian sống trên đất của bà đã hết, nên Đức Chúa Trời đã đưa linh hồn của bà về Thiên đàng.”
“Linh hồn là cái gì? Thiên đàng là cái gì?”
“Ông biết không,” tôi vui vẻ giải thích cho ông, “mỗi một người có một linh hồn bất tử. Ai tin Chúa Giê-xu, không chỉ nhận được sự chữa lành cho thân thể mình ở dưới đất này, mà linh hồn người đó cũng được cứu. Vì thế, tôi nghiêm túc khuyên ông, ông nên tin Chúa Giê-xu, vì chính Ngài đã nói rằng, ai tin Ngài thì có sự sống đời đời, nhưng ai không tin Ngài thì đã bịđoán xét rồi.” (Giăng 3:18, 6:47)
“Cô im mồm đi” Ông quát lên “hay là cô chán sống rồi? Có người đã chết vì niềm tin điên rồ của cô vào ông Giê-xu đó, và bây giờ cô còn tìm cách thuyết phục tôi nữa?”
Tôi nhìn thẳng vào cặp mắt ông và đáp: “Thưa quí ông, tôi vừa rao truyền cho ông tin lành về Chúa Giê-xu. Nếu ông không tin, và một ngày kia ông bịđem ra trả lời trước Đức Chúa Trời, thì tôi không chịu trách nhiệm về ông nữa.”
Ông đồn trưởng công an không nói được vì giận dữ, ông đưa tay ra hiệu cho những kẻ đứng chờđằng sau đưa tôi đi. Bây giờđến lượt chị Linh.
“Cô hãy nói thật cho tôi, có phải người đàn ông đi chung đã giết người phụ nữđó không?” Bây giờ ông công an đó cũng tìm cách moi tin tức từ chị Linh. “Nếu cô kể cho chúng tôi biết toàn bộ sự việc diễn tiến ra sao, thì chúng tôi sẽ khoan hồng và tha tội cho cô.”
Chúng tôi đã không thỏa thuận trước, nhưng chị Linh cũng trả lời quả quyết như tôi trước đó. “Không, chuyện này không liên quan gì đến người đàn ông có mặt ở trong nhà, lại càng không liên quan gì đến cô Trân. Chỉ là lỗi duy nhất của tôi, vì tôi đã đem người đàn bà bị bệnh đó vào nhà cô Trân và đã cầu nguyện cho bà mỗi ngày.”
Mọi nghệ thuật, mọi sựđe dọa từ phía công an không ăn thua gì, chị Linh giữ vững lời mình: “Chỉ mình tôi chịu trách nhiệm về cái chết của bà ta.”
Sau những lần khảo cung đó, mới đầu chúng tôi lại được thả ra, Nhưng cả hai chúng tôi biết rằng sự việc vẫn chưa xong xuôi. Tôi bị bắt phải trả một khoản tiền phạt: Tôi phải trả cho gia đình người chết 500 nhân dân tệ (bằng năm tháng lương), là lệ phí việc mai táng. Nhưng tôi vẫn vui vẻ, dù lương tôi hàng tháng vừa đủ cho tôi và các con, và chúng tôi không có khoản tiền tiết kiệm nào. Các con tôi và tôi phải tìm những người hàng xóm và những người quen đề nghị họ cho chúng tôi mượn, anh Vũ và chị Linh cũng phụ giúp với, đến khi tôi có thể có được số tiền lớn đó và đem cho những thân nhân của người quá cố.
Trong lúc đó, người không bị bắt là anh Vũđã phải nghĩ ngợi nhiều. Anh biết rằng tôi có ba con nhỏ, nếu trong trường hợp tôi bị bắt, thì chúng sẽ giống như bị mồ côi, không nơi nương tựa và chắc gia đình anh sẽ phải chăm sóc chúng. Còn chị Linh, có chồng và mẹ chồng chưa tin Chúa, cũng đông con, nếu vậy những đứa nhỏ sẽ lớn lên mà không có sự dạy dỗ bằng niềm tin Cơ-đốc. Anh càng suy nghĩ và cầu nguyện cho điều đó, thì anh càng thấy sáng tỏ: chính anh sẽ ra trình diện công an, anh nghĩ rằng như vậy còn hơn là bắt mấy phụ nữ phải bỏ con nhỏ lại.
Anh cầu nguyện lâu và khẩn thiết cho vấn đề này, đến khi Đức Chúa Trời ban cho anh sức lực để chia tay với gia đình và tình nguyện đến đồn công an. Những người công an thấy kinh ngạc không ít, khi anh tự giới thiệu. Lập tức, anh bị hỏi cung và không cần phải lo lắng về hậu quả của những điều mình nói, anh nhận lấy toàn bộ trách nhiệm về cái chết của người phụ nữ. Bằng mọi lý do có thể có, anh tìm cách thuyết phục những người công an rằng, một mình anh có lỗi và toàn bộ sự việc không hề liên quan gì đến chúng tôi.
Đó là vào đầu tháng ba 1983, khi công an địa phương tuyên bố anh là kẻ thủ phạm, họđã bắt giam và kết án anh. Khi tôi vừa nghe tin đó, tôi liền đến thăm gia đình anh, đem cho họ những món quà và tìm cách an ủi động viên họ. Đức Chúa Trời sẽ gìn giữ người chồng và người cha của họ trong tay Ngài và Ngài cũng sẽ săn sóc gia đình họ, tất cả chúng tôi đều tin chắc như vậy. Từđó, tôi đến ngay nhà tạm giam, là nơi anh Vũ bị bắt giữ. Tôi rất muốn gặp anh và động viên anh, nhưng tôi không nghĩ rằng lính gác cổng sẽ cho phép tôi vào thăm anh.
Người mặc quân phục ở cửa ra vào trại giam muốn đuổi tôi ra lập tức mà không cần nghe tôi nói gì. Nhưng tôi tìm cách không để cho sự lạnh nhạt đó làm lúng túng. “Ông biết không”, tôi nói ngọt ngào với tên lính “thật ra tôi có lỗi về toàn bộ việc này. Người đàn ông mà ông bắt giam đó không thể làm gì được. Ông bắt anh ta là không đúng. Trên thực tế người phụ nữđó đã chết trong nhà tôi, tôi đã cầu nguyện cho bà, anh ta hoàn toàn không liên quan gì. Tôi sẽ nhận tội mình và nhận hình phạt phải chịu.”
“Tôi không biết vụ việc gì hết, ông Vũ được giao cho tôi canh giữ, tất cả chỉ có thế. Tôi cũng không quan tâm gì hơn, tất cả những chuyện khác là việc của cấp trên tôi.” Cứ như vậy người lính canh muốn dứt điểm nhanh gọn với tôi. Nhưng tôi không chịu buông lỏng hơn: “Ít ra tôi có thểđưa cho anh một chiếc khăn tay hay một ít thức ăn được không?”
“Không, rất tiếc là không được. Bây giờ xin cô đi cho”. Tôi vẫn ởđó và nói tiếp: “Xin đồng chí đi mà, đồng chí biết là người ta cần khăn tay trong tù mà!” Cuối cùng người lính canh thấy lắm chuyện và miễn cưỡng nhượng bộ: “Thôi được, cô hãy đưa khăn mùi xoa cho tôi, tôi sẽđưa cho tù nhân.”
Tôi đứng lại đó và nhìn người lính canh đi vào với một gói nhỏ. Sau đó, tôi biết được rằng tên lính đi vào phòng giam số một. Tôi có nghe nói rằng đó là phòng dành cho những tội phạm trầm trọng. Có lẽ những tù nhân của phòng này hằng ngày bị hành hạ, tra tấn và đối xử tồi tệ nhất. Khi tôi nghĩ như vậy thì ruột gan tôi co lại. Người anh em thân yêu, thật đáng thương! Và tôi kêu tên anh to đến mức có thể được. Một trong những người lính gác cửa quát mắng tôi: “Ai cho phép cô? Cô có biết mình đang ởđâu không? Cô hãy thôi ngay, đừng kêu la nữa! Cô đã vi phạm nội qui nhà tù.”
Nhân cơ hội này tôi cũng giải thích cho cả người đó: “Ông Vũ vô tội. Xin ông hãy bắt tôi thay vào chỗ anh ta, tôi chịu trách nhiệm cho sự việc đó và vì vậy mà anh ta đã bị bắt giam.”
Không nói một câu nào, họ lôi tôi ra ngoài cửa. Vào ngày hôm sau, tôi lại đem thức ăn và một cái chăn, đạp xe đến nhà giam, và khung cảnh lại tái diễn. Một viên công an nhận món quà cho anh Vũ, sau đó tôi kêu thật to tên anh và bị tống ra ngoài.
Khoảng mười ngày sau đó, ngày mười lăm tháng ba, chị Linh cũng bị bắt. Tôi đợi ở nhà nửa tháng nay nhưng họ chưa đến bắt tôi. Tôi vẫn đi làm công việc như thường lệ. Hai tuần sau, vào một buổi sáng, khi tôi sửa soạn đi làm thì các con tôi khóc nức nở. Tôi xoa đầu chúng và an ủi chúng.
“Các con yêu dấu của mẹ, thôi đừng khóc nữa, nếu các con khóc sẽ làm cho mẹ rất buồn. Nếu mẹ bị bỏ tù thì các con có Cha chúng ta trên trời săn sóc cho các con. Ngài sẽ gìn giữ các con. Ngoài ra các anh, các chị, các bác, các dì ở hội thánh cũng là các anh, các chị, các bác, các dì của các con. Tất cả họ sẽ lo cho các con.” sau khi trấn tĩnh chúng, tôi đem chúng đi làm như thường lệ.
Vào chín giờ sáng hôm đó, người quản đốc gọi tôi lên văn phòng ông và giải thích rằng ông có một thư mời tôi lên công an. Chính ngay lúc đó, tôi biết rằng, vì công việc của Chúa Giê-xu, có một con đường rất khó khăn đang ở trước tôi. Tôi tìm cách không để cho các con tôi nhận biết những cảm xúc của mình. Các con tôi đã phải mất cha của chúng rất sớm, và giờđây chúng cũng bị lấy đi luôn người mẹ nữa. Kể từ ngày hôm nay, chúng sẽ trở nên những đứa trẻ mồ côi vậy, tự mình lo liệu, không có người bà con nào săn sóc chúng. Qua khóe mắt, tôi nhìn thấy những gương mặt nhỏ bé ướt đẫm nước mắt, nhưng tôi không thể nhìn vào mắt chúng, điều đó sẽ làm trái tim tôi quặn thắt không chịu nổi. Đó là một con đường rất gian khổ.
Khi tôi vừa đến đồn công an thì họđã chờ tôi ởđó. “Cô có biết tại sao hôm nay chúng tôi gọi cô đến đây không?”
“Vâng tôi biết tại sao.”
“Cô bị bắt!” người công an chìa cho tôi tờ lệnh bắt giam. Lúc đó là 9:45AM. Tôi ký nhận lên tờ giấy, đóng dấu tương lai mình trong nhà tù. Nhờ ân điển Đức Chúa Trời, tôi được phép về nhà một lần nữa, có người đi kèm, để sắp xếp công việc và thu dọn những đồ dùng cần thiết nhất cho tôi. Các con tôi vẫn còn trong nhà máy. Khi tôi tạm thời dọn dẹp lại trong nhà lần cuối cùng và nhớ lại buổi chia tay sáng nay với các con, tôi chỉ còn một ước muốn duy nhất: giá mà tôi tìm được một chỗ và khóc. Nhưng Đức Chúa Trời đã giúp đỡ cho tôi không bị quỵ xuống, nhưng sự bình an siêu nhiên của Ngài tràn ngập tôi nhiều hơn đến nỗi tôi không phải khóc một giọt nước mắt nào trước mặt những người công an.
Mấy người công an chờ tôi thấy sốt ruột, cho đến khi tôi xong xuôi, sau đó tôi bị trói và bị tống lên xe chở tù nhân, là một chiếc xe thùng không mái che đem tôi đến nhà tù. Một niềm vui lớn lao tràn ngập tôi, và tôi nhớ đến một câu Kinh thánh: “Thật vậy, tôi không hổ thẹn về tin lành đâu, vì là quyền phép Đức Chúa Trời để cứu những kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Hy-lạp.” (Rô-ma 1:16)
Chiếc xe chạy qua các phố và nhiều người qua lại, đứng tò mò nhìn xem tôi. Đức Thánh Linh nói với tôi và bảo tôi đừng cúi gục đầu, đừng nhìn xuống xấu hổ, nhưng hãy ngồi thẳng dậy và mỉm cười với những người ở hai bên đường.
Tôi nói với chính mình: “Tôi đã không vi phạm luật pháp mà là một tù nhân vì cớ Chúa Giê-xu. Cho nên tôi không cần phải xấu hổ, hơn nữa, đó là một niềm vinh dự lớn cho tôi.” Tôi cũng nhớ đến một bài thơ của bà Curie có tựa đề: “Tình yêu của Ngài đã chắp cánh cho tôi.” Chúng tôi đã chạy qua những đường phố và người qua kẻ lại như vậy, và có thể một thời gian lâu tôi sẽ không nhìn thấy những cái đó nữa.
Trước hết, người ta đưa tôi vào trong sân của đồn công an và để tôi ởđó một mình. Tôi đã quì gối xuống như có thểđược, vì có dây trói và cầu nguyện. Sau một lát có một người công an đi qua, giận dữ xông vào tôi, khi hắn biết rằng tôi đang cầu nguyện từ nãy đến giờ, hắn lôi tôi lên bằng một tay, còn tay khác hắn cởi dây trói cho tôi và kéo tôi tới hành lang đi xuống các phòng giam. Lúc chúng tôi đi qua phòng số hai mươi bốn, thì chị Linh bị giam ởđó, đã nhìn thấy tôi và chị bắt đầu giàn dụa nước mắt, phản đối lớn tiếng: “Tại sao các ông lại đem người chị em của chúng tôi đến đây? Tôi đã nói với các ông rồi là tôi có lỗi thôi. Chịấy không có tội! Chịấy không liên quan gì đến việc này!”
Thật là một tình yêu quên mình biết là dường nào! Mặc dù chính chịấy cũng cùng cảnh ngộ giống như tôi, chị vẫn thấy lo lắng cho tôi và ba đứa con nhỏ của tôi. Chịđã nhận lấy toàn bộ tội lỗi về mình để tháo gánh nặng cho tôi! Tôi chỉ muốn chạy lại ôm chặt lấy chị và khóc cùng chị, nhưng những song sắt lạnh lùng, không thương xót ngăn cách chúng tôi, và người công an phớt lờ đẩy tôi đi tiếp. Tôi bị tống vài phòng giam số hai mươi. Thời gian tù của tôi bắt đầu.
Nhưng ở tại đó, Đức Chúa Trời của chúng ta cũng quan tâm tới chúng tôi. Mặc dù anh Vũ, chị Linh và tôi bị nhốt trong nhiều nơi khác nhau, nhưng chẳng bao lâu, không ngờ chúng tôi tìm được một khả năng có thể trao đổi với nhau. Một chị bị kết án tử hình, đã được nghe về Chúa Giê-xu do chị Linh kể và đã trở thành người tin Chúa. Chịđó được đi lại tự do hơn chúng tôi và mạo hiểm đem tin tức giữa chúng tôi với nhau. Chị không hề sợ hãi và rất đáng tin cậy, một quà tặng tuyệt vời của Đức Chúa Trời. Vậy là, chúng tôi có thể chuyển cho nhau những mẫu giấy để an ủi, động viên và bàn trước về việc sau này chúng tôi sẽ đứng nói trước tòa như thế nào. Trong những ngày đó, tôi nhận được những mẫu giấy nhỏ của anh Vũ và chị Linh gởi cho tôi, tôi chưa bao giờ thấy vui mừng về một bức thưđến như vậy, và về sau này cũng không có như vậy.
Ở trong trại giam này, chị Linh phải chịu đựng nhiều hơn hết. Sự tàn bạo và nhục nhã chị phải chịu ởđó vượt quá những sự tưởng tượng về sự thậm tệ và có thể chưa từng có trước đó bao giờ, nhưng chắc sẽ lập lại ở các nhà tù khác trong tương lai. Khi chi Linh đến nhà tù, chị thấy kinh khủng về tình cảnh tuyệt vọng của những phụ nữ khác, và chị cảm thấy một sự thương xót lớn đối với họ. Chị cầu xin Chúa Giê-xu đầy dẫy chị bằng tình yêu của Ngài đối với những con người khốn khổ nhất trong số những người nghèo này. Nhiều người bị tù đã lâu, nhìn gầy gò vì đói, và chị Linh không làm gì khác hơn là đầu tiên dành cho họ một phần ăn mà những người đến thăm đem cho chị, sau đó, chị cũng quen dần chỉăn một phần của khẩu phần hằng ngày và phần còn lại, chị đưa cho họ. Và cùng với điều đó, chị kể cho họ nghe rằng Chúa Giê-xu yêu họ vô điều kiện và Đức Chúa Trời muốn tiếp nhận họ làm con cái Ngài, vì thế có nhiều chị em đã bắt đầu tin Chúa Giê-xu.
Lúc đầu, những chị cùng bị giam với chị Linh rất khó chịu. Có thể có một tình yêu quên mình được như vậy sao? nhưng sau đó, họ nhận thấy rằng sự vui vẻ, sự mềm mại và nhịn nhục là đích thực và chân tình đối với họ. Dần dà, những sự nghi ngờ cũng tan đi. Khi họ thấy rằng người phụ nữ này còn không sợ hãi trước sự tra tấn, họ bầu chị Linh làm tổ trưởng của họ. Có nhiều nhiệm vụđi kèm theo, một trong những công việc đó là đi lấy cơm cho cả tổ. Mỗi sáng, chị đến căng-tin nhận một cặp lồng cơm cho cả ngày. Một ngày kia, khi chị xách cặp lồng lấy cơm ra thấy có cái gì nâu nâu lòi dưới nắp. Đó là giấy đi cầu. Khi chị giở nắp cặp lồng thì thấy một cục phân người nằm trên cơm. Không để cho ai trông thấy, chịđem cặp lồng cơm về phòng giam. Sau đó, chị gắp cục phân ra, lấy phần cơm bẩn để riêng ra làm phần ăn cho mình, trước khi chịđem cặp lồng cơm cho những chị em khác. Khi chịăn cơm buổi sáng đó, chị nhớ câu Kinh thánh: “Như chiên con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm ở trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng từng mở miệng. Bởi sựức hiếp và xửđoán, nên người đã bị cất lấy.” (Ê-sai 53:7-8) Và chịđã cầu nguyện: “Lạy Chúa, mặc dù Ngài là con Đức Chúa Trời mà Ngài không mở miệng và cứ để cho sự chống nghịch và lăng nhục xảy đến trên mình và Ngài đã tự nguyện chịu bị giết trên thập tự giá. Một học trò không thể lớn hơn thầy mình. Chúa ơi, con cũng muốn sẵn sàng nhận sự căm ghét của thế gian.” Chịđã khóc, trong khi đang ăn, nhưng đó không phải là những giọt nước mắt tuyệt vọng nữa, vì chị biết rằng chịđang bước theo dấu chân của Chúa mình. Khi buổi sáng hôm sau, chịđi lấy cơm, nó lại bị bẩn như vậy và điều đó lập lại nhiều lần, nhưng tôi không bao giờ nghe chị Linh phàn nàn về việc đó.
Tôi biết ông chồng của người đàn bà đã chết trong nhà tôi. Ngay trong lúc bà còn sống, bà hầu như không chịu nổi chồng mình. Ông hầu như không bao giờ chấp nhận để cho bà tin Chúa và cuối cùng ông tìm cách xua đuổi bà vì cớ đức tin. Thuòng lần nào tôi gặp người chị em, tôi đều thấy bà mang những vết tím bầm, bịđánh thương, khi tôi hỏi bà thú nhận rằng chồng mình đã hay đánh đập và đạp lên bà, khi ông thấy bà cầu nguyện. Một lần, khi ông thấy bà đang quì gối cầu nguyện, ông lấy một hòn đá lớn nặng vài chục cân đem để trên bắp chân bà. Sau cái chết của vợ, không những ông đòi 500 nhân dân tệ cho tiền mai táng, mà ông còn thường xuyên đổ lỗi cho tôi và cho tất cả những người mà ông nghi là đã giết bà. Ông đã quyết tâm không yên nghỉ cho đến khi thấy cả ba chúng tôi bị kết án tử hình.
Trong những tuần lễ tiếp theo, ở trong tù để chờ đợi ngày xét xử, chúng tôi bị hỏi cung nhiều lần. Nhưng cho dù những cán bộ và công an tìm đủ cách tìm xem ai là thủ phạm, thì chúng tôi vẫn một mực giữ những lời mình. “Chỉ một mình tôi chịu trách nhiệm cho vụ việc.” Mỗi người trong chúng tôi luôn luôn quả quyết như vậy. Những người có trách nhiệm rất lúng túng và không biết họ nên làm gì với chúng tôi. Gia đình người chết đòi hình phạt cho chúng tôi: một tử hình, một tù chung thân và một án tù hai mươi năm. Cho nên những người công an đề nghị chúng tôi nên thuê luật sư. Chúng tôi cầu nguyện cho việc đó mỗi người trong phòng giam mình, sau đó, chúng tôi lại trao đổi những mẫu giấy nhỏ để thống nhất với nhau về câu hỏi này. Anh Vũ hỏi chúng tôi: Các chị thấy có nên thuê một luật sư, ít nhất là để họ nói thế cho mình không?” Câu trả lời của chị Linh viết dưới: “Vâng rất cần. Chúng ta cần luật sư tốt nhất có thể có. Và thậm chí người đó cũng đã đại diện cho chúng ta bây giờ rồi! Chúa Giê-xu chúng ta là người luật sư tốt nhất, công bình nhất, không ai có thể bảo vệ sự việc của chúng ta tốt hơn.” Tôi tiếp thu ý kiến của chị, vì tôi chắc chắn rằng nếu phải bị giam, thì đó là chương trình của Đức Chúa Trời cho tôi. Nên chúng tôi đã nói cho bên công an biết rằng, chúng tôi không cần luật sư. Họ hết sức ngạc nhiên. Nhưng cách phản ứng của chúng tôi làm họ không thể hiểu nổi. Mỗi tù nhân khi qua tay họ đều tìm mọi cách để đuọc tự do hay ít nhất để giảm hình phạt xuống tới mức tối thiểu. Trái lại, mỗi chúng tôi đề nghị hình phạt cao nhất vì tội giết người cho mình, theo luật đó là tội tử hình.
Phiên tòa xét xử được ấn định vào ngày hai mươi ba tháng bảy. Nhưng tôi rất ngạc nhiên là trước đó vài ngày tôi được phép về nhà và được ở cùng với các con tôi một lần nữa, không nghi ngờ gì, đó là một quà tặng khác thường của Đức Chúa Trời. Nhưng khi tôi bước vào cửa nhà mình, đứa nhỏ nhất chạy ào đến tôi và khóc, tiếng khóc nó xé ruột xé gan. Vừa nấc từng tiếng nó vừa xin tôi: “Mẹơi, xin đừng đi nữa! Đừng, mẹ đừng trở lại nhà tù nữa, con không để cho mẹđi một mình nữa đâu!” Đứa gái út mới sáu tuổi, tôi rất yêu nó. Sựđau đớn ập đến trên tôi, và sức mạnh đã ban cho tôi, mà tôi kinh nghiệm ở trong nhà tù và trong những cuộc hỏi cung biến đi đâu mất. Làm sao tôi có thể bỏ những đứa con của tôi lại được? Tự nguyện nhận lỗi về một cái chết mà thực ra tôi không hề liên quan chút nào? Dẫu sao, bà cũng đã bị ung thưở giai đoạn cuối! Tôi càng cho phép sựđau lòng bao nhiêu, sự tuyệt vọng tôi càng lớn bấy nhiêu. Không còn phải hỏi, Sa-tan dùng việc này để tấn công tôi tới tấp vào đức tin của tôi. Nhưng tạơn Đức Chúa Trời, bằng tình yêu lớn lao, Ngài đã sai một mục sưđi qua, đã đọc và chỉ cho tôi nhiều câu Kinh thánh và tôi lại được an ủi và đức tin tôi được mạnh mẽ lại.
Buổi tối trước phiên tòa xét xử, có một chị em đến thăm và cầu nguyện với tôi. Tôi nhóm ba đứa con tôi quanh mình, an ủi chúng và đưa cho chúng những lời dặn dò, như thể tôi chỉđi có vài ngày hay đi công tác một thời gian ở thành phố khác. Sự bình an Đức Chúa Trời đầy dẫy tôi trở lại, cho nên tôi có thể nói rất bình tĩnh “Sáng mai, mẹ sẽ để các con ở nhà một mình, cho nên bây giờ mẹ muốn cầu nguyện với các con.” Tất cả chúng tôi cùng quì gối xuống cầu nguyện, cảm tạ và ngợi khen Đức Chúa Trời. Tôi giao phó các con tôi trong sự che chở của Cha Thiên Thượng của chúng ta. Sau đó tôi đưa chúng lên giường và sau khi chúng đã ngủ rồi, tôi cùng cầu nguyện với người chị em suốt đêm.
Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời, vì Ngài đã săn sóc cho các con tôi và tôi bằng tình yêu của Ngài. Trong suốt những ngày tôi ở nhà, các con tôi đã khóc nhiều lắm và nài xin tôi đừng trở lại nhà tù nữa, đến nỗi tôi cảm thấy vô cùng sợ hãi trước sự phải ra đi lần nữa. Nhưng trong buổi tối cuối cùng đó, Đức Chúa Trời đã làm tinh thần tôi mạnh mẽ và đã an ủi tôi và vào lúc chia tay buổi sáng, theo lẽ tự nhiên là giờ phút nặng nề nhất, thì Đức Chúa Trời đã dùng đứa con gái út để làm mạnh mẽ đức tin tôi. Khi tôi hôn nó lần cuối cùng, tôi dặn dò nó: “Bây giờ mẹ phải đi, nên hãy vâng lời Đức Chúa Trời và hãy là đứa con ngoan được Chúa yêu.” Đứa con gái sáu tuổi của tôi không hề khóc, mà rạng rỡ nhìn tôi bằng con mắt tròn to xinh đẹp của nó và nói: “Mẹơi, mẹ bịđi tù vì Chúa mà, nên mẹ không phải sợ gì!”
Tôi vô cùng tạơn Chúa vì câu nói này, Đức Chúa Trời đã giục lòng tôi mạnh mẽ bằng những lời nói của đứa trẻ này. “Con nói đúng, con yêu dấu của mẹ, con nên hãy cám ơn Chúa” tôi trả lời “bây giờ các con có muốn đi xuống gác cùng mẹ không?” Tất cả chúng đều xuống dưới đường và vẫy theo tôi, trái tim tôi tràn ngập sự biết ơn và vui sướng. Tôi biết rằng tôi đi trong ý muốn Đức Chúa Trời và chính Ngài sẽ săn sóc những đứa con tôi. Trong khi tôi ngồi trên xe đến nhà tù, trong nội tâm tôi có thể chuẩn bị bằng sự cầu nguyện để đứng trước quan án, những thẩm phán và những người kiện cáo. Tôi cầu nguyện xin sự khôn ngoan để nói điều cần phải nói.
Tôi là người đến đầu tiên trong số những người bị cáo. Khi anh Vũ và chị Linh bị giải đến, thì phòng xét xử được canh phòng rất cẩn mật. Vì họđã truyền giảng trong thời gian bị giam, và có những người cùng giam với họ tin nhận Chúa, nên họ phải chịu những sự tra tấn nặng nề. Anh Vũ phải chịu đựng nhiều. Tôi giật mình khi nhìn gặp anh lần đầu tiên kể từ sau khi bị bắt. Anh gầy còm chỉ còn da bọc xương, và da thịt anh tái nhợt. Còng đeo tay xiết chặt để lại những vết cứa trên tay, và sự nhiễm trùng bắt đầu lan từ khuỷu tay ra toàn cánh tay, làm cả cánh tay bị sưng vù đỏ tấy. Những vết thương trên thân thể anh bị nhiễm trùng, và khắp người anh đầy những ung nhọt lở loét. Tôi phải quay mặt đi, vì phải nhìn anh như vậy làm lòng tôi đau xót. Nhưng khi cặp mắt anh nhìn tôi, thì từ trong đó chiếu ra một đức tin lớn động viên tôi. Mặc dù thân thể anh đầy sựđau đớn, nhưng tinh thần anh không bị ngã gục.
Phiên tòa xét xử bắt đầu, và mỗi người trong chúng tôi thay phiên nhau đứng trước quan tòa giải thích rằng, mình là người có lỗi. Tôi quả quyết: “Kính thưa quan tòa, xin ngài hiểu cho rằng, tôi là người gây ra và chịu trách nhiệm chính.” Ngay lập tức, anh Vũ ngắt lời tôi và nói: “Không, điều đó không đúng. Tôi chịu trách nhiệm.” Tức thì chị Linh tiếp lời ngay: “Không, không ai trong hai người, tôi là người chịu trách nhiệm.”
Vị quan tòa thở dài nghe rõ tiếng và lắc đầu không tin được: “Tôi làm quan tòa nhiều năm nay, nhưng những người như các anh chịđây, tôi chưa từng thấy.”
Trong khi tôi nhìn sang hai người anh chị em mạnh mẽ của mình cách trìu mến và tự hào, thì tôi thấy lo lắng cho họ và những người thân của họ. Anh Vũ có một mẹ già tám mươi tuổi, một người vợ còn rất trẻ, cùng với hai đứa con thơ hay ốm đau. Chị Linh cũng có hai con, bây giờ được dạy dỗ theo sự vô thần, bởi người cha vô tín, chồng cô và một bà nội vô tín. Tôi có thể hình dung được là họ lo lắng như thế nào. Thật là một gánh nặng đặt trên hai anh chị em yêu dấu của tôi lớn dường nào! Tôi mong muốn gánh lấy hình phạt này cho họ làm sao! Rồi tôi nghe tiếng phán êm dịu của Đức Thánh Linh khiến cho tôi bình tĩnh lại: “đó là việc của Ta.”
Tôi biết rằng cả ba chúng tôi phải đi học trường “Đại học nhà tù” đặc biệt này, để học cách giành giật linh hồn con người cho Đức Chúa Trời.
Cuối cùng, quan tòa đứng dậy và đọc lời tuyên án. Tôi chợt nghĩ trong lòng, hôm nay là thứ sáu thương khó, là ngày Chúa chúng ta chịu nạn cho chúng ta. Ngay chính ngày thứ sáu thương khó hôm nay bị kết án vì cớ Chúa Giê-xu, thật vui mừng biết bao! Trong khi viên quan tòa bắt đầu nói bằng những ngôn ngữ tòa án khó hiểu, thì trong thâm tâm, tôi cảm tạ Chúa, vì tình yêu vô bờ bến của Ngài đã chọn đúng ngày hôm nay cho sự xét xử chúng tôi. Một ơn phước từ Chúa thật kỳ diệu là dường nào! Sau đó những lời của quan tòa đập vào tâm trí tôi “…chị Linh tám năm tù, còn anh Vũ bảy năm và chị Trân sáu năm cải tạo lao động.” Chúng tôi đón nhận sự xét xử này từ tay Đức Chúa Trời một cách biết ơn, đáng lẽ chúng tôi phải bị phạt nặng hơn, vì chúng tôi tự nhận lỗi đã làm chết người, mà theo thông thường là phải bị tử hình. Nhưng sự tự kết án của chúng tôi đã làm cho quan tòa phải bối rối, đến nỗi cuối cùng ông đi đến lời tuyên án này.
Phiên tòa xét xử chấm dứt. Những người công an trói anh Vũ rất chặt bằng những sợi dây ni-lông mỏng dính, làm anh rất đau đớn, vì nó cắt sâu vào da thịt. Chị Linh và tôi bị còng tay chung với nhau. Chúng tôi đi bộ một quãng đường dài từ nơi tòa án đến nhà giam. Ngay khi bắt đầu đi, tôi cảm nhận Đức Thánh Linh muốn nói với tôi hãy đi thật nhanh đuổi kịp anh Vũđang đi đằng trước chúng tôi. Khi chúng tôi theo kịp anh, là lúc chúng tôi đi qua cửa ra vào của tòa án và những người coi giữ không chú ý đến chúng tôi. Nên chúng tôi có thể tháo dây trói cho anh Vũ lỏng hơn. Khi chúng tôi đi bộ dài qua thành phố để đến nhà tù và không bao giờ nghĩ rằng, chúng tôi sẽ không nhìn thấy những con đường này trong một quãng thời gian dài nữa, vừa khi ấy chúng tôi nhìn thấy trong số những khách đi đường đang xì xầm, tò mò có một vài người nhìn chúng tôi trìu mến, nhiều người khóc và chúng tôi cũng thấy vài khuôn mặt quen thuộc của các anh chị em trong những Hội thánh chúng tôi. Những anh chị em thân yêu của chúng tôi đã đến từ khắp nơi, nhiều người thậm chí không biết chúng tôi, họ đến để cùng đứng với chúng tôi trong những ngày này. Điều đó làm cho chúng tôi thấy thật tốt đẹp. Từ con đường mà đáng lẽ là nặng nề này, đã trở thành một cuộc diễn hành thầm lặng của sựđoàn kết, gắn bó của những người tin Chúa và trong những ngày tiếp theo, kỷ niệm này giúp chúng tôi rất nhiều chống lại sự cô đơn rình rập. Cuối cùng, khi chúng tôi bị đẩy qua cánh cổng nhà tù cao sừng sững, chúng tôi nghe thấy những tiếng khóc to của những Cơ-đốc nhân. Cánh cổng được khóa lại cẩn thận, Tuy một thời gian khó khăn thử thách bắt đầu trước chúng tôi, nhưng chúng tôi biết rằng, Đức Chúa Trời cùng với chúng tôi bước vào nhà tù này, và các anh chị em không bao giờ quên chúng tôi.
Vào buổi tối hôm đó, khi tôi ngồi trên chiếc giường phên của mình và cầu nguyện thầm trong tâm trí, thì Chúa Giê-xu đã ban cho tôi một khải tượng đặc biệt, tôi thấy một dòng chữ lớn “Nhiệt Liệt Chào Mừng” viết trên nền trời. Một ánh sáng chói vàng khác thường, bừng sáng qua dòng chữ. Trong tôi có một niềm vui bắt đầu dâng lên ngày càng mạnh mẽ hơn như một dòng nước tràn dâng thành một dòng nước sự sống, và tôi giơ hai tay lên hướng về Đức Chúa Trời, mở to miệng mình và để cho sự ngợi khen Ngài tuôn chảy ra “Chúa ơi, Ngài đã chuẩn bị cho con công việc này của thập tự giá. Vì thế, Ngài chỉ cho con thấy tình yêu Ngài, và đây là một con đường của sự vui mừng và sự khoái lạc. Ha-lêlu-gia! Con cám ơn Ngài!”
Vào ngày mười ba tháng tám, cơ quan quản lý nhà tù cho phép những người thân mang cho tôi một ít đồ dùng hàng ngày. Những anh chị em khắp vùng đều đến thăm tôi. Trong số đó có anh Y từ thành phố ‘F’ đã đem theo những con cái Chúa khác và đón các con tôi, chở tất cả đến nhà tù đúng giờ cho phép thăm. Không ai sợ hãi trước những người công an và mọi sự xấu có thể xãy ra, nhưng tất cả đều vào trong sân nhà tù, và chúng tôi được ởđó nửa tiếng đồng hồ. Chúng tôi động viên khích lệ lẫn nhau, hãy hầu việc Chúa Giêxu bằng tất cả tấm lòng. Những giây phút quí giá trôi qua nhanh chóng. Các con tôi ăn mặc đầu tóc gọn gàng, chúng tỏa chiếu một nghị lực, đó là điều làm cho tôi thấy yên tâm.
Từ trên cửa sổ nhà tù có nhiều tù nhân quan sát chúng tôi, chắc chắn họ rất ngạc nhiên khi thấy có nhiều người đến thăm tôi và yêu mến tôi như vậy, trong khi thông thường những cuộc gặp mặt như vậy chỉ chứa đựng sự xấu hổ và trách móc. Những người quản lý đã đến và đuổi những người thân yêu của tôi ra ngoài cánh cửa ra vào nhà tù và đã ngăn cách họ khỏi cái nhìn thương nhớ của tôi. Tôi chạy thật nhanh lên tầng một, trèo lên cửa sổđể có thể nhìn thấy tất cả. Đức Thánh Linh thôi thúc tôi nói với họ.
Điều đó không dễ dàng đối với tôi, giọng tôi run run, nghẹn ngào, vì chắc tốt nhất là tôi bò vào một góc nào đó mà khóc về các con tôi. Nhưng Đức Thánh Linh đã ban cho tôi sức mạnh, nhìn vào các con tôi qua những song sắt và tôi lớn tiếng dặn dò chúng “Các con phải yêu thương nhau, phải một lòng một dạ, hãy chú ý đừng để điều gì xãy ra giữa các con, thì Đức Chúa Trời Ba ngôi sẽở giữa các con và che chở các con.” Các anh chị em đang đứng sát bên cạnh các con tôi cũng hiểu rằng sứđiệp này vừa dành cho họ, họ rất xúc động và nhiều người bắt đầu khóc.
Bây giờ tôi nhìn trực tiếp các con tôi: “Hãy gắn bó với nhau. Các con biết mẹ không ở bên các con, nhưng các con có hàng ngàn người cha, người mẹ săn sóc các con.”
Một lính canh kéo tôi xuống khỏi cửa sổ và đưa tôi trở lại phòng giam, ởđó, tôi có thể trông thấy anh Y và những người khác còn đứng đợi lâu ở trước tường thành nhà tù và không muốn ra về. Tôi rất vui mừng vì họ và biết rằng họđã cầu nguyện cho tôi. Nhiều người cai ngục rất cảm kích về sự thăm viếng của những Cơ-đốc nhân và nói với nhau: “Chỉ những người tin vào Chúa Giê-xu này mới có sự yêu thương nhau như vậy.” Trong đêm hôm đó tôi bị đem lên phòng hỏi cung, ởđó hàng tiếng đồng hồ. Người chỉ huy cuộc hỏi cung của công an an ninh tìm cách moi những tin tức qua tôi về những Cơ-đốc nhân và những Hội thánh. Nhưng tôi không trả lời gì cả, không một lời. Suốt thời gian đó, lòng tôi tràn ngập một niềm vui sâu đậm, một niềm vui mà cuộc tra khảo vào lúc ban đêm này không thể cướp mất của tôi được.
Hai ngày sau, phòng hành chính trại giam thông báo cho tôi rằng tôi sẽ được thuyên chuyển đến một trại cải tạo lao động ở một tỉnh khác. Tôi đã chợt mừng thầm rằng cả ba chúng tôi sẽđược cùng đi chung một xe tải trong một chuyến đi dài và thậm chí chúng tôi có thể được tương giao thoải mái, không ai cấm cản. Nhưng đến ngày chuyển trại tôi biết rằng, bên công an có những chương trình khác nhau cho chúng tôi. Điều quan trọng đối với họ là chia cắt chúng tôi, điều đó cũng ảnh hưởng chúng tôi ít nhiều. Chị Linh ở lại trong trại giam này và thường bị nhốt ở phòng số năm, anh Vũ cũng đến một trại cải tạo, nhưng khác nơi với tôi. Chúng tôi không có cơ hội để chia tay nhau nữa. Tôi bị trói chặt và bị tống lên xe chở tù binh. Tôi đầy sự buồn rầu, vì phải rời khỏi tỉnh nhà và các con và những anh chị em và tương lai trước mắt hoàn toàn vô định.
Trong lúc xe chạy, tôi nhìn qua cửa sổ và thấy một ông già đi bên vệ đường và ẵm một con chiên con trong tay, chắc nó vừa mới cai sữa khỏi mẹ nó. Tiếng nó kêu be be, muốn trở lại với mẹ nó, nghe da diết làm sao. Khung cảnh đó làm tôi rung động sâu sắc, vì tôi cũng cảm thấy mình giống như vậy. “Chúa ơi, con giống như con chiên con này, đang dùng sữa của sự thông công với các anh chị em khác, bây giờ người ta kéo con ra khỏi đó và đưa con đi. Xin Ngài hãy ở bên cạnh các con và bảo vệ chúng.”
Tôi buồn rầu nhớ lại ba chúng tôi, anh Vũ, chị Linh và tôi đã thường gởi thư cho nhau ra sao. Đó là một loại hình tốt đẹp của sự thông công mà bây giờ tôi bị mất đi. Thỉnh thoảng, những bức thư của chúng tôi kết thúc như thế này “hẹn gặp nhau trên thiên đàng!” Chúng tôi tin rằng ngày Chúa Giê-xu trở lại đã gần rồi, và vì chúng tôi bị án tù lâu như vậy, chúng tôi không nghĩ rằng mình còn được nhìn thấy trái đất một lần nữa. Trong khi tôi để cho những tư tưởng đó dậy lên, thì tôi bắt đầu khóc. Tên lính chịu trách nhiệm chuyến đi này gườm tôi nói: “Thôi tôi xin cô im đi cho! Đáng lẽ cô phải nghĩ đến điều đó trước khi phạm tội kìa.”
Tôi trả lời: “Tôi không hề làm điều gì bất chính. Tôi bị bắt vì danh Chúa Giê-xu. Thưa đồng chí, xin đồng chí hãy tin Chúa Giê-xu ngay, Ngài có thể cứu đồng chí, nếu đồng chí tin Ngài, thì còn phục vụ Ngài nhiệt thành hơn cả tôi nữa.”
Chúa đã dùng hoàn cảnh đó để tôi có thể kể cho người đó nghe về Chúa Giê-xu, điều đó rất an ủi tôi. Sự bình an của Chúa đến trở lại. Sau đó, chúng tôi đến trại cải tạo, ởđó tôi phải sống những năm tháng tiếp theo và làm việc nặng nhọc. Trong sáu năm tù theo như án lệnh dành cho tôi, thì hầu như năm đầu tiên tôi ở nhà tù khác và nhà tù tạm giam.Dầu vậy, còn lại năm năm đối với tôi như một ngọn núi, tưởng chừng không vượt qua được.
3. Ta sai con đến với họ (Công vụ các sứđồ 26:17)
Khi tôi đến trại cải tạo, ởđó có khoảng sáu trăm tù nhân, về sau con số tăng lên đến hơn bốn nghìn, tất cả tù nhân và tất cả ban quản lý trại đều là nữ. Trong toàn trại, ngoài tôi ra còn có một chị em khác cũng là con cái Chúa, chị này ở ngay trong phòng giam đầu tiên tôi được phân vào. Nhưng chị rất sợ sệt và nhác gan. Những phụ nữ sống chung ởđây phạm đủ mọi tội hình sự: giết người, hành hung, đĩ điếm, bắt con tin tống tiền, trộm cắp, hối lộ, v.v… Có vài người phải trả giá bằng án tù chung thân, có người thì hai mươi năm, mười lăm năm, mười hay tám năm. Những phụ nữ này đầy dẫy tội lỗi các loại, sự tối tăm và vô vọng.
Đó là một chỗ khủng khiếp. Tôi chưa từng nghe một loại ngôn ngữđộc địa, chua cay như vậy bao giờ, nhưng ởđây, thì cả ngày đều như vậy. Cứ hễ những nữ tù nhân gặp nhau là có tiếng chửi tục, nguyền rủa, cho dù lúc tập thể dục hay lúc ăn cơm, những phụ nữđó công kích nhau bằng những lối nói bẩn thỉu thâm độc, trong phòng giam của tôi, lúc nào cũng bị căng thẳng vì thứ ngôn ngữ kích động đó. Xen giữa những điều đó là những tiếng khóc tuyệt vọng, thường xuyên có tiếng đồn về những chuyện tự tử.
Tình trạng này thật sự là địa ngục, một nơi khốn nạn, bẩn thỉu không tưởng tượng nổi, vượt ra ngoài sự tưởng tượng của tôi. Trong khi tôi quan sát và làm quen với những phụ nữđáng thương này, những con người đầy thù hận cay đắng và đầu hàng với số phận, hoàn toàn không còn hi vọng gì và không có gì để mất nữa, đang trôi thả ra ngoài đến với sự hư mất đời đời, thì một gánh nặng đã đặt vào trái tim tôi, đè nặng lên tôi ngày và đêm.
Tôi bắt đầu cầu nguyện khẩn thiết, “Chúa ơi, Ngài đã gọi con đến một nơi xa xôi này để giảng tin lành. Con biết rằng đây là chỗ Ngài kêu gọi con, xin cám ơn Ngài, vì đã đem con đến đây. Khi con nhìn những con người bất hạnh đáng thương này, thì làm sao con có thể nín lặng được rằng Ngài là có thật và là hi vọng? Con nhất định phải kể cho họ nghe về Ngài. Nhưng con cần sự giúp đỡ của Ngài.” Cuối cùng, tôi ở trong một nhà tù, ngay cả nói chuyện cũng không được tự do, chứ chưa nói là làm chứng về Chúa. Tôi phải làm gì, hành động bằng cách nào, làm sao để tiếp cận với những con người cứng cỏi, cay đắng này? Người ta cũng không được phép quì gối cầu nguyện ở trong phòng giam. Chỉ những ngày chủ nhật, khi các nữ tù nhân khác được đi dạo trong sân, thì tôi được ở lại phòng một mình và có thể quì gối ngoảnh mặt vào tường và cầu nguyện. Ngoài những ngày chủ nhật ra, tôi còn có thể cầu nguyện vào lúc nữa đêm, nếu tất cảđã ngủ say. Lúc đó tôi dành nhiều thời gian tìm kiếm Đức Chúa Trời. Còn những lúc khác, tuy tôi cũng cầu nguyện không thôi và hết lòng, nhưng chỉở trong tâm trí để cho không ai chú ý.
Chẳng bao lâu, những người bị giam cùng phòng tôi nhận thấy rằng tôi khác thường. Tôi không chửi rủa, không đánh nhau, mà vui vẻ, mềm mại và lo lắng đến những người khác. Tình yêu của Chúa Giê-xu trở nên đậm nét trong tôi đã thu hút sự tò mò của những người khác. Tôi tận dụng mọi cơ hội để kể cho những phụ nữ về Chúa Giê-xu, có vài người khóc và bắt đầu tin Chúa Giê-xu và mở lòng tiếp nhận Ngài. Trong những bữa ăn và những lúc đi dạo thường có dịp tiện để trò chuyện, cũng như lúc đi tắm, những lúc chiếu phim hay những lúc được xem ti-vi. Tôi dạy họ cầu nguyện và đem cho họ những mẫu giấy viết những câu Kinh thánh và những bài hát tôn vinh Chúa tôi thuộc, tôi cẩn thận viết chúng vào cuốn sổ tay và xé ra đưa cho họ.
Dần dần, đời sống của những cá nhân bắt đầu thay đổi. Sau này, tất cả bầu không khí của trại giam được thay đổi. Không phải tất cả những người cùng phòng đều đón nhận tin lành mà tôi rao truyền cho họ. Nhưng những người khác đến với tôi khi họ bị khó khăn hay nhận được những tin tức xấu xảy ra ở gia đình. Tôi lắng nghe họ, đưa cho họ những lời khuyên và an ủi họ. Trước hết, họ cảm nhận tình yêu của Đức Chúa Trời, là tình yêu mà Ngài đã yêu tôi. Và những sự sợ hãi nặng nề của họ thường biến mất khi chúng tôi nói chuyện. Mỗi ngày có những phụ nữ khác đến tin Chúa Giê-xu. Trong phòng giam đầu tiên tôi ởđó có mười lăm trong số hai mươi phụ nữđã tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Chúa và Đấng cứu chuộc của họ. Họ từ bỏ những cách nghĩ và lối sống cũ, được tái sinh và Đức Chúa Trời ban cho tôi những người chị em mới.
Sau đó, tôi được đem đến phòng giam số hai. Ởđó, điều kiện khắt khe hơn nhiều so với phòng giam đầu tiên. Bà quản lý ởđó rất khó tính và ít khi nào rời mắt khỏi chúng tôi. Nếu bà bắt quả tang tôi đang cầu nguyện là tôi bị lãnh hình phạt nặng nhất. Nhưng Đức Chúa Trời biết rằng tôi rất sợ những sựđánh đập và đau đớn, và Ngài đã làm cho tôi mạnh mẽ bằng sự can đảm, hầu cho tôi không nhụt chí trước những điều đó và hầu cho tôi, tuy thế vẫn cứ chấp nhận và liều mạng cầu nguyện. Lập tức, sau đó tôi được chuyển sang phòng giam số năm. Những ngày trôi qua nhanh chóng, và dần dà tôi làm quen được với cuộc sống trong trại. Chúng tôi phải làm việc mười tiếng mỗi ngày, thoạt đầu, điều đó không nhẹ nhàng đối với tôi. Nhưng vượt lên trên mọi điều đó, tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã đem tôi đến đúng nơi này và đến cùng những người phụ nữ này, để kể cho họ về Chúa Giê-xu và đem cho họ một cơ hội kinh nghiệm sự bình an và tha thứ, để họ có thể làm lại cuộc đời. Đồng thời, tôi biết rằng nếu không có sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, thì tôi không thể thuyết phục được một con người nào trong số họ tin vào sự tồn tại của Thượng Đế cả. Vì dù cho họ rất tuyệt vọng, họ vẫn rất cứng cỏi và cay đắng. Nhưng Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵng sàng những tấm lòng này. Những gì tôi kinh nghiệm trong những năm tới đây là những điều thật nằm mơ cũng không thấy.
Một vài tuần lễ trôi qua, cho đến khi tôi quen với địa lý và cơ cấu tổ chức của trại cải tạo, tôi vốn không biết cuộc sống trong một trại cải tạo như thế nào. Về căn bản, chúng tôi tạo nên một thế giới nhỏ riêng biệt, hoàn toàn tách với thế giới bên ngoài. Khu nhà trại cải tạo chiếm một mặt bằng khoảng mấy trăm héc-ta đất, ở trong một vùng đồng bằng lẻ loi. Người ta không thấy một vùng dân cư nào trong tầm mắt. Trong trung tâm của trại, có bốn khu nhà lớn, mỗi nhà cao bốn tầng. Ở khu nhà chính, mỗi tầng có ba mươi phòng tù nhân. Hai nhà bên cạnh là hai phân xưởng để tù nhân làm việc. Ngôi nhà đối diện, gần cổng chính ra vào trại là nhà hành chính, nơi ở của các nữ nhân viên trại. Trước và sau trại cải tạo là những bãi đất trọc, chỉ có vài loại cỏ dại sống được. Khi tôi đến trại thì đã gần cuối thu, hoa lá đã rụng tàn từ lâu. Ấy là vùng đất xám xịt, không sự sống, đang đón chờ một mùa đông khắc nghiệt. Khu trại được bao bọc bằng một bờ tường dài ba cây số cao bảy mét và những dây điện gắn trên đó. Thật sự không có khả năng chạy trốn khỏi nhà tù này, thế giới tự do dường như xa vời, không thể đến được. Những nữ tù nhân khác kể rằng ởđây trước đây là nghĩa địa, và ban đêm người ta nghe thấy tiếng kêu của những người đã chết, gây nên những tiếng động rùng rợn. Nhưng tôi phải nói rằng, đó là điều tôi ít gặp khó khăn nhất.
Ngoài những tù nhân ra, còn có hàng trăm nữ nhân viên sống trong khu trại này. Họ thiết lập một cơ chế rất nghiêm ngặt, gồm những nữ đội trưởng, nữ tổ trưởng, nữ giáo viên và những nữ cai tù. Bà trưởng trại khoảng năm mươi tuổi. Bà đã cống hiến nhiều năm nay, với sự nỗ lực giáo dục các nữ tù nhân bằng lao động và kỷ luật trại giam. Bà có một kho kinh nghiệm lớn, là người mềm mại và có trách nhiệm, đầu tư hết sức lực mình vào nhiệm vụ này. Bà nữ tổ trưởng của chúng tôi cũng được mọi người tôn trọng và có thể gọi là một con người tốt. Bà không to lớn lắm, có một khuôn mặt dài và đôi mắt to. Mặc dù bà đã ngoài bốn mươi, nhưng trông bà vẫn còn trẻ và sắc sảo, hầu như lúc nào cũng có nụ cười trên gương mặt và quan hệ với tù nhân trong tổ rất thân tình. Bà thật sựđã chăm lo cho chúng tôi, quan tâm đến những sự lo lắng hằng ngày của chúng tôi, bà không thờơ về sức khỏe của chúng tôi. Thỉnh thoảng, chúng tôi tìm thấy trên bàn trong phòng giam mình bánh kẹo, mà bà đã mua cho chúng tôi và để lại ởđó, không cho ai biết. Những nữ tù nhân đã cảm động trước lòng tốt của bà, nên đã giữ lại những quà đó lâu ngày.
Đáng tiếc là những phụ nữ này không biết về Thượng Đế. Họ nghĩ rằng, họ có thể thay đổi con người bằng luật pháp, nhà tù và tra tấn. Họ hành động với mục đích tốt nhất, nhưng họ không biết Đấng có thể làm thay đổi được tấm lòng con người, vì Ngài đã dựng nên con người. Tôi có một ước muốn, đó là kể cho những phụ nữ này về Chúa Giê-xu, nhưng đáng tiếc là tôi không bao giờ có cơ hội thuận lợi. Đến hôm nay, tôi còn thấy tiếc vì điều đó, nhưng tôi cầu nguyện để những chị em tin Chúa khác làm điều này thay cho tôi.
Bà giáo trưởng của chúng tôi là người hay dùng vũ lực nhất đối với chúng tôi. Bà cũng khoảng bốn mươi tuổi, hơi gầy và nhỏ bé, cặp mắt một mí, nằm xếch trên gương mặt dài xương xương. Bà dễ nổi điên và có thể giận dữ và tàn nhẫn. Bà thường mặt quân phục và đội mũ công an. Tất cả đều sợ bà, và bà biết điều đó. Bà thấy thích thú khi hành hạ chúng tôi, bà thưởng thức địa vị quyền lực với sự tự kiêu tự mãn, và thường đeo theo bên người cây roi điện. Nếu bà xuất hiện, thì ai nấy phải liệu hồn, vì thế nào cũng có người bịđánh, bị chửi hay bị quất bằng roi điện. Mỗi lần bà bước vào phân xưởng thì tất cả đều im phăng phắc, các phụ nữ bắt đầu làm chăm chỉ và tránh nhìn lên bà. Tất cả đều sợ roi điện của bà, khi nó chạm vào làm đau điếng người, mà bà thì lại hay dùng nó một cách hào phóng. Nhưng bà vừa đi khuất mắt mọi người là những tù nhân chửi rủa và gọi bà là ‘mụ bà chằng’. Những chị em mới tin Chúa của tôi hay bị hành hạ bởi tay bà, những cuộc bắt bớ Cơ-đốc nhân xảy ra do bà và phần lớn bà cũng tự thi hành.
Tôi vào trại chưa bao lâu, mà đã có nhiều chị em bịđem ra và kết tội là đã nói về Chúa Giê-xu một cách công khai. Một người trong số họ là chị S. cũng như tôi, chị biết rằng Đức Chúa Trời đã đưa chị vào trại giam này để kể về Chúa Giê-xu cho những phụ nữở đây. Chị chỉ bị giam trong một thời gian ngắn, nhưng trong thời gian đó, chịđã dắt đưa nhiều người đến với Chúa Giê-xu.
Vào một buổi tối, khi tôi vừa chuẩn bị giặt quần áo, thì một cô gái trẻ đến cạnh tôi cũng giặt quần áo. Tôi không biết cô ta. Cô bắt chuyện với tôi và giới thiệu với tôi cô là người tin Chúa. Tôi nhìn vào ánh mắt rực sáng của cô, biết rằng cô đã nói thật, và tôi cảm nhận sự bình an êm ái từ Chúa trong cô, đó là điều còn hiếm hoi trong nhà tù này. Trong khi cả hai chúng tôi đang đứng cúi xuống xô quần áo của mình và chú ý quan sát xung quanh xem có ai nghe trộm không, sau đó cô nói cho tôi điều mong ước của cô. “Mẹơi, con rất khao khát Lời Đức Chúa Trời. Con muốn biết nhiều hơn về Đức Chúa Trời là Đấng đã yêu con. Mẹ có thể tìm cách mượn cho con một quyển Kinh thánh được không, chỉ vài ngày thôi cũng được?” Giọng cô run run, và những giọt nước mắt cô tràn trên đôi mắt, khi cô thổ lộ cho tôi điều lòng cô ao ước. Thật vui khi được gặp cô! “Con gái yêu, mẹ vui lòng đưa cho con điều con rất khao khát. Mẹ tuy không có cả quyển Kinh thánh, nhưng mẹ có thểđưa cho con quyển sổ tay của mẹ, trong đó có những câu gốc mẹ còn nhớ.” Tôi cũng đem theo quyển sổ tay giấu trong quần áo, và đưa cho cô, không để cho ai trông thấy. Cô vui mừng quá nên bắt đầu nhảy múa.
Chiều chiều, vào lúc ba giờ rưỡi chúng tôi thường có một tiếng để nghĩ giải lao, trong thời gian này, chúng tôi có thểđi lại tự do trong sân. Chỉ hai ngày sau khi tôi đưa cho cô gái trẻ quyển sổ tay, cô đến với tôi trong giờ nghĩđó và dúi quyển sổđó vào túi áo tôi. “Rất cám ơn mẹ, nhưng bây giờ con phải cần một quyển Kinh thánh.” Tôi rất cố gắng và với sự giúp đỡ của Chúa, quả thật tôi đã nhận được một quyển tân ước và đưa cho cô. Cô nhận nó với lòng biết ơn, và làm việc chăm chỉ và chẳng bao lâu cô đã viết lại gần hết!
Làm sao cô có thể viết nhiều như vậy được trong khi chúng tôi luôn luôn bị canh chừng? Ban ngày cô phải làm việc mười tiếng đồng hồ như những người khác. Lúc đó, chúng tôi bị canh phòng nghiêm ngặt, cho nên không ai có thể làm được việc gì khác. Nhưng đêm đêm, khi tất cả những người cùng phòng đã ngủ say, cô còn nằm thức, chui vào trong chăn chỉ để một chút ánh sáng nhỏ từ ngọn đèn sáng ngày đêm trong phòng chiếu vào tờ giấy và cô viết rất khẩn trương. Tất nhiên cô cũng mệt mỏi như những người khác vì công việc mệt nhọc trong ngày, thêm vào đó là sự thiếu ngủ là cơ thể cô rã rời. Đến mùa đông, vềđêm cô hay bị lạnh run cầm cập vì chăn đắp mỏng, chăn mỏng phát cho chúng tôi không đủ để làm ấm thân thể gầy gò của cô, và trong khi cô viết người ta nghe thấy tiếng hàm răng run cầm cập đánh vào nhau dưới chăn. Nhưng cô gái không chịu ngưng nghĩ mà cứ viết lại Lời Đức Chúa Trời quí giá, vì có một ước muốn giục giã: tặng những Cơ-đốc nhân trẻ khác một Kinh thánh tân ước. Từng hàng chữ Trung Quốc chạy tung tăng trên trang giấy, từng câu quí giá về Lời Đức Chúa Trời, bánh sự sống được cô làm gia tăng lên không mệt mỏi. Tất nhiên cô luôn luôn bị sự buồn ngủ cám dỗ, gật lên gật xuống và cây viết tuột khỏi tay cô. Nhưng sau đó cô thấy những chị em trong giấc mơ đang giơ tay ra khao khát cầu xin Lời Đức Chúa Trời và đột nhiên cô lại tỉnh như sáo và viết tiếp. Cô thường viết như vậy cho đến rạng đông.
Khi cô đã hoàn tất một bản sao chép, cô lại đưa cho những chị em tin Chúa ở các phòng khác. Những phụ nữ nhận quyển sách quí giá đó cảm tạ Đức Chúa Trời và bắt đầu tận dụng mỗi giây phút rảnh rỗi để đọc. Những chị em đó hay đi ăn muộn, trong khi tất cả những người khác vội vàng đi ăn ngay sau khi làm việc xong, thì họ tranh thủ đọc nhanh một vài câu nữa. Và trong khi những phụ nữ khác đi đi lại lại trong sân vào những lúc giải lao, thì các chị em tin Chúa thích ở lại phòng và đọc Kinh thánh hơn. Họ đọc trong nhà vệ sinh hay vào những lúc đêm khuya, khi những người khác đã ngủ. Quả thật, họđã dùng mọi cơ hội để tìm hiểu chân lý là điều có thể giải phóng họ, cho dù họ là những tù nhân.
4. Hãy chịu đựng gian khổ và truyền bá phúc âm. (II Ti-mô-thê 4:5)
Gần cuối năm 1983, con số tù nhân tăng từ sáu trăm lên đến bốn nghìn. Trong thời gian đó, S. cô tín đồ trẻ tuổi, cũng ở nhà tù này cùng với tôi, cô đã dắt nhiều phụ nữ đến tin nhận Chúa Giê-xu qua lời chứng của cô. Tôi dành nhiều thời gian thông công và cầu nguyện với S. Tôi rất thích thú được trò chuyện và cầu nguyện với cô, vì cô cùng chung ý nghĩ về việc ở tù này cũng giống như tôi: Đức Chúa Trời đã đem chúng tôi như những người truyền bá phúc âm đến nhà tù này, để nói về Chúa Giê-xu cho những nữ tù nhân ở đây. S. luôn nói cho tôi những tin mới “Cô Trân ơi, cô biết không, cả những người đó … đó … cũng tin nhận Chúa Giê-xu, và họ rất khát khao cho cả trại biết rằng Chúa Giê-xu là sự sống. Họ cầu nguyện cho tất cả phụ nữởđây trở lại tin Chúa. Cả phòng số … và phòng số … các chị em bây giờ cũng cầu nguyện cho cả trại giam biến thành một Hội thánh lớn …” Chẳng bao lâu, mỗi phòng đều có người tin Chúa, là những người kiêng ăn hẳn hoi và cầu nguyện bằng nước mắt để xin tin lành Chúa đến chiếm hữu trại cải tạo này. Những phụ nữ này tuy mới được nghe về Chúa Giê-xu ởđây, nhưng cũng đầy một sự dâng hiến cho Đức Chúa Trời bằng một tình yêu đối với các chị em khác, những điều đó làm cho tôi kinh ngạc. Điều đó chứng tỏ Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời đang vận hành ở đây và làm những phép lạ. S. và tôi chắc sẽ không bao giờ thay đổi những phụ nữ cứng cỏi cay đắng này như vậy được. Vào mùa đông này, có tất cả các phòng đều tham gia kiêng ăn, cầu nguyện và kêu khóc để cho trại cải tạo biến thành nhà thờ.
Đầu năm 1984, có một cơn phấn hưng lớn đến độ tôi và S không ngờ được. Có nhiều phụ nữ trở lại tin nhận Chúa đến nỗi tôi không còn ước tính được nữa. Mùa gặt này đem lại sự vui mừng vô xiết kể, giống như là chúng tôi đang làm việc trên một đồi nho đã chín muồi, chúng tôi chỉ cần đi ngang qua là những trái nho đã rơi vào đầy các giỏ. Có nhiều phép lạ cứu rỗi và chữa lành xãy ra, đến nỗi tôi không thể kể hết được. Những phụ nữ mới tin Chúa lòng đầy hăng say kể về Chúa Giê-xu cho những chị em khác, không ai sợ hãi trước những nữ nhân viên và có một số nhân viên trong trại trở lại tin nhận Chúa. Những phụ nữ trước kia phạm mọi loại tội, bắt đầu tin Chúa, xưng nhận tội lỗi mình và từ bỏ đường ác của mình. Quyền lực tối tăm bị bẻ gãy. Toàn bộ bầu không khí biến thay thấy rõ ràng. Trại cải tạo này trước kia từng đầy dẫy sự hận thù, ô uế, và ô nhục, thì bây giờ tràn đầy tình yêu và vinh hiển Đức Chúa Trời. Bóng tối phải lánh khỏi trước sự sáng của Chúa Giê-xu. Ban đêm, người ta không còn nghe thấy tiếng khóc than tuyệt vọng nữa, cả tiếng nguyền rủa, cãi nhau, những câu chuyện tiếu lâm bẩn thỉu và những tiếng chửi thề, đã từng đầy dẫy không gian ởđây, thì bây giờ, người ta không nghe thấy nữa. Thay vào đó, là những tiếng reo to “Ha-lê-lu-gia”, những bài hát và những lời cầu nguyện, niềm vui và sự nồng thắm cai trị trong tiếng chào hỏi của các chị em phụ nữ với nhau.
Nếu có hai chị em tin Chúa trong trại gặp nhau, một người nói “Ha-lê-lu-gia, ngợi khen Chúa!”, và người kia đáp lại “Ha-lê-lu-gia, A-men!”. Cái đó trở thành lời chào hỏi trong vòng các chị em và chữ “Ha-lê-lu-gia” người ta thường xuyên nghe thấy mọi nơi.
Mỗi buổi chiều, khi những tù nhân có giờ nghỉ giải lao và được phép ở lại trong sân, thì chỗ nào cũng thấy các chị em tin Chúa tụ tập thành những tốp nhỏ, họ cùng nhau cầu nguyện và kể cho nhau những gì họđã tìm thấy trong khi họ đọc Lời Chúa hay những gì Đức Thánh Linh chỉ trực tiếp cho họ, hoặc họ cùng hát với nhau và cùng nhau học những bài hát mới.
Khi tôi đi qua trong sân và đâu đâu cũng thấy những gương mặt rạng rỡ chào tôi bằng tiếng ‘Ha-lê-lu-gia’, đôi lúc tôi tưởng rằng mình đang mơ. Tôi thật thích thú về những điều Đức Chúa Trời làm. Từ lâu, người ta không thể gọi chỗ này là nhà tù nữa, không nhận ra nó nữa, đối với tôi, nó như là thiên đàng dưới đất vậy. Đức Chúa Trời đã làm vượt ra ngoài những giấc mơ vĩ đại nhất của tôi. Trong một tổ lao động ở tầng bốn của phân xưởng có hơn một nửa số tù nhân là người tin Chúa. Ởđó, mỗi ngày làm việc là một buổi thờ phượng. Có một phòng, trong đó hai mươi tám người là con cái Chúa. Hằng ngày họ cùng thờ phượng trong phòng mình, cùng cầu nguyện, hát tôn vinh, và cùng đọc Kinh thánh cho nhau.
Và tất cả những điều đó không những chỉ xảy ra trong một trại cải tạo, mà còn trong một chính phủ vô thần, mà mục đích của hệ thống chuyên chính vô sản đó là nhổ tận gốc tôn giáo, mê tín dịđoan, bằng cách họđem những tín đồ còn sót lại vào những trại lao động nhằm mục đích gò ép và giáo dục tư tưởng vô thần. Vì sao những Cơ-đốc nhân ởđây có thể nhận được nhiều sự tự do và những người có trách nhiệm lại không ngăn cản gì hết, trong khi cùng thời điểm đó, ở nhiều nơi khác trong đất nước các nhà thờ bị chèn ép và nhiều Cơ-đốc nhân bị săn lùng, bị hành hạ và bị giết vì cớ đức tin? Và ởđây, những tín đồ số lượng chỉ bằng lòng bàn tay, được trang bị bằng quyền phép Đức Thánh Linh đã có thể làm đảo lộn cả một trại có hàng trăm nữ nhân viên canh phòng.
Trong diễn tiến của năm, tình hình đang còn thay đổi. Sa-tan nổi dậy và tìm cách kiểm soát tình thế. Phương tiện của nó là một phụ nữ, bị án tù hai mươi năm, rất cùng đường và tuyệt vọng. Bà tìm cách làm giảm án tù bằng cách làm việc tốt và đã sốt sắng báo tin cho những nữ nhân viên trại mọi hoạt động không cho phép của những chị em tin Chúa chúng tôi. Chẳng bao lâu có một làn sóng bắt bớập đến chúng tôi, như một cơn nước lụt. Thế rồi, những chị em trước đây luôn luôn xưng nhận đức tin mình tự do và sống hết mình, thì nay vì cớ đức tin bị hành hạ trên thân thể thường xuyên, điều đó đã trở thành chuyện thường ngày. Sau đó, Đức Chúa Trời chỉ cho chúng tôi điều sắp xảy ra: Một vụ khám xét các phòng để tim Kinh thánh và ‘những bằng chứng tài liệu’ Nên chúng tôi có thể chuẩn bị cho ngày này bằng cách thu gom tất cả những phần Kinh thánh viết tay quí giá đem giấu ra ngoài trại.
Vào ngày bị khám xét, sự canh gác rất nghiêm ngặt. Có nhiều công an an ninh đã được tăng cường và họđã cùng với những nữ nhân viên bao vây căn nhà chúng tôi, họ được trang bị vũ khí hạng nặng và ăn nói với tù nhân rất thô lỗ, họđã xáo tung cả khu nhà. Mỗi góc nhỏ trong mỗi phòng giam đều bị lục soát. Nhưng chúng tôi đã chuẩn bị cho ngày này kỹ càng và đã viết thành những mẫu giấy nhỏ đặc biệt dành riêng cho cuộc lục soát này và đã giấu trong đồ đạc của mình. Cho nên những người công an tìm thấy những miếng mồi, rất nhiều những miếng mồi nhỏ, và họ không nghĩ đến việc tìm Kinh thánh của chúng tôi ở ngoài căn nhà. Trên những mẫu giấy này có những câu Kinh thánh mà chúng tôi đã viết riêng cho họ, vì chúng tôi biết rằng những câu Kinh thánh này sẽ được những người ở công an bộ nội vụ đọc. Ấy là những đoạn về tình yêu Đức Chúa Trời, sự tha thứ và cuộc sống mới, dành cho mỗi người khi tin vào sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu. Chúng tôi phấn khởi về cơ hội này, bằng cách đó chúng tôi có thể nói cho những người cán bộ về Chúa Giê-xu.
Đến chập tối, khi cuộc lục xét đã chấm dứt, tôi và mấy người chị em bịđem đến một xà lim đặc biệt, dành cho những đối tượng cứng đầu, chống lại nội qui trại. Đó là một phòng thông với hệ thống nước cống thải của nhà tù, không có tường, chỉ có những song sắt và những dây kẽm gai ngăn cách chúng tôi với cái lạnh giá ban đêm. Đó là vào tháng mười, nhiệt độ giảm xuống mười độ âm và chúng tôi không có chăn hay quần áo ấm. Tuy thân thể chúng tôi run rẩy vì cái lạnh thấu xương, nhưng có một sựấm áp bên trong, và một cảm giác hạnh phúc ngập tràn, mà chỉ có thể giải thích được bằng sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đó là một đêm dài lạnh giá và ngủ là điều không thể nghĩ đến, nhưng sự bình an Đức Chúa Trời đối với chúng tôi còn quí hơn một cái giường ấm, và chúng tôi coi mình là người hạnh phúc, vì Chúa Giê-xu ở bên cạnh và chúng tôi động viên an ủi nhau bằng những câu Kinh thánh và bằng tình yêu Đức Chúa Trời.
Vào buổi tối đó, sau đợt khám xét có hai chị em bịđem xuống một xà lim dưới hầm, ởđó hai chị bị nhốt trong một phòng nhỏ tối tăm. Phòng này được dùng làm hình phạt và tra tấn đối với những tù nhân ngoan cố! Không có cửa sổ và ánh sáng, nền nhà có nước lấp xấp dưới chân, không khí hôi mốc và ẩm thấp, các bức tường bị phủ rêu mốc. Suốt thời gian ở dưới xà lim, quần áo và đầu tóc bịẩm và lạnh, khí lạnh giá rất bí bách, cứởđây chờ thời gian chầm chậm trôi qua, và người ta không còn cảm giác đâu là ngày đâu là đêm nữa. Khi hai chị bịđem vào trong xà lim này, họ gặp một cô gái trẻ bị nhốt trước họ. Cô là một kẻ hay đập phá, bị án mười năm tù. Nhưng trong tù, cô thường xuyên gây sự rối loạn, đầy sự kích động và giận dữ, chuyên môn gây ra những vụẩu đả. Nhiều lần, cô đã tấn công những nữ nhân viên, và chuyên tìm cách đột nhập vào khu nhà hành chánh để hành hung những nữ cán bộ và làm tan hoang phòng làm việc của họ. Cho đến nay, không ai làm gì được với cô gái này. Việc cô bịđem nhốt một thời gian dài ởđây là điều không làm ai ngạc nhiên.
Nhưng khi những chị em tín đồ khác nghe tin hai người chị em mình bị giam chung xà lim với cô gái hung bạo kia, thì điều đó làm cho họ lo lắng. Cô ta có thểđánh nhừ tử hai người chị em, vì đã hoàn toàn nằm trong tay của mình và hai chịđó không thể hay có lẽ không muốn tự bảo vệ mình. Nên nhiều nữ tín đồ đã bắt đầu cầu nguyện khẩn thiết cho sự việc này. Và Đức Chúa Trời đã can thiệp cách lạ lùng.
Lúc hai nữ tín đồ đó vừa bước vào trong xà lim tối, cô gái nhìn họ đầy căm thù và khoái trá “Chúng mày đến đây làm gì hả, bọn đểu kia?” Cô ta trừng mắt. Rồi một loạt những lời chửi rủa bẩn thỉu đổ trên hai người.
Hai chị không để tâm đến điều đó. “Vì có mình cô ởđây thôi, chúng tôi nghĩ chắc chắn cô cảm thấy cô đơn, nên điều đó cũng tốt và cô không phản đối nếu chúng tôi làm cho cô khuây khỏa được phần nào.”
Những câu chửi rủa và lời nói cộc cằn là câu trả lời. Nhưng căn bản là sau những lời đầu tiên, bằng cách nào đó cô ta đã được động chạm qua sự tỏa chiếu từ hai người, chỉ có điều cô chưa muốn công nhận mà thôi. Nhưng sựấm áp và vui vẻ thật dễ chịu, không thể nhầm lẫn được tuôn chảy từ hai người chị em này, đã đánh thức một khao khát trong cô. Nếu cô nhìn hai người phụ nữ này, cô có một nhu cầu kỳ lạ là cô muốn được khóc, một cảm giác cô đã không còn biết đến nó nữa từ khi còn thơấu. Bên cạnh sức mạnh nội tâm và niềm vui tỏa chiếu từ hai người, cô cảm thấy mình rách nát làm sao, và tất cả những sức mạnh, cô từng nhờ cậy và tin tưởng từ trước đến nay, giờ đối với cô chỉ toàn là sự tự lừa dối mình, thật thảm hại. Dần dần, cô trở nên dịu hơn, thôi không chống chế bằng những lời lẽ bẩn thỉu và khiêu khích nữa và để cho những chị tín đồ có cơ hội nói chuyện với mình. Mặc dù, họ bị thấm ướt sau vài phút, bắt đầu thở không khí ẩm thấp đó, ngay cả hai người không còn biết là bên ngoài trời sáng hay tối, thì hai người nữ tín đồ vẫn cảm nhận sự gần gũi của Đức Chúa Trời và được sưởi ấm bằng ánh sáng Chúa Giê-xu. Và họ nhận thấy rằng Đức Chúa Trời đem họ đến đây trong một phòng chật chội cùng với một phụ nữ có giá trị, là người, nếu không thì có lẽ sẽ không bao giờ có cơ hội nghe về Chúa Giê-xu. Vì vậy họ cố gắng không chú ý đến những tiếng chửi rủa tục tằn và không sợ hãi trước cô gái, nhưng họ bắt đầu khéo léo kể cho cô nghe về chuyện Chúa Giê-xu, tình yêu Ngài đã biến đổi họ triệt để ra sao. “Hai chị cũng là những kẻ phạm tội giống như em, chúng tôi bị giam ởđây không phải là không có lý do đâu. Đời sống chúng tôi đầy dẫy sự thù hận và lỗi lầm, chúng tôi không còn gì để mất nữa. Điều xảy ra cho chúng tôi cũng giống như cho em. Nhưng chúng tôi đã được nghe về Chúa Giê-xu, về Đức Chúa Trời, Ngài đã đến trên đất này như một con người, Ngài đến vì tình yêu. Chúa Giê-xu này đã thay đổi đời sống chúng tôi tận gốc rễ. Đáng lẽ là hận thù, bây giờ tình yêu và sự bình an tràn ngập trong chúng tôi. Em cũng có thể kinh nghiệm được điều đó. Ngài yêu em cũng giống như Ngài đã yêu chúng tôi vậy.” Và Đức Thánh Linh đã sử dụng những lời nói để chỉ cho cô gái đó sự khao khát của Đức Chúa Trời muốn cứu cô. Không lâu sau đó, cô bắt đầu khóc, cô quì gối trên nền nhà, dường như quên rằng nền nhà ngập nước lấp xấp và cô đã xưng nhận tội lỗi mình, cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ và tái sinh cô.
Ba người phụ nữ bị giam trong xà lim đó hai mươi ngày. Sau đó, họ được phép trở về phòng cũ của mình. Cô gái trẻ làm cho không ai nhận ra. Đức Chúa Trời đã thay đổi cô hoàn toàn, và cô đã nhân thời gian bị biệt giam mà được biết thêm về Chúa Giê-xu qua hai người chị em kia. Những người bạn cùng phòng không tin được điều họ nhìn thấy. Đó là con người mà họđã biết ư? Cô không chửi rủa nữa, trở nên vui vẻ, niềm nở và mỉm cười, vâng đôi khi cô còn hát khe khẽ nữa! “Có điều gì đã xảy ra vậy?”, đó là điều mọi người hay hỏi cô. Và rồi cô trả lời nhẹ nhàng với một sựđáng tiếc và thành thật: “Em phải xin lỗi mọi người. Em đã không biết về Chúa Giê-xu, nên em đã làm mọi điều đó. Xin hãy tha thứ cho em. Bây giờ em tin Chúa Giê-xu, Ngài là Chúa của đời sống em, và em sẽ không bao giờ nguyền rủa hay báng bổ bất kỳ một người nào nữa.” Tất cả những người trước đây biết cô đều rất kinh ngạc.
Sự biến đổi đó cũng không lọt khỏi mắt bà tổ trưởng của cô, và bà tổ trưởng đã gọi cô lên để hỏi thăm về việc đó. “Mọi người nói bây giờ cô cũng tin Chúa Giê-xu. Ai đã dụ dỗ cô làm điều đó?”
Cô vui vẻ trả lời: “Vâng, tôi đã trở thành Cơ-đốc nhân. Chúa Giê-xu đã đem tôi lại với Đức Chúa Trời.”
“Nói láo, cô đã bị những đứa tín đồđó mê hoặc và lừa phỉnh rồi!” Bà tổ trưởng hét lên.
Cô gái chỉ tươi cười, “Nếu như tôi không tin Chúa Giê-xu, chắc tôi còn làm cho các bà một mớ những chuyện phiền phức nữa, sau vụ các bà đã nhốt tôi trong xà lim khủng khiếp đó một thời gian lâu. Chính ra các bà phải mừng mới đúng…”
Bà tổ trưởng không biết nói gì thêm, nhất là cô gái đã nói có lý. Rõ ràng, bây giờ cô ta là một nữ tù nhân dễ chịu hơn nhiều so với trước kia. Bà tổ trưởng im lặng và đưa tay ra hiệu cho cô gái ra về, không còn có thêm một cuộc thẩm tra nào nữa.
Một trong hai người chị em bị nhốt dưới hầm xà lim đó đã bị hỏi cung vào những ngày sau đó tám lần liên tiếp. Cô không được đối xử tử tế như cô gái trẻ kia. Nhưng tại mỗi cuộc tra khảo, Đức Thánh Linh đều nói cho cô biết hãy ứng xử như Chúa Giê-xu trước mặt Phi-lát. Vì vậy, mỗi lần cô đều đứng lặng thinh trước những nữ nhân viên, không trả lời bất cứ một câu hỏi nào.
Bà tổ trưởng gầm thét với cô, “Bây giờ cô hãy nói đi, ai đã dụ dỗ niềm tin cô? Kinh thánh từđâu đến?” Nhưng người nữ tín đồ im lặng. Bà tổ trưởng thì muốn biết vềđiều đó, sự kiên nhẫn bà ta đã hết “Nếu hôm nay cô không khai ra, tôi sẽđánh cô chết!” Bà nói nghiêm túc “Làm sao một đứa nhỏ bé bẩn thỉu như cô dám đứng trước mặt tôi tám lần mà không nói gì cả?”
Người nữ tín đồ im lặng và cầu nguyện ráo riết trong tâm trí xin Đức Chúa Trời giúp đỡ mình. Bà tổ trưởng cầm cây roi điện kéo dài ra hướng về cô trông thật khiếp sợ. Sau đó, bà bật điện và chạm vào thân thể cô tín đồ. Dòng điện này làm hết sức đau nhói, như có hàng nghìn mũi tên đâm qua trái tim vậy. Theo lẽ thường tình những người bị tra tấn như vậy là bất tỉnh nhân sự. Nhưng bây giờ, khi loại dụng cụđáng sợđó chạm vào thân thể người nữ tín đồ, cô không hề nhăn mặt, cô cứđứng yên.
Điều đó khiến bà chỉ có thể giải thích rằng máy điện không hoạt động. Để cho chắc ăn, bà đã thử lên con chó của bà không biết gì đang nghoe nguẩy đuôi. Con vật nhảy đựng lên, kêu rú một tiếng lớn, sùi bọt mép và nằm bất động trên nền nhà. Bằng một cái nhăn mặt quỉ quái, bà ta quay lại cô tín đồ đụng cây roi vào người cô. Nhưng cô vẫn không có phản ứng gì, cô hoàn toàn không cảm thấy gì cả. Khi đó, những nữ nhân viên có mặt ởđó thấy sợ hãi trước điều xảy ra, họ khiếp đảm vềđiều đó và đưa ngay cô tín đồ trở về xà lim trong hầm tối.
Trên đoạn đường về xà lim, cô gái hát khẽ bài hát cảm tạ Đức Chúa Trời. Cánh cửa đằng sau cô vừa đóng lại và một mình trong bóng tối, cô quì ngay xuống đất và hát ‘ha-lê-lugia’, tràn đầy sự cảm tạ dâng lên Chúa, đã bảo vệ cô cách siêu nhiên. Cô chúc tụng Chúa Giê-xu bằng lời cảm tạ và không hề để ý sựẩm thấp và lạnh lẽo đang bao trùm xung quanh mình.
“Chúa ơi, Ngài đầy sự yêu thương. Ngài đã làm cho Lời Ngài được ứng nghiệm, nếu Lời Ngài nói rằng Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài không để cho anh em bị sự thử thách quá sức đâu. Trong sự cám dỗ Ngài sẽ mở đường để anh em vượt qua khỏi (I Cô-rinh-tô 10:13), cám ơn Ngài vì Lời Ngài thật đáng tin cậy.”
Một cô gái trẻ khác được đem đến phòng giam ở tầng một. Cô cũng tin Chúa trong thời gian ở trong trại giam, và kể từđó cô tham gia sao viết lại không biết mệt mỏi những đoạn Kinh thánh và những bài hát, cho đến khi cô bị một người giam cùng phòng chỉ điểm. Lúc cô bịđem đi thẩm vấn, cô im lặng và coi như không biết điều gì. Những nữ nhân viên tìm đủ mọi cách dọa nạt, đánh đập và lừa phỉnh cô. Nhưng cô gái không sợ hãi. Cuối cùng hai tay cô bị còng lại với nhau và cô phải sinh hoạt như vậy. Thật là khó khăn, khi ở trong tư thế như vậy mà phải ăn uống, đi vệ sinh, thay quần áo, giặt giũ, đặc biệt là vào mùa đông những nữ tù nhân phải mặc quần áo chồng lên nhau để đủ ấm vì trong căn phòng hầu như không có lò sưởi.
Chúng tôi phải ngủ giường tầng và theo lệ thường những người trẻ phải nằm trên và những người lớn tuổi hơn ở dưới. Vì tay bị còng, khiến cô gái trẻ hầu như không cách nào trèo lên giường được. Thỉnh thoảng, cô trèo mãi vẫn không được và cứ thử lên thử xuống, đến khi những vòng sắt cứa vào da thịt, làm cô đau đớn toát mồ hôi lạnh. Trong phòng cô không phải tất cảđã tin Chúa. Những người này lại còn hay treo ghẹo cô nữa, thay vì giúp đỡ cô. Họ chế nhạo: “Chúng tao nghĩ Đức Chúa Trời mày là có thật, Đấng sống và toàn năng. Bây giờ Ngài đâu rồi? Hãy nói Ngài mở còng khóa cho mày đi!” Ngày ngày, họđem cô gái ra làm trò cười như vậy.
Vào một buổi tối, sau nhiều khó khăn và giữa những tiếng giễu cợt của những người cùng phòng, cuối cùng cô cũng trèo được lên giường, sựđau đớn ở khuỷu tay căng ra, cô quay mặt vào tường và khóc khe khẽ “Chúa ơi, con biết rằng phải bị trói và đeo còng tay vì Ngài là vinh dự, và Ngài biết con sẵn sàng chịu đựng. Nhưng để danh Ngài không bị chế nhạo nữa và cho có nhiều phụ nữ tin Ngài, con xin Ngài hãy mở còng tay này cho con. Chúa ơi, như còng tay của Phi-e-rơ được tháo tung ra sao, cũng hãy tháo tung ra như vậy cho con. Vì Ngài không chỉ là Đức Chúa Trời của Phi-e-rơ, của Phao-lô mà cũng là Đức Chúa Trời của con…”
Khi cô vừa kết thúc lời cầu nguyện, những còng tay rơi khỏi tay cô. Vào ngày hôm sau, cô bị những nữ nhân viên đòi lên để tra khảo, họ thấy lạ vì tay cô không bị trói nữa. Họ hoang mang hỏi “Làm thế nào cô có thể tháo những còng tay ra được?”
“Đó là nó tựđộng mở ra, và tôi cũng không biết nó xảy ra như thế nào.”
Những nữ nhân viên biết rằng cô gái trẻ tin Chúa Giê-xu này nói thật và họ cũng biết rằng không hề có cách nào có thể mở nó được. Rồi họ cũng nhớ lại cách đây mấy hôm, cây roi điện không hoạt động trên người cô tín đồ kia. Toàn bộ sự việc làm họ thấy bối rối, làm cho họ không muốn thẩm tra cô tiếp tục nữa. Vì hai phép lạ này, mà có nhiều phụ nữđã trở lại tin Chúa.
Cho dù những sự săn lùng gay gắt, dù mọi hình phạt và dọa nạt từ những nữ nhân viên đưa ra nhằm đập tan niềm tin vào Chúa Giê-xu hay để kìm hãm lại ít nhiều, nhưng lại càng có thêm nhiều phụ nữ tin Chúa hơn. Theo cái nhìn của những kẻ thù Cơ-đốc giáo, tình hình bắt đầu rơi vào thế không kiểm soát nổi. Trong khi đó, hai tháng tiếp theo tin mừng về Chúa Giê-xu đã lan tràn khắp trại, các phụ nữ lòng đầy khao khát Đức Chúa Trời. Nó giống như một cánh rừng khô đã bén lửa vậy, tình yêu của Chúa Giê-xu được bắt lửa từ tấm lòng này sang tấm lòng khác, không ngăn nản nổi. Con số người tin Chúa gia tăng như cơn sốt. Toàn bộ trại cải tạo này bị một cuộc cách mạng tràn đến, mà những người cộng sản không thấy trước trong đường lối của họ. Chẳng mấy chốc, hơn nửa số tù nhân là con cái Chúa.
Không ai ngạc nhiên khi sức ép chống đối chúng tôi tăng lên. Chúng tôi bị phạt nặng nề hơn vì những sự vi phạm nội qui nhà tù. Đức Thánh Linh đã báo trước cho chúng tôi là sẽ có một làn sóng bắt bớ lớn đến với chúng tôi và những phụ nữ bị phát hiện là những người cầm đầu phong trào có thể sẽ bị tăng án tù. Vì thế, chúng tôi bắt đầu kiêng ăn và cầu nguyện ráo riết, để chuẩn bị cho những đòn tấn công xảy đến. Nhất định chúng tôi phải và mong muốn được đầy dẫy quyền phép Đức Chúa Trời và đức tin mạnh mẽ.
Vào một buổi sáng tháng mười một 1984, chúng tôi vừa thức dậy, bỗng nhiên bầu trời tối sầm lại. Một cơn gió bấc nổi lên, thổi trực tiếp từ cao nguyên tây bắc đến và không chỉ làm rung đổ những cây cỏ xơ xác trong sân và hú xung quanh nhà, mà còn rít lên khi lùa qua những phòng giam chúng tôi và thình lình làm chúng tôi phải rùng mình vì giá lạnh tràn đến. Chúng tôi bồn chồn nhìn ra cửa sổ, tất cả đều rung rinh và kêu kẽo kẹt. Sau đó, có một cơn bão tuyết bắt đầu, chúng tôi ít khi thấy có những đợt bão tuyết giống như vậy. Chúng tôi mặc hết tất cả những gì mình có, nhưng không thểđủấm.
Nhưng vào buổi sáng hôm đó, không những chỉ thời tiết xáo động mà những nữ nhân viên cũng lật đật dậy sớm khác thường. Họ mặc quân phục công an chỉnh tề đội mũ và thắt lưng. Họ còn trang bị thêm những roi điện, hoặc là gậy gộc và súng lục đã lên cò sẵn sàng và đảo qua đảo lại trong nhà giam chúng tôi bằng những cặp mắt lạnh quắc. Có điều gì xảy ra hôm nay đây? Tất cả những tù nhân đều lo lắng và căng thẳng, tự hỏi liệu hôm nay có điều gì sẽ diễn ra. Cả những nữ tín đồ chúng tôi cũng dựđoán có điều gì đó không bình thường chờ đợi, và chúng tôi cầu nguyện khẩn cấp cầu xin Đức Chúa Trời bảo vệ chúng tôi khỏi những nguy hiểm không lường trước có thể tràn tới.
Vào lúc chín giờ sáng, có nhiều chiếc xe kéo đến, chạy vào tận trong sân nhà tù, đậu giữa bốn khu nhà bốn tầng, sao đó các cán bộ cao cấp đủ loại bước xuống.Đã có nhiều chiếc bàn đặt sẵn cho các vị thượng cấp ngồi. Sau đó, chúng tôi bị các nhân viên quản lý đem ra khỏi phòng và đưa vào trong sân, ởđó, chúng tôi phải ngồi xuống đất trước mấy cái bàn. Cơn bão tuyết đã giảm bớt, cái lạnh như cắt vào da thịt và chúng tôi ngồi trần trụi trên tuyết. Các cán bộ công an an ninh ngồi phía trước chúng tôi, những người bên bộ nội vụ, cơ quan pháp lý, những thủ trưởng và cán bộ của nhiều cơ quan khác nhau của đảng và ủy ban, họ không chỉ từ thành phố ‘H’, mà cả từ huyện ‘M’. Những lính của công an an ninh được trang bị vũ khí hạng nặng, đứng chung quanh sân và chĩa súng vào chúng tôi. Họ làm như chúng tôi là những kẻ thù nguy hiểm, có thể lật thế cờ bất cứ lúc nào. Những cặp mắt đầy căm thù và độc ác dò xét chúng tôi. Bây giờđã có hàng nghìn người tụ tập trong sân, một sự căng thẳng bao trùm bầu không gian. Không ai dám động đậy, trong khi những tên lính im lặng nhìn chăm chăm vào chúng tôi. Tôi cầu nguyện trong tâm trí và kêu cầu Đức Chúa Trời xin hãy bênh vực chúng tôi.
Thình lình có tiếng phóng thanh trên giàn loa, giọng của người chỉ huy buổi họp xé tan bầu không khí yên lặng. “Chúng tôi tuyên bố khai mạc buổi đấu tố. Tôi xin nhường lời cho ông bí thư công an tỉnh chúng ta.”
Không một ai vỗ tay cho lời chào mừng của ông cán bộđang đi xuống. Ông kia nói khoảng nửa tiếng đồng hồ về thái độ đúng đắn trong trại lao động và những ưu điểm được cải tạo ởđây và để đào tạo thành người có ích cho xã hội. Cuối cùng ông kết thúc. Chúng tôi run cầm cập, răng đánh vào nhau, có nhiều phụ nữ rất hoảng sợ, nhất là những người không cầu nguyện được. Điều diễn ra tiếp theo sẽ là gì? Nhiều người đã được chứng kiến những buổi đấu tố như vậy, hoặc ít ra có nghe về sự tàn bạo xảy ra ở giữa nơi thanh thiên bạch nhật. Người chỉ huy buổi họp lên mi-crô và cầm theo tờ giấy đọc to: “Những tù nhân sau đây xin mời lên khán đài lập tức: Bà Linh, …” Ông đọc mười hai tên. Tất cả là Cơ-đốc nhân. Họ bị những nữ nhân viên kéo lên trên và phải đứng hàng dài trước những cán bộ đảng đang nhìn gườm gườm vào họ. Chị Linh bị coi là kẻ cầm đầu phải chịu thẩm vấn công khai đầu tiên. Những buổi họp đấu tố như vậy có mục đích làm cho những kẻ bị tố cáo phải công nhận trước công luận về những tội lỗi họ bị ép chịu và phải chịu sự nhục nhã trước những người có mặt. Thường thường những người bị lên án nhận bừa cả những việc họ không bao giờ vi phạm, vì nếu không thì sựđánh đập và tra tấn dã man chờđợi họ và những tội nhân còn ngoan cố thường bịđánh đến chết.
Vị quan tòa nói vài lời, sau khi chị Linh đứng trên khán đài cạnh ông: “Cô Linh, xin cô tường thuật cho chúng tôi biết tỉ mỉ việc cô nói về niềm tin của mình trong nhà tù ra sao. Cô đã lôi kéo được bao nhiêu tù nhân về phía cô? Ai là người cộng tác với cô? Bây giờ cô phải khai thật cởi mở và thú nhận toàn bộ sự việc.”
Chị Linh đứng thẳng lên và không sợ hãi trước mi-crô, trong khi tất cả những Cơ-đốc nhân khác ở trên bãi thầm cầu nguyện cho chị “Xin các ông hãy cởi trói cho tôi, để tôi có thể đọc lời thú nhận của tôi.” Cô nói với giọng trong trẻo và chỉ vào nhiều tờ giấy được viết kín mà cô đang cầm. Được cởi trói rồi, cô thư giãn đôi chút và nhìn vào những cặp mắt của những chị em hồi lâu, họđang căng thẳng hướng lên cô, sau đó, cô lấy giọng và bắt đầu đọc tờ tuyên xưng của mình. Giọng cô vang to và nhẹ nhàng tràn đầy cả bầu không gian.
“Vào một ngày kia, tôi đã nói tin lành cho một người, Tôi nói với người đó rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên trời đất và muôn vật. Đức Chúa Trời đã dựng nên con người từ bụi đất. Tôi nói với cô rằng con người không phải bắt nguồn từ khỉ và toàn bộ thuyết tiến hóa của Đác-uyn chỉ là một giả thuyết, không được chứng minh… Vào một ngày khác, tôi nói với một người khác rằng tất cả mọi người đều phải một lần chết và sau đó là sự phán xét … Lại vào một ngày khác, tôi nói với một người rằng Chúa Giê-xu là con Đức Chúa Trời và Ngài đã đến thế gian để tìm và cứu những kẻ bị hư mất, hơn thế nữa Ngài đã bịđóng đinh trên thập tự giá, chịu chết, nhưng sau đó Ngài đã sống lại… Một lần tôi cầu nguyện với một chị và cầu xin Chúa Giê-xu hãy tha thứ mọi tội lỗi của chị, để chị được tái sinh và được tiếp nhận vào nước Đức Chúa Trời… Một ngày nọ, tôi có dạy cho một vài tù nhân một bài hát, lời bài hát đó nói rằng Chúa Giê-xu sắp trở lại, nhưng chúng ta không biết thì giờ chính xác là lúc nào…”
Chị Linh cứ nói và nói. Những Cơ-đốc nhân chúng tôi nghe thấy vậy không tin vào tai mình, và chúng tôi sung sướng vì những lời đó chứa đựng những chân lý quí giá đã biến đổi đời sống chúng tôi. Chúng tôi đầy sự vui mừng và bắt đầu hát khe khẽ bài ‘Ha-lê-lugia’. Những tù nhân chưa tin Chúa kinh ngạc và thấy câu hỏi đó viết trên gương mặt họ “Một kiểu thú nhận gì vậy? Cô ta không làm gì khác hơn là giảng đạo cho người ta!”
Những người cán bộ tức giận đỏ mặt tía tai. “Có phải cô ta có ý nói chúng ta chăng? Có phải cô tìm cách làm cho chúng ta tin Chúa chăng?” Đột nhiên họ trở nên mất bình tĩnh, rất giận dữ đến nỗi không thể ngồi yên được. Sau đó, chúng ngắt lời chị Linh bằng một vài lời mắng chửi thậm tệ và đe dọa “Chúng tôi sẽ nhốt cô cho đến chết, cô hãy xéo đi cho!”
Hai chị em phải thú nhận cũng làm giống như chị Linh. Hai chịđã sử dụng cơ hội với một sự can đảm từ trời, để kể về Chúa Giê-xu và giải thích về chương trình cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời dành cho con người. “Tôi đã kể cho những phụ nữở phòng giam của tôi rằng tội lỗi đã ngăn cách Đức Chúa Trời và con người, nhưng Chúa Giê-xu đã vượt qua sự ngăn cách đó, khi Ngài chết vì mọi tội lỗi của con người.” Những người có trách nhiệm lồng lộn đằng sau chiếc bàn, nhìn những phụ nữ này và thấy hoang mang. Họ không biết giải quyết như thế nào, họ chưa từng thấy sự việc tương tự như vậy, chưa bao giờ họ nghe những lời nói như vậy. Những phụ nữđang nói bằng một sức mạnh lớn dường nào. Bọn chúng bối rối và sự tức giận đó biến thái thành sự không biết phải làm gì. Một điều đã rõ là họ không muốn nghe thêm những lời thú nhận tiếp theo nữa! Vì vậy những phụ nữ khác được cho về chỗ và viên chỉ huy buổi đấu tố hướng về công chúng đang run cầm cập vì lạnh và như thói quen ông vẫn thường làm, muốn kêu gọi những lời hô khẩu hiệu để tất cả những tù nhân cùng họa theo.
Bằng một giọng sấm sét, ông hét vào mi-crô: “Đả đảo mọi phần tử chống cải cách!” Ngoài vài ông cán bộ và những nữ nhân viên, không còn ai hùa theo ông ta.
Những nữ nhân viên đứng giữa những hàng chúng tôi tức giận cầm roi và gậy điện dọa dẫm chúng tôi “Tại sao chúng mày không hô khẩu hiệu? Nếu chúng mày không làm thì sẽ biết roi điện này!”
Viên chỉ huy bắt đầu thử lần nữa “Đả đảo những kẻ cầm đầu tôn giáo mê tín dịđoan!” Ông gào thét khản cả cổ vào mi-crô, nhưng một sự im lặng hoàn toàn tiếp diễn. Không ai nói điều gì, không nghe thấy một tiếng nói nào.
Tôi không nghĩ những Cơ-đốc nhân sẽ hô khẩu hiệu theo. Nhưng còn đối với những người khác thì sao? Tại sao họ cũng im lặng? Sau này tôi hỏi họ mới biết rằng, tuy họ chưa tin Chúa, nhưng ít nhiều họ thấy tác động của năng quyền Đức Chúa Trời và thấy không có điều gì xấu xa trong những Cơ-đốc nhân, mà ngược lại. Cho nên, họ cũng cưỡng lại không hô hào theo.
Mấy phút đồng hồ liền, không ai rời khỏi chỗ. Tình thế trở nên rất khó xử cho những ông cán bộ. Họ rơi vào một tình cảnh kinh khủng, vì họđã thua chúng tôi là những phụ nữ và tù nhân. Họ cũng bỏ qua kế hoạch ban đầu tăng án tù những nữ tín đồ. Chỉ tên của chín phụ nữ được ghi lại, sáu người trong sốđó bị cảnh cáo bắt buộc phải im lặng về niềm tin của mình, nếu họ không muốn bị tăng án tù.
Buổi họp đấu tố được kết thúc bằng một lời đe dọa chung chung “Ngay lập tức các cô bị cấm tuyệt đối không được phép nói về niềm tin của mình. Ai vi phạm sẽ bị hình phạt nặng nề.” Rồi chúng tôi được thả về phòng.
Vừa gặp nhau ở phòng là chúng tôi cùng quì gối xuống cảm tạ Đức Chúa Trời. Chúng tôi rất được khích lệ và đầy dẫy niềm vui, vì đã được chứng kiến thấy Đức Chúa Trời có quyền trên mọi hoàn cảnh và không có điều gì xảy ra cho chúng tôi nếu Ngài không cho phép. Vào buổi sáng đó, tất cảđã thấy tận mắt ý định của Sa-tan bị phá hủy. Từ một cuộc tấn công tổng lực vào tất cả các Cơ-đốc nhân, đã trở nên một cuộc biểu dương đáng ghi nhớ về sự vĩ đại của Đức Chúa Trời. Nếu trong thời gian sau đó, có những tù nhân không tin Chúa lên tố cáo chúng tôi về những hoạt động không được phép, thì những nữ nhân viên có phản ứng lạ thường là tỏ vẻ không quan tâm. Câu trả lời của họ là mặc kệ lẫn chịu thua. “Vậy à, cô hãy quên điều đó đi. Những cô tín đồ đó làm việc cũng tốt hơn cô, và ngoài niềm tin của họ, thì họ không có gì đáng trách. Cho nên, làm sao bây giờ? Ngoài ra, nói thật là chúng tôi cũng không thể làm gì chống lại họ được.” Những tù nhân bị khiển trách như vậy thấy xấu hổ và từđó trởđi thôi không kiện cáo chúng tôi nữa. Bởi vì điều đó cũng không đem lại lợi lộc gì cho họ.
Đức Chúa Trời chúng ta, Ngài thật sự biết hết mọi việc. Ngài biết lúc tôi yếu đuối và đổ ân điển đầy tràn trên tôi, và cả những lúc tôi cảm thấy mình không có khả năng. Thỉnh thoảng, có những ngày tôi cảm thấy mệt mỏi và đức tin tôi quá ít trước những thử thách của đời sống trong trại, nếu tôi thất vọng và chán chường, thì Đức Chúa Trời đặc biệt gần bên tôi bằng sự khôn ngoan và quyền năng lớn lao của Ngài. Tôi rất được động viên khi có những Cơ-đốc nhân khác đến thăm tôi.
Thế rồi có một hôm, người nữ nhân viên gọi tôi lên và nói có mấy người đến thăm tôi. Tôi thật hết sức vui mừng “hãy đi đi nào” người nữ nhân viên nói giọng càu nhàu “Cô có thể dừng tay một lát, cô có gia đình đến thăm” và cô nhân viên chìa cho tôi mảnh giấy có tên người thăm.
Tôi chạy suốt đoạn đường lên phòng tiếp khách, lòng hân hoan và vui sướng. Vì tên của người đến thăm tôi là một nam và một nữ, họ bị truy lùng khắp nơi. Không hiểu tại sao họ lại dám đến đây! Chắc chính Đức Chúa Trời đã nói với họ mạo hiểm đến đây và Ngài sẽ bảo vệ họ. Mối nguy hiểm rình rập là những người canh gác có thể phát giác họ. Những người đến thăm tôi thuộc trong sáu người lãnh đạo linh vụ trong các địa phương khác nhau, họ là những người nòng cốt của phong trào nhà thờ tư gia đang bị cấm đoán. Bởi vì đức tin họ không bị lệch lạc, và dù cho các cán bộ đảng cũng không ngăn cấm được họ tổ chức những buổi thờ phượng công khai, và họ vẫn cứ tiếp tục làm việc cho Đức Chúa Trời, nên họ bị coi là kẻ thù nguy hiểm của đất nước. Vì thế, họ không còn chỗ ở cố định nữa. Từ nhiều năm, họ không thể về thăm gia đình,vì họ sẽ bị bắt ngay ởđó. Nhưng đối với họ, công việc Hội thánh quan trọng hơn. Tất cả chúng tôi đều biết rằng mỗi một người trong số sáu con người đó nếu bị bắt chắc sẽ bị giết chết vì cớ đức tin. Và hôm nay có hai người trong số họ đến thăm tôi! Ân điển lạ lùng của Đức Chúa Trời đã tạo điều kiện cho buổi gặp gỡ này.
Trong phòng thăm, chỉ có một mình chúng tôi, mà tất nhiên có nhiều nhân viên canh gác khác không rời mắt khỏi chúng tôi. Nhưng cũng không cần lời nói, chỉ riêng cái nhìn của những anh chị em này và sự tỏa chiếu của họđã rất động viên tôi rồi. Họ rất trìu mến và mềm mại, nhưng đồng thời mạnh mẽ và không hề sợ hãi. Tôi có thể thấy sự nhiệt thành và quyền phép Đức Chúa Trời, lúc họ cầm lấy tay tôi và nói nghiêm trang “người chị em thân yêu, đừng lo lắng gì cho mình, nhưng hãy làm việc hết sức, hãy có trách nhiệm trong mọi sự việc, hãy vâng lời cấp trên, để gây sự thiện cảm. Còn các con cái ở nhà chị không phải lo. Có Cha đã chăm lo rất tốt cho chúng.
5. Đừng sợ chi, hãy nói và chớ làm thinh! Ta ở cùng ngươi (Công vụ các sứ đồ 18:9-10)
Cuộc sống của chúng tôi trong trại rất căng thẳng và lao lực. Tuy vậy tất cả những người trước đây chưa biết gì về Thượng Đế, và để lại một cuộc sống hư hỏng phía sau, bây giờ khi tin Chúa, họ khao khát được sự chăm sóc, trò chuyện và cầu nguyện cùng với họ. Họ cần sự giúp đỡ để hiểu Kinh thánh, họ muốn biết nhiều hơn về Đức Chúa Trời mà họđã tin cậy. Trong những trường hợp khác, tất cả những gì cần cho sự tăng trưởng tâm linh, họ có thể tìm thấy trong một Hội thánh. Nhưng chúng tôi ở trong trại đây làm việc từ sáng đến tối, có ít thời giờ dành cho nhau. Nhưng chính Đức Chúa Trời với tình yêu của Ngài đã chăm sóc những con cái Ngài trong nhà tù. Ban quản lý trại cho chúng tôi được nghỉ ngày chủ nhật! Thật vui sướng biết bao! Và chúng tôi sử dụng thời gian của ngày chủ nhật rất cẩn thận, không ai muốn làm mất thời giờ này vào những chuyện tầm phào hay việc ăn uống. Nhiều phụ nữ khó hiểu Kinh thánh đã đến với tôi và tôi giải thích cho họ tất cả những gì tôi biết nhờ sự giúp đỡ của Đức Thánh Linh. Những người khác đến với tôi, vì họ có vấn đề cần giải tỏa và cầu nguyện, những người khác bịốm đến với tôi để tôi cầu nguyện cho sự chữa lành, hoặc là họ muốn học những bài hát mới. Chúng tôi rất bận rộn vào ngày nghỉ chủ nhật, và chúng tôi nếm trải từng giây, từng phút. Chúng tôi tràn đầy niềm vui đến nỗi không còn nghĩ rằng mình đang ở tù. Và những nữ nhân viên để mặc cho mọi điều đó xảy ra!
Vào một buổi tối có chiếu phim, hầu hết những nữ nhân viên và nữ tù nhân đều xem. Những Cơ-đốc nhân chúng tôi đã chờ đợi cơ hội này từ lâu để có thể làm báp têm cho những chị em mới. Khi mọi người vừa vào phòng chiếu phim, là chúng tôi chạy gấp đến nhà tắm. Nhưng chúng tôi thất vọng, vì ởđó còn có vài người đang giặt quần áo. Chúng tôi còn biết làm gì hơn là cũng lấy quần áo mình đến giặt và hy vọng đến lúc tất cả những người kia sẽ ra về? Nên chúng tôi giặt quần áo và cầu nguyện trong tâm trí, cầu xin Đức Chúa Trời ban cho chúng tôi cơ hội làm buổi báp-tem đàng hoàng. Và Cha thiên thượng thành tín chúng ta lại giúp đỡ chúng tôi: Bỗng nhiên bị hết nước, vòi không chảy nữa! Những phụ nữ kia chửi bới và tức tối, đợi một lúc lâu, không thấy gì, sau đó họ bỏ về và để lại cho chúng tôi những xô nước đầy. Chúng tôi reo mừng và nhảy múa vì sung sướng! Một chị em đứng canh trước cửa và canh chừng hành lang, hầu chúng tôi không bị bắt bất ngờ. Sau đó, chúng tôi dự buổi báp-tem thờ phượng Chúa rất đặc biệt, phù hợp với điều kiện cho phép, bằng cách chúng tôi dội nhiều nước hết chị này đến chị khác và làm báp-tem cho họ trong Danh Cha, Con và Đức Thánh Linh. Sự bảo vệ và sự hiện diện của Đức Chúa Trời rất mạnh mẽ. Khi chị em cuối cùng vừa mặc đồ khô vào, thì vòi nước bắt đầu chảy, và chúng tôi nhanh chóng hứng đầy những xô nước cho những người kia, và sau đó thì họ cũng vừa đến để giặt tiếp. Nhưng chúng tôi đã làm báp-tem cho tất cả những người mới tin Chúa.
Kể từ lần đấu tố vừa qua, ban quản lý trại đã giảm bớt sức ép chống lại chúng tôi là những Cơ-đốc nhân. Nhưng đối với riêng tôi lại bắt đầu một thời gian thử thách mới của sự bắt bớ, nó hao tốn nhiều sức lực và đôi khi tôi gần như không chịu đựng nổi. Đó là một trong những người cùng phòng với tôi hằng ngày đày đọa tôi, và trở nên kẻ chống đối tôi kịch liệt nhất. Nhờ Chúa giúp đỡ, tôi đã đem cho cô tình yêu mà Chúa Giê-xu đã ban cho tôi. Bất cứ cơ hội nào cho phép, tôi đều vui vẻ với cô. Tôi lấy nước chè cho cô, xách nước cho cô và giặt quần áo cho cô. Tôi không cảm thấy khổ sở, nhưng tôi thích phục vụ cô. Nhưng tất nhiên, qua đó tôi cũng hi vọng đến một lúc nào đó cô sẽ thay đổi thái độ nhỏ nhen của cô và cô sẽ mở lòng với tình yêu Đức Chúa Trời và tôi không còn bị cô hành hạ nữa. Nhưng cô một mặt ưa thích những sự giúp đỡ của tôi, mà lại không thuyên giảm sự thù ghét của mình chút nào. Cô đã làm tất cả những gì có thể nghĩ ra để trêu chọc tôi. Cô thường xuyên chửi rủa và mắng nhiếc tôi to tiếng. Nhưng điều kinh khủng nhất, đó là cô không bao giờ để cho tôi yên lặng cầu nguyện. Mỗi lần khi tôi quì gối xuống, cô đến ngay bên cạnh, thét lên và nguyền rủa tôi. Và mỗi lần cô thấy tôi nói chuyện với ai về Chúa Giê-xu, là cô đến ngắt quảng cuộc nói chuyện chúng tôi, bắt đầu tranh cãi và làm cho không thể nói chuyện tiếp tục được. Sau đó, cô luôn luôn chạy tức tốc lên văn phòng và thêu dệt những chuyện về tôi.
Ngày ngày cứ như vậy, cho đến khi tôi không thể chịu được nữa. Tôi ngã xoài trên giường và hoàn toàn mất sự tự chủ. Tôi than khóc và cầu nguyện với Đức Chúa Trời “Chúa ơi, con không thể chịu được nữa. Con không muốn tiếp tục nữa. Thế là đủ rồi. Xin hãy cho con chết. Con muốn về nhà, về với Ngài, con không muốn ởđây thêm một ngày nào nữa. Xin hãy cất linh hồn con về với Ngài!” Vào buổi tối đó, Đức Thánh Linh nói với tôi và nhắc đi nhắc lại câu Chúa Giê-xu đã nói: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu hạt giống lúa mì kia, chẳng chết sau khi gieo xuống đất, thì cứởđó một mình; nhưng nếu chết đi thì kết quảđược nhiều.” (Giăng 12:24)
Sau đó, tôi thấy rõ ràng mình đã yếu đuối, đầy sự thương hại bản thân, và đáng lẽ là tiếp tục nuối tiếc, thì tôi nhớ lại tất cả những điều kỳ diệu và vĩ đại mà Đức Chúa Trời đã làm trong trại cải tạo lao động này. Trong khi tôi cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự cứu giúp của Ngài trong quá khứ, tôi thấy dần dần trở lại bình tĩnh hơn. Dù vậy, tôi làm đơn xin ban quản lý trại cho tôi chuyển phòng. Những người quản lý biết tình trạng của tôi và cho phép tôi chuyển sang phòng số tám.
Thở phào, tôi đã thu gom số đồđạc cá nhân ít ỏi, rời khỏi hoàn cảnh khó khăn đó và nhận giường mới, trong phòng mới. Nhưng chẳng bao lâu, tôi mới rõ là mình đã tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Trong phòng trước của tôi, chỉ có một người duy nhất chống đối tôi, nhưng ởđây, tất cả những người cùng phòng đầy sựđê tiện và đểu cáng. Trong số họ, không có một người nào tử tế, không một người biết gì về Cơ-đốc giáo: Đức Chúa Trời, Ngài đã cho phép người phụ nữở phòng trước đày đọa tôi, để tôi xin chuyển, vì Ngài muốn tôi ởđây với những phụ nữ chưa được Đức Chúa Trời đụng chạm, trong khi Ngài đã làm ở những chỗ khác trong trại. Điều đáng ngạc nhiên là toàn phòng ởđây chưa có ai tin Chúa. Tôi đã nghĩ rằng trong lúc này, có ít nhất một vài nữ tín đồ ở mỗi phòng, và họ có thể kể cho những người cùng phòng về Chúa Giê-xu. Nhưng ởđây hoàn toàn là khu vực mới cho Đức Thánh Linh. Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài đã đem tôi đến đây, và tôi bắt đầu cầu nguyện khẩn thiết, tôi kiêng ăn và bước vào sự cầu thay cho những phụ nữ sống chung này.
Đầu tiên, có rất nhiều sự chống trả. Cứ mỗi lần tôi bắt đầu nói về Chúa Giê-xu là tất cả hội đồng lại để chống tôi. Họ không muốn nghe về Đức Chúa Trời, họ thường xuyên hắt hủi tôi. Tôi thấy thất bại, nên từ bỏ ý định muốn nói thêm cho họ. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện cho họ. Và tôi thấy tương đối nản đối với những phụ nữ này. Tôi khó tin được rằng một ngày nào đó họ sẽ quay trở lại với Đức Chúa Trời. Tôi cầu nguyện dốc đổ với Đức Chúa Trời, xin chính Ngài nói với họ và mở lòng họ để họ nghe tin lành về Chúa Giê-xu và trở lại với Ngài. Một ngày kia, cô gái trẻ nằm cạnh giường tôi bịốm nặng. Tôi thấy lo lắng cho cô và xem sự săn sóc cô là bổn phận của mình. Nên tôi chăm sóc cô cho đến khi cô khỏe mạnh. Qua đó, trái tim cô được tình yêu của Chúa Giê-xu đụng chạm, và cô đã dâng đời sống mình cho Ngài. Sau đó, có hai người cùng phòng nữa tin nhận Chúa. Không lâu sau đó, một người cùng phòng đã lên báo cáo cho những nữ nhân viên về những hoạt động tôn giáo bị nghiêm cấm của tôi “Từ khi cô Trân đến phòng chúng tôi, lúc nào cô cũng nói về Chúa Giê-xu, cô cầu nguyện và hát suốt đêm, đến nỗi chúng tôi không tài nào chợp mắt được. Đến lúc các bà phải ra tay rồi.”
Vì vậy, những nữ nhân viên đến phòng chúng tôi, để lục soát những đồ đạc cá nhân. Họ hi vọng tịch thu những tài liệu bằng chứng và có thể trừng phạt tôi, vì những hoạt động bị nghiêm cấm. Tôi không biết gì về cuộc lục soát này và đang ngồi khi những nữ nhân viên bước vào, lúc đó tôi ngồi trên giường và đọc quyển sống với thánh kinh “Những dòng nước trong đồng vắng”. Tôi rất ưa thích quyển sách và mỗi ngày đọc một đoạn tương ứng, gồm có một đoạn Kinh thánh ngắn và một câu chuyện liên hệ, một bài thơ hay một vài câu giải thích. Ở trong trại, quyển sách này đối với tôi có rất nhiều ý nghĩa. Dầu vậy, đem nó vào đây không phải là không nguy hiểm. Tôi không bao giờ muốn để bị mất cuốn sách quí giá đó. Trong khi những nữ nhân viên bước vào căn phòng, tôi dúi nó cho cô ngồi đối diện giường tôi. Cô phản ứng như không có gì xảy ra và giấu nó trong quần áo mình. Thật tình là đã quá muộn, vì tất cả những cặp mắt của các nhân viên và tù nhân đều chĩa về tôi, lúc tôi đưa cuốn sách. Có ít nhất hai mươi lăm người đã trông thấy động tác nhanh chóng này. Nhưng Ha-lê-lu-gia, không ai nhìn thấy gì! Ngay lập tức, câu Kinh thánh đến trong tâm trí tôi “Nếu Đức Chúa Trời bênh vực chúng ta, thì còn ai chống lại chúng ta.” (Rô-ma 8:31) Tôi thấy thú vị.
Những nữ nhân viên đã lục lọi hồi lâu và kỹ càng, không có gì không bị động tới, họ bới tung lên tất cả những xó xỉnh bị tình nghi, nhưng rồi không tìm thấy gì cả. Mặc dù vậy, họ vẫn đưa tôi lên văn phòng. Ởđó, tôi bị cảnh cáo phải giữ nội qui trại. Sau đó, họđem tôi xuống hầm để nhốt tôi vào xà-lim chật chội và tối tăm khét tiếng đó, mà trước đó vài Cơ-đốc nhân đã bị nhốt ởđó, nhưng nước ởđó ngập cao đến nỗi họ phải đóng ngay cửa lại. Nhưng họ vẫn chưa cho tôi trở lại phòng, mà đem tôi đến một phòng theo dõi ở tầng trệt, dành để nhốt riêng những người tội phạm nặng. Có những lúc, nếu căn phòng không có người, thì những tù nhân bị phạt bị nhốt tạm thời ởđây, nếu họ đặc biệt không tỉnh ngộ và cứ vi phạm nội qui nhà tù. Đây là lần đầu tiên tôi ở trong phòng này, tôi không biết là phải ởđây bao lâu. Nhưng tôi tìm cách an ủi mình rằng, Đức Chúa Trời, ít ra sẽ che chở tôi, giống như Ngài đã làm trước đó cho quyển sách sống với thánh kinh của tôi.
Vào ngày thứ hai, có bốn người nữa bị bắt nhốt cùng xà-lim với tôi, sau này còn có người thứ năm. Họ không phải là Cơ-đốc nhân và bị phạm một tội nào đó, nên đã bị phạt. Chúng tôi bị theo dõi liên tục và chúng tôi không được phép nói chuyện với nhau. Nhưng tôi không muốn chấp nhận điều đó. Cả những phụ nữ này cũng nên được kinh nghiệm rằng họ có thể bắt đầu một cuộc đời mới với Chúa Giê-xu, ở giữa cảnh giam cầm này. Đức Chúa Trời, bằng ân điển lớn lao của Ngài đã bảo vệ chúng tôi, và tôi thấy có nhiều cơ hội để nói chuyện với họ vềĐức Chúa Trời, mà không bị nữ nhân viên để ý.
Một buổi tối, Chúa ban cho tôi một khải tượng, trong đó tôi thấy bà trưởng trại nói chuyện với tôi và bắt tôi khai báo tất cả các ‘hoạt động cấm’, mà tôi đã làm ở phòng số tám. Vào sáng hôm sau, tôi nói cho người đứng theo dõi gác trước cửa phòng: “Hôm nay tôi sẽ bị gọi lên hỏi cung.”
Cô ta hỏi: “Làm sao mà chị biết được?”
“Chúa là Đấng tôi phục vụđã nói cho tôi đêm qua.” Cô kinh ngạc và không nói gì thêm.
Đến tám giờ sáng, đã đến lúc những lính canh có vũ trang đem tôi lên phòng hỏi cung. Có bốn bà cán bộ ngồi đằng sau những cái bàn nhỏ, chân bắt chéo, ngả lưng ra phía sau, nói chuyện rôm rả và cười đùa với nhau và trông họ trong bộ quân phục rất oai phách. Tôi được chỉ cho hãy ngồi xuống chiếc ghế đẩu đặt trước họ, và đợi vài phút trôi qua, đến khi họ mới quay sang chú ý đến tôi.
“Cô Trân, cô đã suy nghĩ mọi điều kỹ lưỡng chưa?” Họ bắt đầu cuộc hỏi cung “Bây giờ cô phải tường trình lại thành thật và đầy đủ.”
“Tôi phải tường thuật về gì cơ?” Tôi hỏi lại.
“Cô biết rất rõ điều đó!” là câu trả lời cụt ngủn. Bây giờ tất cả gườm gườm nhìn tôi, họđã cúi người xuống, chống lên bàn và chờ câu trả lời của tôi. Nhưng tôi không biết phải trả lời điều gì cho họ. Tôi lưỡng lự một lát và cầu nguyện lên Đức Chúa Trời và hỏi Ngài tôi sẽ nói điều gì. Sau đó, tôi nói với giọng khẩn khoản: “Tôi đã không làm điều gì sai hoặc không đúng. Thật sự tôi không biết tôi sẽ nói gì.”
Thình lình, tất cả đều vỡ tung, họ rít lên, giận dữđập bàn và quát tháo tôi, rồi họ chỉ ngón tay trỏ vào tôi, làm như tay họ là súng lúc vậy: “Cô Trân, sao cô cứng cổ thế? chúng tôi cho cô cơ hội để nói, mà tại sao cô không nói? Sau khi cô đã có thời gian để suy nghĩ cho thật kỹ lưỡng, tại sao cô không tường trình thành thật cho chúng tôi? Cô Trân, nếu bây giờ cô không nói, cô sẽ bị xay ra cám bây giờ!”
Khi tôi nghe thấy điều đó, bỗng có một niềm vui siêu nhiên tràn ngập tôi. Tôi cầu nguyện trong tâm trí: “Chúa ơi, nếu Ngài cho phép con bịđánh đập, con thật sự sẽ rất vui mừng, vì như vậy Ngài đã xem con là xứng đáng chịu nhục vì danh Ngài.”
Những bà cán bộ còn tiếp tục chửi rủa và dọa nạt một lúc lâu và đặt một vài câu hỏi, nhưng sau đó, tôi ngạc nhiên, vì họ đột ngột nói rằng: “Cô có thể trở lại phòng mình và sau đó cô trở lại với chúng tôi và bình tĩnh tường thuật lại mọi chi tiết tỉ mỉ.” Cuộc hỏi cung được chấm dứt như thế, và tôi lại bịđem về phòng theo dõi.
Một vài ngày sau, tôi được đem lên hỏi cung. Lúc tôi được đem đi, trời đã tối, nhưng hoạt cảnh diễn ra rất giống như lần trước. Bà cán bộ cao cấp nhất của chi bộ quay sang tôi: “Giờ thì cô hãy nói đi, tuy cô không vi phạm những tội mới, nhưng chỉ qua đức tin của cô vào Đức Chúa Trời đã làm cho chúng tôi phải làm những việc không cần thiết. Kể từ khi cô đến trại, chúng tôi hằng ngày phải bận rộn với những hậu quả của sự mê tín dịđoan.”
Tôi cầu nguyện thầm: “Chúa ơi, con muốn vâng lời Ngài. Con muốn làm theo ý muốn Ngài!” Đức Thánh Linh mới nói với tôi và nhắc tôi nhớ lại lời Kinh thánh: “Hãy trung tín cho đến chết.” (Khải huyền 2:20). Cái đó ban cho tôi thêm năng lực, và tôi có thể để cho mọi sự tấn công xảy ra trên tôi, mà không cần phải nói nhiều. Cũng giống như những lần hỏi cung trước, tôi bị một đòn phủ đầu và ngăm dọa, nhưng nó chỉ dừng lại ở lời nói. Tôi không bịđánh hay tra tấn. Rõ ràng Đức Chúa Trời tôi đã che chở tôi, hầu cho không ai có thể đụng vào thân thể tôi. Cuối cùng, những lời cầu nguyện của các chị em không phải là không công hiệu. Tuy họ không biết cụ thể lúc nào tôi bị hỏi cung, nhưng tất cả đều biết tôi ở phòng giam theo dõi, không có Kinh thánh, không được liên hệ với những chị em tín đồ khác và không có thời gian thuận tiện để cầu nguyện. Chỉđiều đó thôi, cũng đủ để cho những Cơ-đốc nhân cầu nguyện dốc đổ cho tôi, và Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của họ, Ngài ban cho tôi năng lực, chúc phước cho tôi bằng sự nương náu bên Ngài và bảo vệ tôi khỏi những ý định độc ác của những nữ nhân viên.
Một cuộc hỏi cung thứ ba cũng diễn ra theo bố cục giống như vậy. Họ đặt nhiều câu hỏi cho tôi, tôi không trả lời, và sau những lời đe dọa, tôi bịđem trở lại xà-lim, để tôi suy nghĩ tiếp về tội lỗi của mình.
Trở lại phòng theo dõi, tôi suy nghĩ xem điều gì có thể xảy đến cho tôi. Tôi đi đến ba khả năng: hoặc là tôi bịđem lên miền tây bắc, ởđó, có trại cải tạo lớn. Hoặc là tôi bị tăng án tù. Hoặc là tôi bị án tử hình. Tôi đã cầu nguyện và đầy dẫy niềm vui sâu đậm, tôi nói “Chúa Giê-xu ơi, nếu con bịđem lên vùng tây bắc, con có thể lớn tiếng ngợi khen Ngài. Nếu hạn giam con bị kéo dài,con sẽ có nhiều thời gian hơn để học với Ngài và thấy sự vận hành của Ngài ởđây. Và nếu con bị tử hình, thì con chắc sẽ vui mừng, vì như vậy con sẽ được ở bên Ngài, và cuối cùng sự khao khát của con đối với Ngài sẽ được thỏa mãn.”
Trong khi tôi ở phòng biệt giam này, có năm phụ nữ khác bịđem đến nhốt chung với tôi. Vì chúng tôi ngày và đêm phải cùng ở trong căn phòng chật chội đó, thì mặc dù bị cấm nói chuyện, nhưng không ngăn giữ được chúng tôi, và chúng tôi phải chú ý để không một nữ nhân viên nào trông thấy. Tôi kể cho họ về Chúa Giê-xu và tình yêu Đức Chúa Trời tuôn chảy qua tôi đến với họ. Có một cô đã ăn cắp của bạn tù mình áo quần và đồ ăn, nên cô phải ởđây để suy nghĩ về sự phạm pháp của mình. Cô bị trầm trọng, cô bị những nữ nhân viên hành hạ và khó có thể chịu đựng được cuộc sống ở xà-lim này. Cô cũng bị sự cắn rứt lương tâm và sự tự ti mặc cảm hành hạ. Tôi có thể nói với cô là “Tất cả mọi người đều đã phạm tội và có lỗi đối với Đức Chúa Trời. Nếu cô không tin Chúa, cô sẽ hư mất đời đời. Nhưng cô có thể quay khỏi đời sống cũ của mình trước đây và tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Chúa mình…”. Bởi vì tôi cầu nguyện và kiêng ăn cho cô, nên có thể dành thức ăn lại và đưa cho cô, điều đó làm cô rất vui.
Một ngày kia, cô đã kể cho tôi câu chuyện của cô, cô vừa khóc vừa nói: “Những điều chị kể cho em nghe về Chúa Giê-xu không phải là mới đối với em. Mẹ em cũng là con cái Chúa và luôn tìm cách dạy em trở thành người tin Chúa. Em cũng biết rằng, bà đã cầu nguyện cho em trong những năm tháng qua, và cả bây giờ nữa. Nhưng em không hề muốn liên hệ gì đến Đức Chúa Trời. Em muốn sống cuộc sống của em, như em thích, mà không cần phải hạn chế mình. Và em muốn giống như sốđông mọi người. Vì thế, bây giờ em rơi vào chỗ này. Và ngay cảởđây Chúa Giê-xu không buông lỏng em hơn, nhưng đã tìm cách kéo em đến với Ngài. Kể từ khi em gặp chị, em luôn luôn nghĩ rằng, có thể Chúa Giê-xu còn yêu thương em, sau khi em đã làm hư hỏng hết. Chị biết không em thật sựđi đến bước đường cùng, em không biết phải sống tiếp như thế nào nữa. Chị có nghĩ rằng em còn có thể bắt đầu lại một lần nữa được không?” Chúng tôi đã cùng nhau cầu nguyện, cô trao cho Chúa tội lỗi và cuộc đời hư hỏng của mình và Ngài đã ban cho cô sự tha thứ và một cuộc đời mới. Thật là một phép lạ, được chứng kiến những tù nhân trở thành con cái Đức Chúa Trời, tôi không thấy có niềm vui nào lớn hơn! Cô gái trẻ này trở thành một nữ tín đồ nóng cháy, yêu mến Chúa Giê-xu hết lòng và trong những năm tiếp theo đưa dắt nhiều người trong tù đến với Chúa.
Vào một ngày kia, có một cô gái còn rất trẻ được đưa đến phòng tôi. Thật ra, cô còn là một đứa trẻ. Cô không nói gì, không nhìn tôi, nhưng chỉ ngồi bất động dưới đất. Trên gương mặt cô thấy rõ sự tuyệt vọng, như là cô muốn kết thúc cuộc đời này vậy. Tôi thấy đau đớn khi phải nhìn thấy cô như vậy và tìm cách nói chuyện với cô làm cho cô vui lên, nhưng cô không động đậy và chẳng buồn nhìn lên. Tôi còn biết làm gì hơn là cầu nguyện cho cô?
Sau khi nhiều ngày cứ trôi qua như vậy, vào một buổi sáng, tình yêu Đức Chúa Trời đối với cô gái này đã cảm động tôi thật nhiều, nên tôi ngồi bên cạnh cô và cầm lấy tay cô trong nước mắt tôi nhẹ nhàng nói với cô: “Con ơi, con có thể kể cho cô biết chuyện buồn của con được không?” Cô không phản ứng gì. Tôi chợt nhớ ra, là ngày hôm trước, con trai tôi có đem cho tôi ít đồ ăn. Tôi mới lấy đưa cho em. Lúc đó, kể từ khi vào tù, lần đầu tiên em cảm thấy thật sự có cái gì đó giống như tình yêu. Em nhìn tôi hồi lâu gương mặt em trở nên mềm lại, khi em nhận lấy món quà và sau đó em đã gục đầu vào lòng tôi và khóc. Tôi được nghe câu chuyện rất buồn của em: Em bị kết án bốn năm tù, bởi vì em đã gây rối loạn và chống lại những bậc cầm quyền. Em không bao giờ chịu khuất phục. Em đã làm cho gia đình phải lo lắng và chịu biết bao nhục nhã, thế rồi khi em vào tù thì nhận được lá thư của bố mẹ, đã làm trái tim em sụp đổ. Bố mẹ viết rằng, em không còn là đứa con của gia đình và không bao giờ được phép về nhà nữa. Trong tù em bịốm nặng, bị viêm màng não, không ai săn sóc cho em và em cảm thấy điều đó thật kinh khủng, vì không ai săn sóc mình. Em còn rất trẻ và không còn người thân nào nữa. Một sự sợ hãi và tuyệt vọng tràn ngập, đến nỗi em chỉ còn nghĩđến việc tự sát.
Tôi thật vui mừng vì có câu trả lời “Con ơi, dù bố mẹ con không yêu con nữa, nhưng có một Đấng yêu thương con từ lâu lắm rồi. Ngài luôn luôn yêu con ngay từ trước khi con được sinh ra, Ngài đã vì tình yêu đối với con mà đã chết cho con, Ngài đã tình nguyện gánh tội lỗi trên mình để con được tự do và có một cuộc sống hạnh phúc. Ngài luôn luôn muốn cứu con và để con trở thành con cái Ngài. Điều duy nhất con cần làm là mở lòng ra cho Ngài và Ngài sẽ tiếp nhận con vào gia đình Ngài…”
Lúc tôi đang nói, tiếng khóc cô trở nên nức nở, và cô đến với Đức Chúa Trời bằng tất cả tấm lòng. Cô hối hận sâu xa, vì thái độ nổi loạn của mình, sau khi cô đã xưng nhận những tội lỗi trước Đức Chúa Trời và tôi, cô có thể kinh nghiệm sự chữa lành của Đức Chúa Trời trên tấm lòng bị tan nát của cô. Một vài ngày sau đó, tôi nói với cô rằng nếu cô có thể cầu nguyện cho bố mẹ và viết một bức thư cho họ để xin lỗi và xin bố mẹ tha thứ. Biết đâu bố mẹ sẽ thay đổi ý định lần này thì sao và sẽ yêu thương cô trở lại. Cô vâng lời và bắt đầu cầu nguyện và kiêng ăn cho bố mẹ. Sau đó, cô viết bằng nước mắt cho họ một lá thư như sau:
“Kính thưa bố mẹ, con đã gây cho bố mẹ nhiều điều đau khổ. Vì đứa con gái không xứng đáng của bố mẹđã làm nhiều điều hư đốn và tai tiếng, nên không những con bị phạt thôi, mà còn khiến cho bố mẹ phải chịu sự nhục nhã. Con đã làm ô danh gia đình và để cho cả nhà phải bị tai tiếng. Con hiểu rằng bố mẹ căm ghét con và con thật sự không xứng đáng là con của gia đình. Nhưng ở trong tù đây con đã gặp một người mẹđã giúp đỡ con, để tìm thấy một cuộc sống mới và chỉ cho con con đường sống và giải thích rằng, mỗi người sẽ phải chịu lấy trách nhiệm về việc làm của mình. Bố mẹ yêu quí, xin hãy đến thăm con! Bố mẹ hãy đánh con, chửi mắng và trút sự giận dữ vào con. Nhưng con muốn xưng nhận trước bố mẹ tội lỗi con và cầu xin bố mẹ tha thứ cho con. Con xin chúc bố mẹ mạnh khỏe!
Đứa con không xứng đáng của bố mẹ (họ tên và ngày tháng)”
Khi bố mẹ cô gái nhận được lá thư, trên đó còn thấy dấu vết những giọt nước mắt của con gái mình, thì họ lập tức vào nhà tù thăm con. Khi hai bên đứng đối diện nhau thì toàn bộ sự giận dữđã biến mất, họ ôm chầm lấy nhau và khóc rất lâu. Nhiều người nhìn thấy cảnh đó cũng không cầm được nước mắt, đó lạ một khoảnh khắc xúc động kỳ diệu của sự làm hòa. Ít ngày sau đó, cô gái phải trải qua thời gian bắt bớ, vì trong khoảng thời gian đó, đức tin cô đã được mọi người biết đến. Nhưng cô không bị nhụt chí. Năng quyền mà cô tìm thấy trong Chúa Giê-xu mạnh hơn những cuộc hỏi cung và đau đớn. Những cán bộ nhất định muốn biết ai đã thuyết phục cô tin Chúa, nhưng cô cứ một mực trả lời: “không ai bắt ép tôi tin, và đó chính là Chúa Giê-xu đã yêu tôi. Ngoài ra những việc tốt, đạo đức và tình yêu của những người tin Chúa đã thuyết phục tôi.”
Người phụ nữ thứ ba đến phòng biệt giam của tôi đã lớn tuổi. Bà bị án tù chung thân, bởi vì bà đã giết chồng. Vì thế, không những bà phạm luật pháp mà còn bị mọi người khinh bỉ, bởi vì những kẻ giết người trong xã hội chúng tôi rất bị khinh bỉ và căm ghét. Kể từ khi bà bị giam, không một người thân quen nào đến thăm nom hay gởi cho bà một thứ đồ dùng gì. Bà rất nghèo và hoàn toàn không có của cải gì, đến nỗi bà không mua nổi xà phòng, khăn mặt, kem đánh răng hay những thứđại loại như vậy. Thêm vào đó, bà còn bị bịnh, và sựđau đớn trong linh hồn và sự cô đơn làm bà không chịu nổi.
Sau khi bà bị đưa đến phòng tôi, tôi đã mua cho bà vài thứ đồ dùng sinh hoạt hằng ngày. Tình yêu của Chúa Giê-xu cũng đã làm tan chảy tấm lòng cứng cỏi và cay đắng này, bà đã trở lại với Chúa và kinh nghiệm một sự thay đổi lớn.
Người phụ nữ trạc tuổi trung niên, bị đưa đến phòng tôi là người thứ tư. Bà đến từ một thành phố cách đây hàng nghìn cây số. Bà bịđi tù, vì đã làm nghề buôn gái. Người mẹ già của bà đã tám mươi tuổi, không hề biết gì về việc con gái mình bị tù, nhưng bà đã nghĩ rằng con gái mình đang đi công tác xa. Nữ tù nhân này bị khủng hoảng tinh thần, bà khóc mỗi ngày. Nhưng khi tôi kể cho bà về Chúa Giê-xu, bà đã tiếp nhận và nhận được sự tha thứ. Bà được đầy dẫy niềm vui và hát ngợi khen Đức Chúa Trời mỗi ngày, cầu nguyện, đọc Kinh thánh và dẫn những tù nhân khác đến với Đức Chúa Trời.
Người tù nhân thứ năm mà Chúa đem đến cho tôi ở tỉnh Henan, bị bắt vì tội bắt con tin tống tiền. Bà bị án tù mười lăm năm và tính tình rất đê tiện. Tôi đã đặc biệt cầu nguyện cho bà rất nhiều và lâu dài, rồi cuối cùng phép lạ cũng xảy ra trên đời sống bà: Bà đã hối hận lỗi lầm, trở lại và xin Chúa Giê-xu bước vào đời sống mình, sau này, khi bà đã mãn hạn tù và được tự do, bà vẫn giữ lòng yêu mến Chúa không thay đổi, và đưa chồng, gia đình và nhiều người khác đến với Chúa.
Cảm tạ Đức Chúa Trời, vì quyền phép Ngài đã tác động và tất cả năm phụ nữđã giao phó đời sống mình cho Chúa Giê-xu. Họ được kinh nghiệm một sự giải phóng, sự tha thứ và sự bình an kỳ diệu,và chúng tôi vui mừng về sự tốt lành mà Cha thiên thượng chúng ta đã tuôn đổ trên chúng tôi.
Vậy nên những ngày ở phòng biệt giam này trôi qua cũng đầy phước hạnh và niềm vui và bận rộn công việc cho Chúa Giê-xu. Đến ngày thứ năm mươi của tôi ở phòng biệt giam, tôi bị đưa lên cho những bà quản lý trại, để bị hỏi cung lần thứ tư. Tôi lại bịđòi hỏi phải viết ra tờ xưng nhận tội lỗi mình. Thế rồi, họ lại hỏi rằng “Cô hay đọc loại sách nào nhất?”
Tôi nhớ là vào 1982, khi tôi bị bắt, tôi có đem theo một cuốn tiểu thuyết. Hồi đó, tôi hơi ngạc nhiên về chính mình, tại sao tôi đã đem theo cuốn sách này, nhưng bây giờ tôi mới biết điều đó. Vì thế tôi có thể trả lời: “Tôi đọc cuốn tiểu thuyết… Nếu các bà không tin, hãy đến mà xem. Quyển sách nằm dưới giường phía chân tôi.” Họ mới sai người đi tìm ngay, và thật sự có tìm thấy quyển sách đó và đem lên phòng hỏi cung.
Tôi mạnh dạn nói tiếp “Bây giờ các bà đã có bằng cớ rồi đấy, tất cả những người đã tố cáo tôi đều vu khống tôi.” những bà cán bô không nói gì thêm, và cuối cùng tôi được phép trở về phòng số tám và tham gia vào cuộc sống hằng ngày ở trại cải tạo.
Đối với tôi năm mươi ngày ở phòng biệt giam không phải là hình phạt nhưng là một quà tặng của Đức Chúa Trời, bởi vì tôi có thể dành nhiều thời gian cho năm chị em đã tin Chúa đó và giúp họ bắt đầu một đời sống mới. Không phải những nữ nhân viên đã hình phạt tôi, mà Đức Chúa Trời đã sai tôi đến đó. Tôi đã nghĩđến Lời Chúa có chép rằng:
“Ta đã sai ngươi để mở mắt họ, hầu cho họ từ tối tăm mà qua sáng láng và từ quyền lực của quỉ Sa-tan và đến Đức Chúa Trời, mà cho họ bởi đức tin nơi ta được sự tha tội và cùng phần gia tài với các thánh đồ.” (Công vụ các sứđồ 26:18)
Tôi đầy sự vui mừng, vì đường lối Đức Chúa Trời đối với tôi, tôi đã reo lên, ca hát và cảm tạ Ngài, mỗi khi tôi nhớ lại năm mươi ngày này.
Nhà tù của chúng tôi nổi tiếng trong toàn nước, vì nó có trên bốn nghìn nữ tù nhân và thuộc vào cỡ lớn nhất trong các trại cải tạo. Những phụ nữ mới thường được đem đến, và những người cũ được thả ra hay thuyên chuyển. Cho nên, đối với chúng tôi là những Cơđốc nhân không khi nào hết việc. Thường xuyên có những phụ nữ mới đến chưa từng nghe về Chúa Giê-xu. Trong thời gian bị tù tôi đã sống chung với nhiều phụ nữ, mà trong hoàn cảnh bình thường chắc tôi không bao giờ quen biết họ, tấm lòng và thân thể họ đầy dẫy sự bẩn thỉu, đê tiện, tôi bị phó cho cách sống và những sựđê tiện của họ, hằng ngày, tôi phải nghe những câu nói tục tĩu và phải dối diện với những tội lỗi ghê tởm và tàn bạo nhất. Nhưng trong con mắt tâm linh, tôi thấy những phụ nữ này sẽ phải trả lời trước Đức Chúa Trời, trước tòa án chung thẩm và họ sẽ phải đi vào sự hư mất đời đời ra sao. Và câu Kinh thánh trong châm ngôn của Sa-lô-môn không rời khỏi tâm trí tôi: “Hãy giải cứu những kẻ bịđùa đến sự chết; hãy cứu sống những kẻđang liêu xiêu đến nơi tử hình!” (Châm ngôn 24:11)
Và tôi cảm nhận giống như Giê-rê-mi: “Lời của Chúa cháy trong lòng tôi giống như một ngọn lửa, bọc kín trong nội tâm tôi. Tôi đau đớn vì nín lặng không chịu được nữa.” (Giêrê-mi 20:8,9)
Vào một buổi tối, tôi thức dậy, và gánh nặng đó đè lên tôi, đến nỗi tôi không ở lại trên giường được. Tôi đừng dậy và nhẹ nhàng đi vào nhà vệ sinh, ởđó, tôi quì gối và khóc trước Đức Chúa Trời vì những phụ nữđáng thương này, là những người đang sống với tôi. Bằng giọng thì thầm, tôi kêu nài lên Đức Chúa Trời: “Chúa ơi, Ngài đã đến thế gian để cứu tội nhân. Con xin Ngài hãy để cho tất cả những phụ nữ bị tù ởđây kinh nghiệm được ân điển Ngài. Nếu không con thà chết thay vào chỗ những phụ nữ này còn hơn!”
Cô Sinh, cô Linh và tôi luôn luôn liên lạc với nhau, để trao đổi những tin tức và những nan đề cầu nguyện, và chúng tôi dạy dỗ và nhắc nhở tất cả những Cơ-đốc nhân hãy cầu nguyện cho sự truyền bá phúc âm trong trại cải tạo của chúng tôi. Chúa Giê-xu của chúng ta là thành tín và chính Ngài đem lại mùa gặt, hầu cho rất nhiều phụ nữở trong trại có thể được sinh ra vào trong gia đình Đức Chúa Trời.
6. Linh hồn con khao khát Chúa như con nai cái thèm khát khe nước (thi thiên 42:2)
Khi số lượng tín đồ trong trại gia tăng, thì nhu cầu Kinh thánh là vấn đề lớn nhất của chúng tôi. Vào một ngày kia, tôi thấy có một cô gái tin Chúa khóc sụt sịt trong lúc làm. Tôi dịu dàng hỏi cô có nổi khổ gì chăng, và câu trả lời của cô là: “Làm sao em có thể nhận biết được Chúa Giê-xu của em, nếu như em không có Kinh thánh?” Nhiều người cũng ở trong hoàn cảnh giống như cô, và tôi lo lắng cho tình trạng này. Nhất định những phụ nữ phải có Kinh thánh, để có thể trưởng thành trở nên những Cơ-đốc nhân và để chuẩn bị cho cuộc sống lúc được tự do, nhưng vẫn còn cấm không được phép giữ tài liệu Cơ-đốc. Tôi không còn biết làm gì khác hơn là cứ luôn luôn dâng trình sự thiếu thốn này lên cho Đức Chúa Trời.
Chúng tôi có hai cách để có Kinh thánh. Một cách đó là sao chép Kinh thánh. Nhưng chúng tôi có rất ít thời gian trống, trong khi đó con số những người tin Chúa luôn luôn gia tăng và như thế sẽ rất chậm để cho mỗi một nữ tín đồ có thể có dù chỉ một đoạn Kinh thánh. Nên chúng tôi đã bắt đầu bước một bước mạo hiểm, là dùng các con tôi. Chúng được phép thăm tôi một tháng một lần, và mặc dù đoạn đường xa xôi, nhưng chúng vẫn đến đều đặn. Trước khi chúng vào trại, chúng xé Kinh thánh thành nhiều phần nhỏ, và trong quá trình đến thăm, tìm cách tẩu tán cho tôi.
Điều đó làm tương đối đơn giản, bởi vì Đức Chúa Trời đã làm cho những nữ nhân viên không biết gì. Cứ mỗi lần các con tôi, sau một lúc đến thăm thì nói rằng: “mẹơi con phải đi ngoài…”. Người nữ nhân viên lúc đó luôn luôn cho phép tôi dắt con đi đến nhà vệ sinh. Khi chúng tôi vừa ởđó, nhìn xem xung quanh có ai theo dõi mình không. Những đứa trẻ bỏ những phần Kinh thánh vào quần trong của chúng rồi dùng băng keo dán lại dọc theo chân. Thà vậy chứ không nên giấu trong đồ ăn, vì những cán bộ luôn luôn kiểm tra những món quà. Cả quần áo trên của trẻ con bị kiểm tra và động vào. Nhưng cách này thì được. Một thời gian dài, hầu như chúng tôi đều cùng đi nhà vệ sinh, và vậy là lời Đức Chúa Trời dần dần đến được trong trại. Tôi thật vui dường nào khi có thểđem cho các chị em những phần Kinh thánh mỏng, và họ cảm động rơi nước mắt, nhận lãnh của báu đó với lòng đầy biết ơn.
Vào thời gian đó, những Cơ-đốc nhân chúng tôi luôn luôn thức dậy vào lúc năm giờ ba mươi sáng và vội vàng đi rửa mặt và mặc quần áo. Khi tiếng chuông báo thức vừa kêu lên và những cánh cửa ở sân trong khu nhà đã mở, thì tất cả chúng tôi nhanh chóng xuống tầng dưới ra ngoài trời, cùng quì gối cầu nguyện và ngợi khen Đức Chúa Trời, thờ phượng và dâng lên cho Ngài những nan đề của chúng tôi. Vào lúc sáng sớm này, những nữ nhân viên còn ngủ trên những chiếc giường êm ấm của họ và không chú ý đến chúng tôi, vì công việc họ đến bảy giờ mới bắt đầu. Và các nữ tù nhân đều mệt mỏi vì công việc tay chân nặng nhọc, nên họ dậy càng muộn càng tốt. Sự vinh hiển thuộc về Đức Chúa Trời! Ngài đã bố trí thời gian này đặc biệt cho chúng tôi. Vào mỗi ngày của những ngày kỳ diệu này, chúng tôi có một tiếng đồng hồ quí giá vào buổi sáng tinh mơ. Đó là một ơn phước cho chúng tôi. Vào mỗi buổi sáng chúng tôi kinh nghiệm sự gần gũi của Đức Chúa Trời, chúng tôi cầu nguyện khẩn thiết cho những nan đề chúng tôi và được tự do để chúc tụng Chúa và vui vẻ trong sự hiện diện của Ngài. Trong thời gian này, chúng tôi luôn luôn được Chúa làm cho mạnh mẽ và Ngài đầy dẫy chúng tôi bằng ánh sáng của Ngài một cách mới. Nếu trời càng lạnh, chúng tôi càng được tự do hơn. Hay nhất là nếu trời tuyết rơi dày. Thì chúng tôi quì gối xuống trên tuyết và có thể quên mọi sự canh chừng. Nếu chúng tôi cùng nhau thờ phượng Chúa, có một ngọn lửa cháy trong lòng chúng tôi, mạnh hơn bất kỳ sự băng giá bên ngoài nào.
Đó là vào năm 1983, Đức Chúa Trời đã nói với tôi là nhà tù chúng tôi sẽ trở nên như tầng trời thứ ba, là Thiên đàng, một nơi của sự vinh hiển Chúa. Cũng tình cờ mà khu trại nơi có phòng tôi và chỗ sân trong nằm trong tầm quan sát của vọng gác thứ ba. Và Chúa đã gọi khu vực thuộc vọng gác thứ ba là tầng trời thứ ba! Sau khi Đức Chúa Trời đã nói cho tôi điều đó, buổi sáng hôm sau, tôi đã chia xẽđiều đó cho những chị em trong giờ cầu nguyện buổi sáng, và chúng tôi vui mừng về sự hài hước của Đức Chúa Trời chúng ta. Tất cả chúng tôi đang quì gối cầu nguyện và ngợi khen Đức Chúa Trời, đều mặc một đồng phục giống nhau, nên chúng tôi có thể cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, giờ chúng con đều mang một y phục giống nhau và từ ‘tầng trời thứ ba’ chúng con cùng nhau ca ngợi danh Ngài.” Ha-lê-lu-gia! Chúng tôi thật có lý do để vui mừng và vui cười hớn hở.
Thời gian làm việc của chúng tôi trừ chủ nhật, kéo dài đến hai mươi hai giờ. Công việc hơn mười tiếng mỗi ngày, làm cho chúng tôi đến ranh giới của sức lực mình. Khi chúng tôi được trả về từ nhà máy lúc mười giờ tối, thì tất cả những phụ nữ nhanh chân chạy đến phòng tắm để tắm giặt và sau đó đi ăn. Những Cơ-đốc nhân không như thế. Tất cả chúng tôi đều trước hết chạy về phòng ngồi lại và sau đó có thời gian tĩnh nguyện, trong khi những phụ nữ khác không ởđó, có thể đọc Kinh thánh hay những sách Cơ-đốc khác. Chỉ khi những bạn tù cùng phòng về, thì chúng tôi mới nhanh chóng đi tắm giặt và ăn phần ít ỏi. Dẫu vậy, sau đó có những người trong chúng tôi còn thức để đọc Kinh thánh cho đến hai ba giờ sáng.
7. Hãy vững lòng bền chí,… vì Chúa, Đức Chúa Trời ngươi ở cùng ngươi (Giô-suê 1:9)
Hiển nhiên, Sa-tan không chịu để cho yên. Nó sẽ không chấp nhận điều đó mà không có sự chống cự nào, khi thấy những tù nhân được tự do ngợi khen Đức Chúa Trời và nói về Ngài, ngay trong một trại cải tạo có mục đích cải tạo những con người này thành những người vô thần. Và vì trong toàn nước Cơ-đốc giáo bị bắt bớ tàn khốc, chúng tôi cũng phải dự tính khả năng bịđàn áp. Những sự khám xét, hình phạt thân thể, còng tay, nhốt trong xà-lim không cửa sổ hàng tuần và những cuộc tra khảo đối với chúng tôi là bình thường, là những Cơ-đốc nhân, chúng tôi phải tính đến khả năng đó.
Có một đội lao động gồm có ba mươi tội nhân và bảy mươi Cơ-đốc nhân. Thậm chí, một nữ nhân viên là đảng viên tin Chúa Giê-xu. Thời khóa biểu thường ngày của những người tin Chúa Giê-xu giống như tôi đã nói ở trên. Vào mỗi tối lúc mười giờ, những nữ tín đồ đều chăm chỉ đọc lời Chúa. Nếu những tù nhân khác ăn xong trở về, thì họ vội giấu Kinh thánh trong tay áo. Nhưng tất nhiên, đó là một điều bí mật mà ai cũng biết điều họ làm mỗi tối. Nên chẳng bao lâu sau, có một bà bị án nặng tù lâu năm, đến gặp nữ nhân viên báo cáo về những hoạt động cấm của các Cơ-đốc nhân.
Nhưng người nữ nhân viên đó phản ứng rất lưỡng lự, khiến cho nữ tù nhân đó rất ngạc nhiên “Kìa, mấy người đó làm việc chăm chỉ, hòa nhã và vui vẻ với mọi người. Điều duy nhất chúng tôi có thể kiển trách họ là niềm tin của họ. Chúng tôi chống lại họ làm gì, họ có làm hại ai đâu?” Khi bà ta thấy người nữ nhân viên không làm gì chống lại những nữ tín đồ, thì bà lên thẳng phòng chủ tịch.
Không lâu sau, người trưởng trại cùng với nhiều nữ nhân viên đến thình lình phòng đó, để lục soát. Họ lục tìm kỹ lưỡng và thấy trong đống đồ đạc có nhiều Kinh thánh. Hai nữ tín đồ bị giải đi, một người bị đưa đến một phòng xà-lim ở tầng hầm, người kia lên tầng bốn ở phòng theo dõi. Cô gái trẻ vừa mới tin Chúa mấy ngày đây thôi, và những người trong chúng tôi thấy lo lắng, liệu cô có thể vượt qua thời gian khó khăn này không, vậy nên chúng tôi cầu nguyện cho cô. Nhưng chúng tôi thật vui mừng biết mấy khi vào một buổi sáng, tất cả chúng tôi đang nhóm cầu nguyện ở dưới sân, thì chúng tôi nhìn thấy cánh tay cô vẫy vẫy từ song sắt cửa sổ, và chúng tôi nghe thấy giọng cô vui mừng gọi: “Các chị em phải mạnh mẽ!”
Ha-lê-lu-gia, cảm tạ Chúa! Mặc dù cô gái bị hỏi cung nhiều lần, nhưng cô không khai gì. Những người cán bộ nhất định muốn biết cô lấy Kinh thánh ởđâu ra, nhưng câu trả lời đơn điệu của cô: “Tôi không biết.” Cô bịđánh đập tàn nhẫn và phải mang còng tay, nhưng cô đã giữ vững lập trường mình. Cuối cùng, sau khoảng hai hay ba mươi ngày gì đó thì cô được gọi ra khỏi phòng, và người trưởng trại nghiêm khắc cảnh cáo cô: “Cô còn rất trẻ, cô nên chấm dứt ngay việc tin vào ông ‘Giê-xu’ đó”.
Cô đứng thẳng trước ông và giải thích bằng sự quyết tâm mới: “Trước khi tôi bị bắt, tôi là người theo Chúa Giê-xu bí mật, sau khi tôi bị biệt giam, tất cả đều biết tôi là Cơ-đốc nhân. Cho nên kể từ bây giờ, tôi sẽ tin Chúa công khai và theo Ngài cho đến cuối cùng.”
Khi cô nói điều đó, không những cô chỉ nói với người trại trưởng, mà cô còn tuyên bố trước thế giới vô hình và hữu hình, trước thiên sứ Đức Chúa Trời và ma quỉ. Người trại trưởng chịu thua trước sự quyết tâm đó, ông lắc lắc đầu và thở dài, vì ông biết rằng không có biện pháp nào đủ mạnh để làm lay chuyển đức tin của cô gái này.
Người nữ tín đồ kia bị nhốt ở tầng hầm phải chịu đựng không khí ẩm lạnh. Đó là một thời kỳ gian khổ cho cô và cô phải chịu đựng nhiều. Trước khi cô được thả ra, những nữ nhân viên nói với nhau: “Chúng ta hãy thả nó thì hơn, những tín đồ tin Chúa Giê-xu này, người ta có thể nhốt cho họ chết, hay đánh đến chết, nhưng hoàn toàn không thể khiến họ chối bỏ niềm tin vào Chúa Giê-xu.” Trước tết ba ngày, cô được thả về với cuộc sống bình thường trong trại. Vào ngày sau ngày cô được thả ra, cô đã cùng hai chị em gặp nhau ở phòng tắm, đọc Kinh thánh ởđó. Họ cùng nhau đi ra hành lang để trở về phòng. Trong lúc đó, họ vẫn còn đang chìm sâu trong một bài thi thiên của Đa-vít và dừng lại trước cửa phòng tắm và đọc đi đọc lại. Có một phụ nữ nào đó chắc đã trông thấy ba người đó và đi báo cáo cho những nữ nhân viên. Vì thình lình, nhiều nữ nhân viên ở đằng sau họ mà họ không biết gì hết, và một trong những nữ nhân viên đã giật cuốn Kinh thánh khỏi tay người nữ tín đồ. Và cô lại bị giải đi tra khảo tiếp. Lần này, cô chỉ bị phạt tiền vì giữ và đọc Kinh thánh trái phép. Nhưng người nữ tín đồ không khiếp đảm, vẫn tự do sống với đức tin mình. Không lâu sau đó cô lại bị kêu lên, với lý do đã kể cho người cùng phòng về Chúa Giê-xu, đúng là có điều đó. Trên đường đến phòng hỏi cung, Đức Thánh Linh nhắc cô một câu Kinh thánh gửi cho con cái Chúa tại thành Cô-rinh-tô: “Vậy nên chúng ta chẳng ngã lòng, dù người bề ngoài hay hư nát, nhưng người bề trong cứ đổi mới càng ngày càng hơn. Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sinh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời vô lượng vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời vô cùng vậy.” (II Cô-rinh-tô 4:16-18)
Cho nên, cô rất được khích lệ và mạnh mẽ, khi cô cùng với lời này đi lên phòng tra khảo, mà lúc này cô đã quen rồi. Nhưng lần này, những nữ nhân viên đầy sự giận dữ về sự gan lì của cô, và không hỏi cô một lời nào, họ lột hết quần áo cô ra, những nữ nhân viên bắt đầu đánh đập và chà đạp cô, đến khi toàn thân thể cô đầy những vết tím bầm. Cô không chống lại và cũng không kêu la. Sau đó, cô bị trói và bịđánh tiếp tục bằng gậy và roi da. Cô bịđánh lâu đến nỗi toàn thân thể cô đầy thương tích và máu trào ra từ miệng và mũi. Cuối cùng, cô được đem lên phòng theo dõi, có một nữ tín đồđã ởđó. Trực tiếp ngay sau đó, có một buổi họp toàn thể để hạ nhục và tố cáo chống lại hai người này, nhằm mục đích bắt họ nhận tội và chối bỏ niềm tin. Trong lúc đó, khi tôi vừa nghe tin người chị em thân yêu bị bắt lần nữa, tôi đã chạy vào phòng vệ sinh và khóc với Chúa, và cầu nguyện cho cô, cầu xin Ngài ban cho cô sức mạnh và một đức tin không lay chuyển. Và Chúa Giê-xu của chúng ta đã ở cùng cô, hầu cho từ trong hoàn cảnh đau thương này, cô có thể trở thành người chiến thắng. Không có một hình phạt nào có thể tách cô khỏi đức tin vào Chúa Giê-xu. Ở trong sự phú thác vào Chúa Giê-xu, cô đắc thắng và mạnh hơn tất cả những gì con người tìm cách hại cô.
Đức Chúa Trời đã đặt trong chúng tôi sự khao khát đem những phụ nữ khác đến với niềm tin Cơ-đốc. Ngày qua ngày, chúng tôi nhận lãnh thật nhiều sức lực, niềm vui và sự an ủi bởi Đức Thánh Linh, và Ngài đầy dẫy chúng tôi bằng tình yêu sâu đậm đối với những người xung quanh mình, thì chúng tôi vui mừng vì mỗi cơ hội được kể về Chúa Giê-xu cho những người chưa biết Ngài. Một khả năng mà chúng tôi hàng ngày hay dùng, đó là tờ nhật báo, mà những nữ nhân viên cho chúng tôi đọc. Chúng tôi nhận những tờ báo theo tinh thần nghị quyết của đảng, để giáo dục chúng tôi, đó là một phần của sự cải tạo. Bởi vì, chúng tôi bị ngăn cách với thế giới bên ngoài, nên mỗi người đều hay đọc kỹ những tờ báo đó. Nhưng những nữ tín đồ chúng tôi đã phát huy một cách đọc riêng: Chúng tôi tìm những trang nào có bài viết phù hợp với lời Kinh thánh, nói về sự tận thế. Nếu chúng tôi tìm thấy những bài nói về động đất, nhắc nhở trước bịnh SIDA, những bài nói về nạn đói, chiến tranh và thiên tai, thì chúng tôi chỉ cho các phụ nữ những chỗđó và sử dụng cơ hội đó để nói về Chúa Giê-xu. Tôi còn nhớ một chuyện: Vào năm 1986, tôi thấy có một bài viết tựa đề: “Bốn mối nguy hiểm đe dọa sự tồn tại của loài người.” Tôi đọc bài đó to lên, và tất cả những người ngồi nghe thấy sợ hãi. Trong cuộc nói chuyện tiếp theo, những phụ nữđó đã nói lên sự sợ hãi và lo lắng mình, tôi đã có dịp nói cho họ rằng Chúa Giê-xu là câu trả lời thực tiễn cho câu hỏi của họ, rằng Ngài là sự sống và Ngài ban cho sự nương náu và an toàn mạnh hơn cả sự chết.
Trước khi Ngài rời khỏi trái đất, Chúa Giê-xu có nói cho các môn đồ rằng: “Hãy đi khắp thế gian và giảng tin lành cho mọi tạo vật! Và những ai tin sẽ có những dấu lạ này kèm theo: đặt tay trên người bệnh, thì người bệnh sẽđược lành.” (Mác 16:15-18)
Thực tế lý do tại sao đức tin vào Chúa Giê-xu lại có thể lan tràn nhanh chóng trong trại cải tạo này, là vì Ngài đã ban quyền phép để qua đó dấu lạ xảy ra cho chúng ta, nhưđoạn Kinh thánh này nói.
Điển hình có một phụ nữđã lớn tuổi bị án hơn mười năm tù. Một thời gian sau khi bị tù, bà bị quỉ ám, cách cư xử của bà đặc biệt hung dữ và khiêu khích. Có một lần, chúng tôi đang làm việc trong công xưởng, bà đã chồm dậy, cầm cây kéo trong tay và la hét, mặt biến sắc, bà nói rằng sẽ giết hết mọi người và phá hủy toàn bộ máy móc. Những nữ công nhân khác bỏ chạy thật nhanh khỏi nhà máy, vì hốt hoảng nên họ dày đạp lên nhau, trong khi bà bị quỉ ám cầm cây kéo giơ lên tìm cách đâm họ. Tôi lúc đó đang làm việc ở một xưởng bên cạnh, nhưng một con cái Chúa đã đến chỗ tôi và nói tôi có thể làm gì đó để cho bà kia trở lại bình thường. Tôi chạy ngay đến chỗ xưởng đó, bây giờđã trống trơn, bà kia vẫn cứ lồng lộn, không chú ý đến tôi. Khi bà vừa trông thấy tôi, bà đã muốn nhảy xổ vào tôi. Tôi đứng bình tĩnh ở cửa ra vào, nhìn thẳng vào bà và truyền lệnh trong danh Chúa Giê-xu: “Hãy bỏ cái kéo ra khỏi tay!” Bà ta lập tức thay đổi, bà tỏ một thái độ hoàn toàn qui phục và không nói lời nào làm theo liền. Sau đó, tôi ra lệnh cho bà trong danh Chúa Giê-xu ngồi xuống và bà làm tại chỗ. Sau đó, tôi bắt đầu cầu nguyện cho bà, và sau khi tôi đã cầu nguyện cho bà ba lần, tà linh phải rời khỏi bà và trước mặt tôi là một con người mới được thay đổi.
Những phép lạ giải cứu như vậy xảy ra hằng ngày, như phép lạ chữa lành thân thể. Qua đó, danh Chúa Giê-xu được đồn ra, quyền phép và sự nhân từ Đức Chúa Trời chứng tỏ mạnh hơn tất cả những gì mà các phụ nữđã chứng kiến trước đó. Nên họ không thấy khó khăn để tin Ngài, ngay cả trước đó, họ chưa từng nghe nói về Ngài. Tuy nhiên, sự vận hành siêu nhiên của Đức Thánh Linh mới là một lý do để những phụ nữ này quan tâm đên Đức Chúa Trời. Lý do khác là họ nhìn thấy và cảm nhận trong chúng tôi những nữ tín đồ có cái gì đó hấp dẫn họ. Những phụ nữ này, khi đến trại là những tội phạm, sau khi họ vừa mở lòng cho Đức Chúa Trời, họ được đầy dẫy bằng tình yêu và niềm vui khiến cho những phụ nữ khác cũng phải ghen tị với họ. Toàn bộ đời sống của họ là một sự phô bày duy nhất cho Đức Chúa Trời, ánh sáng Chúa Giê-xu chiếu sáng từ trong họ, trong mọi lãnh vực, chỗ làm cũng như trong cách xã giao và trong mọi hành vi thái độ của họ.
Có một nữ tín đồ trẻ làm việc ở xưởng thêu. Mỗi ngày cô thêu hai mươi bao gối trong mười tiếng đồng hồ, một năng suất không phụ nữ nào sánh kịp. Trong khi cô làm việc, cô ca hát khe khẽ và đọc những câu Kinh thánh mà cô đã thuộc. Không những cô hoàn thành chỉ tiêu hàng ngày, mà còn đều đặn vượt định mức bảy tám cái. Hơn nữa, chất lượng công việc cô được đánh giá xuất sắc. Cô được kể vào trong số ba nữ công nhân giỏi nhất toàn trại, cả ba đều là những tín đồ. Thậm chí, những nhân viên đốc công và đảng bộ không biết làm gì hơn là khen ngợi và thán phục về thành tích vượt định mức của họ.
Một hôm, cô bị bà đội trưởng gọi lên nói với cô bằng một thái độ công nhận “Tôi thấy cô hay hát nhỏ lúc làm việc và hàng thêu của cô lại xuất sắc, cô làm việc nhanh hơn và tốt hơn mọi người khác. Rất có thể là Đức Chúa Trời của cô đã giúp cô chăng?” Trong lòng hết sức cảm tạ Chúa, cô gái chỉ mỉm cười khiêm tốn.
Còn tôi, tôi chưa bao giờ khéo léo về những việc làm chân tay. Nhưng tất nhiên Đức Chúa Trời cũng biết điều đó và Ngài đã thay đổi tôi, hầu cho tôi có thể đạt năng suất rất khá. Quả là Đức Chúa Trời đã làm một phép lạ, vì mặc dù trước kia tôi chưa hề may vá bao giờ, nhưng bây giờ tôi là nữ công nhân nhanh và tốt nhất trong toàn tổ của tôi. Nhiệm vụ của tôi là may những đường viền của áo com-lê nam. Định mức tôi phải may là ba mươi đường viền như vậy mỗi ngày, nhưng tôi vượt quá nhiều so với định mức. Hơn nữa, những đường viền tôi may chắc chắn và thẳng hàng, làm cho những nhân viên đốc công tôi rất hài lòng.
Một lần, tôi phải phụ giúp công việc khác vài ngày liền. Trong lúc đó, có một phụ nữ làm thay công việc tôi. Trong ba ngày, cô chỉ hoàn thành được hai mươi chín đường may, và cô làm rất cẩu thả. Tất cả những đường may mà cô đã đánh viền, bị trả lại vì thiếu chất lượng, làm cho người quản đốc rất bực tức. Ông hỏi tôi có muốn sửa lại không? Đó là một công việc khó khăn mà không ai thích làm, vì trước hết tôi phải tháo hết những đường may cũ, sau đó, tôi phải là lại tất cả những nếp cho thẳng lại và gấp lại lần thứ hai, trước khi tôi có thể may lại. Tôi không hào hứng lắm với công việc phức tạp đang chờ đợi mình, nhưng tôi cũng đồng ý nhận công việc, vì điều quan trọng là tôi làm việc cho Chúa Giê-xu. Tôi muốn làm điều khiến cho Ngài vui. Vào ngày tôi phải sửa lại những đường may, tôi đã kiêng ăn và cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ mình, kết quả là không những hôm đó tôi sửa xong cả hai mươi chín cái cẩn thận, mà còn làm thêm phần định mức qui định hằng ngày. Bà quản lý tôi rất thích thú và khen tôi hết lời “Chỉ có cô Trân tin Chúa của chúng ta mới làm được vậy thôi!” Ha-lê-lu-gia tôn vinh Chúa vì điều đó.
Một câu chuyện lý thú khác của chị Linh. Nhiệm vụ của chị là coi giữ kho vải. Chị phải lên sổ sách và định lượng các loại vải và cắt đo chúng. Những người cùng làm việc với chị chưa tin Chúa thường xuyên ỷ lại công việc cho chị. “Có người làm rồi, chúng ta cứ ngồi chơi xơi nước”. Họ thường nói với nhau như vậy. Và chị Linh không phải là người hay so bì, chịđã làm mọi việc phải làm. Ngay cả khi chịđã mệt nhoài thân thể rã rời và đôi chân sưng vù, nhưng chị không chịu gác lại công việc mà nghỉ ngơi một chút.
Chị Linh cứ phải luôn luôn khiêng những cuộn vải mà thông thường cần hai người khiêng. Nhưng chị lăn những bó vải lên vai và chuyển vào kho. Mỗi sáng, trước khi bắt đầu làm việc, chị kiêng ăn và cầu nguyện xin Đức Chúa Trời ban sức lực cho mình ngày hôm nay, và chị vui hưởng thời gian tương giao với Chúa. Những thước vải chị cắt đo thường đúng từng phân một, những người quản lý tin cậy chị hoàn toàn và giao cho chị những thườc vải lớn. Họ hay nói: “Tất cả những gì cô Linh động tay vào đều thành công mỹ mãn, và trong mọi việc cô làm không sơ suất, sơ suất duy nhất của cô là cô đã tin Đức Chúa Trời!”
Một vài thời gian sau, chị được đem ra làm việc ở ngoài kho, và những phụ nữ khác phải làm công việc thay chị. Nhưng những nữ công nhân khác làm rất chậm chạp và phạm rất nhiều so suất. Lúc đo và cắt, những loại vải khác nhau thường hay bị thiếu hụt một khúc, làm cho những nữ đốc công rất bực mình. Một hôm, một nữ nhân viên mất hết cả bình tĩnh và quát tháo những nữ công nhân mới “Chúng mày không thể làm đàng hoàng được à, đồ ngu kia! Hồi con Linh nó còn ởđây không xảy ra vấn đề gì, chúng mày thì hôm nào cũng vãi ra, thật không thể được! Chúng mày không một lần nào làm đúng cả”. Kết quả là chị Linh lại được đưa vào chỗ làm cũ. Chị làm ởđó cho đến khi được thả tự do.
Trong khi cuộc phấn hưng lan tràn đến những nữ tù nhân, thì kẻ thù là ma quỉ tìm mọi cách để phá hoại công việc Đức Chúa Trời. Nó lồng lộn bắn một mũi tên lửa vào những tín đồ, mạnh hơn tất cả những lần tấn công trước. Vào một buổi sáng, người đội trưởng sản xuất cử chị Linh sang một phòng sản xuất khác để giúp việc kiểm kê ởđó trong vòng hai ngày. Vào ngày hôm sau, lúc giữa trưa, bỗng nhiên kho hàng bị bốc cháy. Những cột khói đen bốc lên từ cửa sổ, bầu không khí đầy những tiếng nổ lách tách của lửa, một sức nóng khủng khiếp bốc ra từ căn nhà bị cháy, và một đám mây đen kịt đã chẳng mấy chốc bao trùm chúng tôi, che cả ánh mặt trời. Vì cả trại đầy ắp vải, loại hàng dễ cháy, ngọn lửa lan tràn nhanh chóng, trong giấy lát, khói lửa đã ùn ùn kéo ra từ các cửa sổ.
Sau đó, tiếng còi cứu hỏa báo động. Hầu hết những phụ nữđã đứng trong sân và nhìn xem cảnh rùng rợn đó. Ở khu nhà của những người lãnh đạo và những nữ nhân viên sống có một cánh cửa sổ mở. Dường như có nhiều người đang cãi nhau dữ dội. Sau đó, một ông cán bộ có trách nhiệm chồm ra ngoài cửa sổ và hướng về những tù nhân trong sân, giọng ông run lên vì hoảng hốt “trong kho là những vải vóc và hàng hóa, đáng giá nửa triệu đô-la. Nếu có một tù nhân nào đủ can đảm dập lửa, thì người đó sẽ được thưởng đặc biệt, chúng tôi sẽ rút ngắn hình phạt và trọng thưởng cho người đó!” Lúc đó, cánh cửa song sắt của nhà kho đã bị nung đỏ và tỏa ra một sức nóng khủng khiếp. Không ai muốn liều thân mà đến gần đó. Nhưng có vài phụ nữđã bắt đầu bẩy cánh cửa bằng một cây đòn dài, và cũng bẩy ra được. Đa số đứng đàng xa quan sát cảnh diễn ra, nhưng vài phụ nữ, bị kích động bởi lời hứa giảm án tù, đã xông vào giữa cảnh hỏa hoạn. Họ biến mất trong cuộn khói đen kịt dày đặc. Chúng tôi hãi hùng vì ngọn lửa đã táp ngay vào chỗ những phụ nữ kia vừa mới chạy vào. Họ chỉđi xa được vài bước và bị ngất xỉu vì ngạt thở.
Cuối cùng, nhiều xe cứu hỏa đã đến, đội cứu hỏa làm điều họ có thể làm được. Nhưng khi những người phòng cháy chữa cháy dập tắt ngọn lửa, thì nhà kho đã bị cháy trụi chỉ còn trơ lại mấy bức tường và nền nhà. Mười phụ nữ chạy vào căn nhà cháy đó đã được khiêng ra, và xe cứu thương chở vào bệnh viện. Họ bị bất tỉnh và tình trạng của họ rất nguy kịch.
Ít ngày sau vụ cháy đó, có vài người trước đây hay tìm cách gây khó khăn cho những Cơđốc nhân, đã lên gặp ban quản lý trại. Họ nói với công an an ninh và những cán bộ đảng là cô Linh cùng với một số con cái Chúa khác đã châm lửa. Những người có trách nhiệm tức nhiên đang muốn tìm bắt thủ phạm gây nên vụ hỏa hoạn, đã lập tức bắt chị Linh và những người khác đem lên phòng hỏi cung. Những nữ tín đồ với một lương tâm trong sạch, bước ra không hề sợ hãi và hùng hồn, và sự cương trực của họ ghi rõ trên nét mặt. Khi họ bị lần lượt gọi vào để trả lời những câu hỏi, họ tin tưởng vào sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, rằng Ngài sẽ ban cho họ câu trả lời hợp lý. Người nữ đốc công được lệnh đem chị Linh lên đã tuyên bố một lời nhận định, làm một gánh nặng được cất khỏi cho chị “Cô này vô tội. Khi lửa cháy cô làm việc ở một căn nhà khác.”
Vào cuối buổi tra khảo, viên sĩ quan chỉ huy chịu trách nhiệm của bên công an an ninh tuyên bố “Vụ cháy này không liên quan gì với những Cơ-đốc nhân”. Bây giờ, những phụ nữđã có ý định độc ác bịđem lên phòng biệt giam. Đó là một điều lý thú vì ban quản lý trại dã trừng phạt những kẻ kiện cáo những Cơ-đốc nhân. Và tin tức này đã đồn nhanh chóng như cơn gió, đến tất cả các phòng. Thật vui mừng, đức tin của những chị em nhờ đó được củng cố mạnh thêm, bây giờ, thì mọi người thấy rõ ràng Đức Thánh Linh là Đấng biện hộđáng tin cậy. Vào buổi sáng hôm sau, chúng tôi cũng đang nhóm cầu nguyện trong sân, tôn vinh và cảm tạ Chúa vì sự gìn giữ kỳ diệu của Ngài, nhiều người đã khóc vì vui sướng. Đòn tấn công của ma quỉ có tác dụng như dầu đổ vào cho ngọn lửa phấn hưng, và ánh sáng của tin mừng về Chúa Giê-xu, sau biến cố này càng cháy sáng hơn bao giờ hết. Sự vận hành của Đức Thánh Linh càng mạnh mẽ hơn, và càng ngày càng có nhiều chị em trở lại tiếp nhận Giê-xu làm Chúa và Đấng cứu chuộc mình.
Trong mỗi phòng, những nữ tín đồ có ấn tượng tốt qua việc họ chấp hành trọn vẹn nội qui trại trong mọi lĩnh vực. Dù cho họ bị theo dõi hay không, họ sống hết mình cho Đức Chúa Trời, từ lời ăn tiếng nói, đến phong cách, tính nết và đạo đức lao động, toàn bộ đời sống họ được đánh dấu bằng sự vâng phục, tuân hành, tình yêu và chăm chỉ. Điều đó không lọt qua mắt những nữ nhân viên. Cô kia vừa mới đó còn là một kẻ tội phạm, bây giờ mở lòng ra cho Chúa Giê-xu và năng quyền chữa lành của Ngài, thì sự thay đổi xảy ra mỗi lần như vậy quá rõ ràng và thú vị. Họđã khác xa một trời một vực so với những phụ nữ khác, sống không có Đức Chúa Trời, nên ban quản lý trại không làm gì khác hơn là công nhận rằng, những nữ tín đồ dễ bảo hơn nhiều.
8. Dòng dõi người công bình sẽ được cứu khỏi (Châm ngôn 11:21)
Vào thời gian đầu bị bắt, tôi phải bỏ lại ba đứa con mình. Đứa gái lớn mười bốn tuổi. Nó thường hay đau ốm. Từ lúc sanh ra, tôi đã đặc biệt chăm lo cho nó nhiều. Đứa út tôi mới sáu tuổi, khi tôi phải để chúng lại. Vì ba đứa đã phải mất cha sớm, nên tôi rất đau lòng, khi phải rời bỏ chúng. Thêm vào đó, là trong thời gian không những mình tôi mà cả Hội thánh đều bị bắt giam. Cho nên, hậu quả xảy ra là không có ai lo cho những đứa con tôi. Chúng hoàn toàn phải tự lo lấy, ở nhà một mình, và thường chúng không biết sẽăn gì. Sau này, chúng kể lại cho tôi là hầu như mỗi ngày chúng đều ra đồng tìm rau cỏ dại, rồi ăn chung với bánh bao. Chúng dùng khoai lang mót được nghiền bột và nấu độn với bánh bao.
Chiều chiều, khi con tôi từ trường trở về, không có ai ở nhà và không có sẵn thức ăn, chúng mang một cái cuốc hay cái xẻng nhỏ và rủ nhau đi nhặt cái gì đó ăn được. Chúng thường tìm ở những ruộng khoai đã thu hoạch và nhặt được những củ khoai nhỏ xíu bằng con sâu người ta bỏ lại. Đứa chị dùng cuốc chim đào, trong khi hai đứa nhỏ bò theo đằng sau và dùng tay bới dưới đất xem có củ khoai nào còn lẫn trong đất không. Chúng làm vậy cho đến khi mồ hôi đổ ướt đầm, thở hổn hển và mệt nhoài, và hầu như những thứ nhặt được không đủ no cho cả ba. Nếu chúng gặp được đám ruộng tốt và có thể nhặt được một giỏđầy thì vui mừng về của quí đó.
Con gái tôi hay gặp khó khăn với những bạn cùng lớp, thường bị chúng chế nhạo. Bạn bè gọi nó là ‘đứa con hoang không bố mẹ; con của phường trộm cướp’. Đêm đêm, các con yêu dấu của tôi kêu khóc trong giấc ngủ, tất cả chúng đều ngủ một giường, gác lên nhau để khỏi cho sự sợ hãi chổi dậy. Chúng sống như những đứa trẻ mồ côi cha mẹ, những giấc ngủ của chúng đầy những cơn ác mộng.
Nhưng Đức Chúa Trời không quên các con tôi, vì Ngài đã hứa trong lời Ngài “Trong sự kính sợ Đức Giê-hô-va có nơi nương cậy vững chắc; và con cái Ngài sẽ được một nơi ẩn núp (Châm ngôn 14:26)
Tình trạng kéo dài không lâu, sau đó, Đức Chúa Trời ban cho các con tôi một lối thoát: Một nữ tín đồ đã nhận ba con tôi về nhà nuôi, chị là vợ anh Vũ. Anh cũng bị bắt vì cớ đức tin và bị kết án bảy năm tù. Vợ anh có ba con, đứa lớn tám tuổi, hai đứa sinh đôi hai tuổi. Ngoài ra, cô phải chăm sóc bố mẹ chồng. Một hôm, Đức Thánh Linh đã thúc giục lòng cô Vũ đến thăm các con tôi. Nhà chúng tôi cách nhau khoảng một cây số rưỡi. Khi cô vừa đến nhà, thấy mấy đứa con tôi đang ăn, lần này chúng lại nhặt ởđâu những thứ rau cỏ xanh ăn được. Trên bàn là một nồi nhỏ đựng những bữa ăn của chúng, và chúng can đảm ăn hết đĩa mình mà không kêu ca gì, và chúng không quên cảm tạ Đức Chúa Trời cho đồ ăn. Khi cô Vũ trông thấy cảnh đó, lòng dạ cô xót xa, đến nỗi cô đã thuyết phục được những con tôi đến nhà cô. Từ lúc đó, không những cô phải thiếu vắng chồng mà cô còn phải lo cho ba đứa trẻ khác nữa.
Nếu những con tôi đi học về, chúng đi thẳng ra đồng tìm cô Vũ. Sau đó, chúng cùng về nhà cô và cô dạy chúng những công việc nội trợ trong nhà. Mặc dù việc đồng áng rất nặng nhọc, chịđã đảm nhận cả việc bếp núc, giặt quần áo và may vá, dọn dẹp nhà cửa, và tất cả những việc lớn nhỏ của những đứa trẻ. Nhưng người chị em yêu dấu và tuyệt vời của chúng tôi luôn luôn vui vẻ và hay chuyện trò. Chị thật sự đầy dẫy sự nhân hậu, sự trung thực và tình yêu Đức Chúa Trời.
Thường khi các con tôi gặp khó khăn và rất tuyệt vọng, chúng khóc “con muốn mẹ về nhà!” Trong những hoàn cảnh như vậy, chị Vũ khóc với chúng, nhiều đêm chịđã bồng đứa út tôi trong tay và ru nó cho đến khi nó ngủ. Vào những ngày chủ nhật và những ngày lễ, nếu những đứa trẻ khác đi chơi với bố mẹ, đi nghỉ mát, và tận hưởng tình yêu và mái ấm của gia đình chúng, thì chị Vũđã bế con mình lại cho bố mẹ chồng mà đến chăm sóc các con tôi. Chị Vũđã càng ngày khỏa lấp sự thiếu vắng cho các con tôi như một người mẹ thứ hai.
Vào một buổi tối mùa thu, sau khi đã làm xong công việc đồng áng, chị Vũ đến thăm những con tôi, hôm nay không thấy chúng ra chỗ chị làm. Khi các con tôi thấy chị đến gần, chúng không muốn cho chị vào. Tất cả chúng vội vàng giấu đồ ăn vừa nấu xuống bếp. Trông thấy hành động không bình thường của chúng, chịđã đẩy chúng ra và mở cửa vào bếp. Điều chị nhìn thấy lúc giở vung nồi làm chị rất lo buồn: vì đói và không có ai chỉ bảo, những đứa trẻđã thử nấu gạo thô, nhưng gạo này không chín sau khi nấu và rất khó tiêu. Nhưng những con tôi phải lăn lộn với cuộc sống không có bố mẹ, muốn giấu những khó khăn của chúng, không muốn làm gánh nặng cho ai.
Nước mắt dàn dụa, chịđã ôm những đứa trẻđang xấu hổ vào lòng, rồi tất cả cùng khóc. Chịđã quì gối xuống Đức Chúa Trời và bắt đầu kêu cầu Ngài. Chị xin Đức Chúa Trời hãy đổ sự thương xót và phước lành Ngài lên cho ba con tôi. Vào sáng hôm sau, chị lại đến thăm những con tôi. Bây giờ chịđem theo một túi bột đầy và chỉ cho chúng nấu ăn ra sao.
Không tuyệt diệu sao, khi thấy Đức Chúa Trời đã săn sóc cho các con tôi và tôi như thế nào, hầu cho tôi có thể cống hiến cho sự phục vụ Chúa trong nhà tù không bị cản trở. Tôi đã có thể phú thác các con tôi hoàn toàn lên cho Đức Chúa Trời, và chị Vũ gánh trách nhiệm đối với chúng, chứng tỏ rằng điều tôi đã tin và hy vọng là đúng, rằng Đức Chúa Trời là người Cha và Đấng săn sóc chúng ta. Tôi vốn là một người nặng tình cảm hay lo lắng, nếu tôi phải lo cho các con tôi, thì chắc không chịu nổi sự chia ly này, chắc tôi sẽ không có đủ sức lực để phục vụ những tù nhân khác. Nhưng sự bảo vệ và ân điển kỳ diệu của Đức Chúa Trời đã bao phủ chúng tôi. Tất nhiên tôi đã viết cho các con tôi rất nhiều thư. Vì không được phép viết công khai về Chúa, tôi đã phải phát triển những câu và cách nói và cầu nguyện để các con tôi có thể hiểu điều tôi muốn nói là gì. Ví dụ, tôi muốn lần đến thăm sau chúng đem theo vài cuốn Kinh thánh, thì tôi đã viết: “Hãy đem cho mẹ vài cuốn sách mẹ hay đọc.” Nếu tôi muốn nhắc nhở các con tôi chuyên cần đọc Kinh thánh và nghe lời Đức Chúa Trời, thì tôi thường viết “Hãy chăm đọc những sách tốt và chú ý nghe lời cha con là Đa-vít dạy bảo.” Đức Chúa Trời ban cho các con tôi nhiều sự nhạy cảm hầu cho chúng có thể hiểu được khi đọc được những lá thư của tôi.
Chúng cũng viết cho tôi nhiều thư, bao giờ cũng đầy sự an ủi và động viên. Tôi có thể đọc được những hàng chữđiều chúng muốn nói. Như trên tôi đã nói, trong thời gian ở trại cải tạo, có một thời gian tôi bị một nữ tù nhân cùng phòng hành hạ, làm những sự phiền nhiễu khi tôi cầu nguyện, cho đến khi tôi xin chuyển phòng. Trong thời gian đó, tôi rất tuyệt vọng và thấy như Đức Chúa Trời không nhậm lời cầu nguyện của tôi, và như là tình yêu của tôi với chị kia bị dội ngược trở lại. Lúc đó, tôi cũng giống như Phao-lô đã có lần viết: “Vả hỡi anh em, chúng tôi không muốn để anh em chẳng biết sự khốn nạn đã xảy đến cho chúng tôi trong xứ A-si, và chúng tôi đã bịđè nén quá chừng, đến nỗi mất lòng hi vọng giữ sự sống.” (II Cô-rinh-tô 1:8) Lúc đó, tôi cảm thấy thật yếu đuối, nên đã cầu xin Chúa cho tôi chết. Tôi không thể chịu đựng nỗi cuộc sống nữa. Nhưng sau đó, Đức Thánh Linh đã an ủi tôi bởi lời Đức Chúa Trời. Ngài đã dùng các con tôi để làm tôi mạnh mẽ qua các lá thư của chúng. Những lá thư này đã góp phần rất nhiều để tôi không đánh mất sự tin cậy và niềm vui nơi Ngài trong thời gian thử thách này. Một trong những lá thư, trong những ngày đó tôi muốn đưa ra đây:
“Mẹ yêu quí, mẹ có khỏe không? Chúng con đã đọc thư mẹ, và sau khi chúng con đã đọc, chúng con có thể hình dung chính xác hơn về cuộc sống ở trong trại cải tạo. Bây giờ, chúng con vẫn khỏe mạnh. Khi chúng con đọc thư mẹ, thì gần như là mẹ nói với chúng con vậy. Vì vậy, giờđây ba chúng con không còn lo lắng gì cho mẹ nữa. Mẹơi, chúng con vẫn khỏe và vẫn làm theo những gì mẹđã viết cho chúng con. Chúng con đoàn kết với nhau, yêu thương nhau. Các bác và các cô đã đến để giúp chúng con, cả ông giám đốc nhà máy cũng đến thăm chúng con đều đặn.
Mẹơi, xin mẹ hãy chú ý những lời mẹ nhận từ bên trên và hãy làm theo. Mẹ hãy cố gắng làm việc, hãy động viên chính mình và trở thành một con người được thay đổi. Trước tiên mẹ phải yêu thương tất cả mọi người mẹ gặp, và luôn luôn tìm cách làm hài lòng cấp trên. Xin hãy nhanh trở về nhà, để tất cả chúng ta được ở cùng nhau. Mẹơi, hãy vui mừng luôn luôn, đừng buồn rầu và đừng lo lắng về những việc của gia đình.
Con Trai mười lăm tuổi của mẹ”
(Những câu viết nghiêng có ẩn chứa nội dung Kinh thánh)
Khi tôi đọc lá thư này, tôi tràn ngập sự vui mừng, cảm tạ, đến nỗi tôi không thể kiềm chế được, quên cả người bạn cùng phòng mà quì gối xuống cảm tạ Chúa.
“Chúa ơi, từ những môi miệng trẻ thơ mà quyền năng Ngài được rao truyền. Qua lời những con trẻ mà Ngài đã nhắc nhở con, động viên và an ủi con. Con cảm thấy được mạnh mẽ trở lại. Tình yêu Ngài đối với các con con và đối với con thật lớn lao thay! Ân điển Ngài đối với chúng con thật vĩ đại, dù cho con có bị thịt nát xương tan vì cớ đức tin, thì con cũng không bao giờ có thể đền đáp được, dù chỉ là một chút rất nhỏ!” Cả các nữ nhân viên và chi bộđảng đã đọc lá thư này, tất cả thư từ gửi cho tù nhân đều bịđọc trước, bị kiểm duyệt hoặc bị tịch thu, trước khi đến tay người nhận. Lá thư này làm cho bộ phận kiểm duyệt đặc biệt chú ý, vì tính tích cực của nó, vì đối với họ, có gì đẹp hơn là một tù nhân được gia đình đề nghị hãy tuân phục và sẵn sàng chịu cải tạo. Lá thư được lọc ra, trong số những lá thư chung và là một bài mẫu điển hình, nó được chép lại, và những câu Kinh thánh trưng dẫn đã được gạch dưới bằng bút đỏ đậm, nổi bật lên. Tất cả được treo trên tấm bảng lớn, cho tất cả những tù nhân thường xuyên đi qua đọc thấy, lá thư được đề tựa: “Xin các bạn hãy đọc một lá thư của một đứa con trai mười lăm tuổi gửi cho mẹ nó.” Không nghi ngờ gì là những người có trách nhiệm hoàn toàn đồng ý với từng câu từng chữ trong thư.
Lá thư đó gây nhiều sự xôn xao trong vòng những nữ tù nhân, và lúc đầu mọi người chen lấn trước tấm bảng thông báo, vì mọi người đều muốn đọc nó. Những nữ tín đồ đọc những lời lẽ trong thư rất xúc động, họ cũng giống như tôi, đặc biệt là họ nhận ra những đoạn trích dẫn từ Kinh thánh và họ cũng được khích lệ và thêm sức giống như tôi. Đức Chúa Trời của chúng ta không hài hước sao? Thậm chí Ngài đã dùng những nữ nhân viên để gạch dưới Lời Ngài! Vài ngày sau, thì tôi lại bịđem xuống xà-lim, đó là nơi thông với hệ thống nước thải. Thật tuyệt, trước đó tôi đã nhận được sự an ủi! Đức Chúa Trời là Đấng săn sóc tôi, đã nghĩ ra điều đó cho tôi. Lá thư này giống như than hồng vào mùa đông, như giọt sương rơi đúng lúc.
Vào một buổi chiều trời quang đãng, sau đó ít hôm, trong khi làm việc, tôi đứng ở một cửa sổ song sắt và có linh cảm rằng, hôm nay tôi còn nhận một tin tốt lành nữa. Một ngọn gió xuân thổi nhẹ trên những bông hoa đầu mùa, báo hiệu mùa đông chấm dứt. Những bông hoa nhỏ cúi xuống trong gió, dường như chúng muốn nghiêng mình chào mừng nhân loại. Mặt trời với những ngón tay vàng của mình như muốn chạm vào thiên nhiên đang tỉnh giấc, và những cành cây còn khô cứng hòa vang lên bằng những tiếng lạch cạch vui vẻ. Tôi tận hưởng tất cả những vẻ đẹp đó và vui sướng thấy Cha thiên thượng của mình đã sáng tạo muôn vật thật là tuyệt vời thay, lúc đó tôi thình lình bị kéo ra khỏi giấc mơ: “Xin cô hãy đi cho, các con cô đến thăm cô!” Tiếng của một nữ nhân viên thúc giục tôi. Ngay lập tức, tôi gác tất cả lại và vội đi theo người nữ nhân viên dẫn tôi đến phòng thăm. Em trai tôi và ba đứa con đã chờ đợi tôi. Đứa út vừa trông thấy tôi là chạy ôm chầm lấy tôi, trong khi tôi bế nó lên, và nó bắt đầu khóc nức nở bên cổ tôi. Hai đứa kia đứng sát cạnh tôi, một đứa bên phải, một đứa bên trái, và trong khi chúng ngước nhìn tôi và tìm cách đọc những điều trên gương mặt tôi, chúng luôn luôn cắn chặt môi lại để đừng khóc. Tôi không khỏe sao? Tôi đã bị xuống cân? Rất nhiều câu hỏi chúng đổ dồn vào tôi qua ánh mắt, vì trong lúc có mặt những nữ nhân viên không được phép nói ra.
Chính tôi cũng phải đấu tranh để không khóc cũng như hai đứa lớn, tôi không muốn khóc trước chúng để chúng khỏi bị buồn rầu hơn. Trong tâm trí, lúc nào tôi cũng cầu nguyện Chúa ban cho tôi sức lực cần thiết, để có thể tận hưởng thời gian này được với các con tôi. Trong những năm tháng gian khổ, tôi vẫn còn là một người, như người ta hay nói là giàu tình cảm. Tôi không bao giờ tìm cách trở nên cứng cỏi, ngược lại, tràn đầy một tình mẫu tử. Tôi ước ao làm sao được cùng chung với các con để chăm sóc, dạy dỗ và hướng dẫn chúng đến khi chúng khôn lớn. Nhưng dẫu sự ước ao đó có mạnh đến đâu, thì bước theo con đường Đức Chúa Trời đã định cho tôi là quan trọng hơn tất cả. Tôi muốn nghe lời Đức Thánh Linh hơn bất kỳđiều nào khác và ở cùng với Ngài. Chính Chúa Giê-xu đã nói “Ai yêu con trai hay con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta” (Ma-thi-ơ 10:37). Từ bỏ sự phục vụ những tù nhân mà Đức Chúa Trời đã ban cho tôi ở đây để ở cùng với các con tôi, là điều không thể được đối với tôi. Ởđây, trong trại này, tôi có những đứa con cần có tôi hơn là những đứa ở nhà.
Tôi ghì đứa con gái út chặt trong tay, trán tôi áp vào má hồng hồng, đẫm nước mắt của nó và bằng một giọng nhẹ nhàng, tôi bắt đầu nói dịu dàng với các con tôi “Con yêu dấu, bây giờ hãy dũng cảm và đừng khóc nữa. Hãy nói cho mẹ nghe con có luôn vâng lời ba con là Đa-vít không?” Nó ngoan ngoãn gật gật cái đầu xinh xắn, giọng còn nấc và nói “Dạ có mẹạ”.
“Con có cầu nguyện hằng ngày không?”
“Có mẹ ạ”.
“ Và con cũng thích đến những buổi hát tôn vinh chứ?”
“Có mẹạ, những người lớn lúc nào cũng đem con đi.” Nó không thể ngừng khóc, nhưng nó trả lời rất nghiêm túc.
Những giây phút trôi qua nhanh chóng. Hàng nghìn suy nghĩ săn đuổi trong đầu tôi, thật nhiều điều tôi còn muốn nói cho các con, thật nhiều câu hỏi tôi muốn hỏi chúng, cũng như bao lần trước, tôi đã nghĩ trước đó hàng tuần: “Mình phải kểđiều này cho chúng, phải giải thích, hỏi chúng …” Và bây giờ, tôi như thẫn thờ trước ánh mắt chúng, vì tôi không còn nhớđiều gì nữa. Thời gian dành cho chúng tôi nhanh như trở lòng bàn tay. Người nữ nhân viên bắt đầu báo hiệu rằng tôi phải tạm biệt chúng. Thời gian đã hết. Đứa con gái út ôm chặt tôi đầy sợ hãi, như nó không muốn rời tôi ra. Nó nhướn đầu ra phía trước trong khi hai tay ôm lấy cổ tôi, và nó nhìn tôi bằng cặp mắt đầy tình yêu và đau đớn, đến nỗi tôi khó khăm lắm mới cầm được nước mắt. Nhưng lời người lính canh bây giờ rõ ràng hơn. Tôi hôn nó lúc chia tay, và cảm tạ Đức Thánh Linh vì sự hiện diện và an ủi của Ngài, tôi đã có thể nói với các con “Các con yêu dấu, bây giờ hãy về nhà. Đừng quên nghe lời các bác, các cô. Chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhau!”
Người em tôi bế đứa nhỏ ra khỏi tay tôi và cõng nó trên lưng đi ra ngoài. Trong lúc đi ra, tất cả đều cắn chặt môi, vì không ai muốn làm khổ cho người khác, vì những giọt nước mắt mình. Cứ vài bước, chúng lại quay đầu nhìn tôi lần nữa. Tôi đứng đó, vẫy chào và cố nở nụ cười, trong khi đó người canh gác đập bàn liên hồi. Rõ ràng, ba đứa chỉ muốn ở lại đây, nên chúng đi chầm chậm và luôn ngoái đầu lại nhìn tôi. Sau đó, đi qua cái cổng trại, một cái vẫy chào cuối cùng, và trong chốc lát tôi có thể nhận ra một nhóm người ở bên ngoài. Có khoảng bảy mươi Cơ-đốc nhân đã cùng đến với các con tôi. Tôi nghe thấy họ khóc nhỏ, họ chia xẽ sựđau thương với tôi và các con tôi. Và tôi biết rằng không những họ chỉ cầu nguyện dốc đổ cho tôi trong những giờ thăm viếng này, mà tiếng đồn về sự vận hành của Đức Chúa Trời trong trại này đã lan ra ngoài từ lâu qua những tù nhân được thả ra và có nhiều người được cảm động đã cầu nguyện cho chúng tôi.
Trong những năm tháng ở tù, hễ lúc nào có thể được là các con tôi đều đến thăm tôi. Mỗi lần chúng đều tìm cách tẩu táng một cuốn Kinh thánh vào cho tôi. Cứ mỗi chuyến thăm viếng, tôi vui mừng ngạc nhiên, vì chúng được lớn lên về tâm linh và thân thể. Tôi tràn đầy vui sướng vì chúng được phát triển tốt và yêu mến Chúa.
9. Đường còn xa quá cho ngươi (I Các Vua 19:7)
Những cái lúc đầu trông như những ngọn núi không thể vượt qua, nhờ ân điển Chúa đã trở nên một con đường nhẹ nhàng cho tôi. Sáu năm ở trong trại cải tạo trôi vèo như chiếc lá. Vào ngày mười chín tháng ba năm 1987, tôi được mãn hạn tù. Từ hai tháng trước ngày tôi được thả ra, các chị em thân yêu cứ mỗi lần gặp tôi là họ khóc. Nếu trong khi ăn, tôi ngồi chỗ họ là họ để bát cơm qua một bên, vì họ không thểăn được, bởi cớ nước mắt chảy ràn rụa. Những người khác thăm tôi ở nơi làm hay ở phòng, cầm tay tôi và họ nghẹn ngào hỏi: “Thưa mẹ chúng con phải làm gì, nếu mẹ từ giã chúng con?” Đôi người đêm không ngủ được, họ nhẹ nhàng đến bên giường tôi, kéo chăn qua một bên, nhìn tôi và thấm ướt tôi bằng những giọt nước mắt của họ.
Thời gian chia tay này như làm trái tim tôi tan vỡ. Hằng ngày, khi tôi cầu nguyện, tôi tìm sự dạy bảo nơi Đức Chúa Trời, vì chính tôi không biết nên cầu xin điều gì nữa. Vì cớ tin lành và sự phục vụ những đứa con thuộc linh trong nhà tù, tôi sẵn sàng chịu giam tiếp tục. Tôi có nên cầu xin Đức Chúa Trời kéo dài thời gian bị tù lên không? Tôi đã nhớ lại hồi trước, cách đây sáu năm, lúc tôi bị bắt và phải bỏ lại ba đứa con không cha ở nhà, tôi đã không khóc hoặc không đau khổ. Mặc dù, tôi hoàn toàn không biết điều gì sẽ xảy đến với tôi, thì tôi cũng biết chắc rằng, tôi đang đi trên con đường Chúa vạch ra. Nhưng bây giờ tôi rất băn khoăn, chiếm ngự bởi một nỗi buồn và một sự đau lòng khi chia tay, dường như không chịu đựng nổi. Tôi không thể hình dung rằng tôi có thể bỏ lại những đứa con thuộc linh mà tôi nhận được trong trại cải tạo này.
Trong vòng hai tháng cuối, hầu như tôi không ngủ được, mà tôi dành thời gian hầu hết để lau những giọt nước mắt rơi trên những gò má của các chị em đến thăm và tôi an ủi và nhắc nhở họ bằng lời Đức Chúa Trời. Tôi dùng những giây phút để nói tường tận cho họ về Đức Chúa Trời và nhắc nhở họ rằng, họ có thể tiếp tục bước đi với Đức Chúa Trời được mà không cần có tôi. Tôi nhấn mạnh cho họ “Hãy sống theo sự kêu gọi đặt trên đời sống các chị em, và vì cớ toàn trại, tôi xin chị em hãy chăm chỉ về những công tác thuộc linh và Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho các chị em ởđây. Và cũng hãy cầu nguyện cho đất nước và đồng bào chúng ta, như chúng ta vẫn làm đến nay…” Nếu có thể được, tôi ước gì giữ lại quĩ đạo mặt trời, để trì hoãn ngày chia tay. Nhưng sau khi sáu năm trong tù đã trôi qua nhanh chóng, như một vài ngày, thì hai tháng cuối cùng này càng trôi qua nhanh hơn.
Và sau đó, đã đến ngày làm nhiều nữ tín đồ trong trại không muốn nghĩ đến. Vào đêm trước khi được thả ra, tôi không thể chợp mắt được, lúc trời vừa hừng sáng, người ta có thể nghe thấy tiếng khóc của các chị em từ tất cả các cánh cửa sổ. Hầu như không ai đi ăn sáng.
Vào chín giờ ba mươi, có một người bảo vệ vào phòng tôi và thông báo bằng giọng khô khan: “Những người đến đón cô đã đứng chờ trước cửa từđêm qua. Vậy bây giờ cô hãy đi cho, đừng để mất thời giờ nữa. Bây giờ cô phải lập tức rời khỏi trại.”
Những chị em con cái Chúa vây xung quanh tôi, một vài người ôm đầu tôi, những người khác cầm tay tôi. Vài người nắm vạt áo tôi và giữ chặt. Đặc biệt cảm động bùi ngùi khi chia tay với những chị em bị án tù chung thân. Ý nghĩ họ sẽ không bao giờ rời được khỏi trại làm cho họ càng buồn rầu gấp đôi.
Nước mắt rơi lã chã trên đôi gò má tôi, khi tôi chúc phước cho họ, cầu nguyện với họ lần cuối cùng và giao phó họ cho Đức Chúa Trời. Tôi yêu mến mỗi người trong số họ biết dường nào. Mỗi một chị em là một đồ trang sức quí giá với những câu chuyện đặc biệt kỳ diệu về sự cứu rỗi, sự giải phóng và sự thay đổi đức tin của họ vào Chúa Giê-xu. Các chị em thật quí giá của tôi! Nhưng người bảo vệđã mất cả kiên nhẫn, và trước khi để cho ông kịp nổi nóng, tôi đã xách gói hành trang ít ỏi dùng trong những năm qua và đi theo người lính ra cổng trại. Khi tôi quay nhìn lại, thấy những cặp mắt sưng đỏ của những người thân yêu của tôi, vì cớ khóc nhiều. Không ai quan tâm đến người lính đang hối thúc họ phải giải tán đểđi làm việc, nhưng tất cả họđều nhất quyết muốn tiễn đưa tôi ra cổng.
Những Cơ-đốc nhân đến đón tôi từ tờ mờ sáng đã đứng trước bức tường dài chờ đợi. Đến lúc tôi đã ra, tất cả họ vui mừng và chạy lại xách đỡ cho tôi gói hành trang nhẹ nhàng. Đôi chân tôi nặng như cục chì, hầu như tôi không thể nhấc lên khỏi mặt đất được, tôi lê bước hơn là đi, đi vào sự tự do mới. Khi tôi vừa đứng dưới cổng lớn, có một tiếng khóc to lạ thường của mọi người đưa tiễn òa lên. Những chị em ở tầng trên tôi không được phép đưa tiễn tôi. Những người lính canh không cho phép ai rời khỏi tầng mình, nên bây giờ, họ đứng bên cửa sổ, có vô số cánh tay vẫy vẫy tôi từ những chấn song sắt. Tất cả những điều đó thật quá nhiều đối với tôi. Những tiếng khóc xé lòng, những cặp mắt sưng đỏ và những cánh tay giơ ra của nhiều chị em đã mạnh hơn bản thân tôi và làm trái tim tôi tan chảy.
Không suy nghĩ mình đang làm gì, tôi bật chạy trở vào trại. Tôi nói trong nước mắt với người bảo vệ đầu tiên, khi đó người giữ tôi lại, “Không, không, tôi không muốn về nhà, ông hãy cho phép tôi ở lại đây cùng với những chị em thân yêu của tôi. Tôi muốn ởđây vĩnh viễn cùng với những người thân yêu này.” Ông bảo vệ nhíu cặp lông mày. Không nói một lời nào, ông đẩy tôi ra trước cổng và cài cái then to lại ngăn cách tôi và những chị em yêu dấu đó.
Tất cả sức lực đã lìa khỏi tôi, hầu như tôi không thể nhấc đôi chân lên được. Sau một hồi lâu tưởng chừng vô tận, tôi tìm cách bước đi, nhưng tôi chỉđi được vài bước. Tôi cứ quay lại nhìn những chị em tín đồ đang vẫy vẫy từ tầng trên. Tôi kéo mình ra khỏi những ánh mắt nhìn, để bước đi tiếp tục vài bước, cho đến khi tôi vẫn nghe thấy những tiếng khóc vẫn vang lên không thay đổi, rồi tôi lại dừng lại. Tất cả những người đến đón tôi đều nhẫn nại, vừa nhịp nhàng vừa thông cảm, họ đứng thành hai hàng dọc đón chào, trong khi tôi cố gắng đi qua. Cuối cùng, tôi đã đi xa, không còn nghe thấy tiếng khóc của những đứa con thuộc linh của tôi nữa. Ôi thật là một sự chia tay! Tôi nhướng mắt lên và nhìn thẳng về con đường trước mặt tôi, trong khi tất cả mọi người đang nhẹ nhàng ở đàng sau, và từ sâu thẳm trong lòng, tôi thốt lên với Chúa rằng: “Chúa ơi, con đường trước mặt con nặng nề quá cho con.
Con xin Ngài dẫn dắt con từng bước mỗi ngày.”