Khoa học
và Đức Tin
Tôi sinh ra và lớn lên trong lòng mien Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa vô thần. Suốt mười năm học trường phổ thông, tôi luôn luôn được dạy rằng vũ trụ này tự nhiên mà có, không có ông trời nào hết.
Để chứng tỏ quan điểm đó là đúng, người vô thần nêu câu hỏi:
Nếu có Ông Trời vĩ đại đến mức sinh ra được cả vũ trụ thì Bố của Ông Trời là ai? Ông của Ông Trời là ai?
Rồi tôi vào học ngành vật lý của Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Tôi
phải học triết học duy vật một cách có hệ thống, trong đó sợi chỉ đỏ
xuyên suốt là quan điểm vật chất có trước, vật chất đẻ ra ý thức, vật
chật quyết định ý thức. Chỉ những gì con người cãm nhận được trực tiếp
hoặc gián điếp, thông qua các phương tiện máy móc, thì mới tồn tãi
(hay hiện hữu). Như thế, chủ nghĩa duy vật đương nhiên chối bỏ sự hiện hữu
của Đức Chúa Trời. Bấy giờ tôi cảm thấy chủ nghĩa duy vật là đúng. Ai
tin Thượng Đế tôi đều cho là duy tâm, là mê tín dị đoan cả.
Sau khi ra trường, tôi làm nghề dạy học. Tôi phải vừa dạy vật lý, vừa
thông qua môn học này để giáo dục tư tưởng duy vật cho sinh viên. Vì
thực tâm tin ở sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật, nên tôi giảng dạy
rất say sưa, không thấy gì gò bó cả. Mười ba năm dạy học là mười ba năm
góp phần tuyên truyền cho chủ nghĩa vô thần chống Chúa trong đội ngũ trí
thức Việt Nam. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy xót xa ân hận vô cùng. Nếu
linh hồn của lớp đàn em tôi bị hư mất, thì chính tôi phải chịu một phần
trách nhiệm. Tôi đã vô tình gây nên tội.
Năm 1975, sau một kỳ thi rất căng thẳng giữa các cán bộ giảng dạy đại
học, tôi đã đỗ và được đi làm nghiên cứu sinh ở Hungary. Có chút bằng
cấp nước ngoài rồi, tôi không dạy học nữa mà xin về làm ở Viện Vật lý
thuộc Viện Khoa Học Việt Nam. Mặc dầu không phải là đảng viên
nhưng do có chuyên môn tốt nên tôi được cử làm trưởng phòng của Phòng
Nghiên cứu Vật lý hạt nhân và có 6 phó tiến sĩ dưới quyền. Chúng tôi
đã từng ký kết và thực hiện hợp đồng với Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế
(International Atomic Energy Agency), nghiên cứu về các hạt nơ-tron
phát xạ từ các phản ứng tổng hợp hạt nhân nhẹ dơ-tê-ri, đóng góp cho công
trình sự dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, đặt cơ sở cho
những nhà máy điện nguyên tử sử dụng phản ứng tổng hợp hạt nhân, mạnh
gấp hàng ngàn lần nhà máy điện nguyên tử ngày nay. Tôi đã đi dự một số
hội nghị khoa học quốc tế để báo cáo về các công trình nghiên cứu này.
Chỗ làm việc của tôi thất lý tưởng. Đại đa số cán bộ là con ông cháu
cha, chỉ một vài người con thường dân như tôi được lọt lưới vào đây.
Bây giờ, khi đã tin Chúa tôi thấy kế hoạch của Ngài đào tạo tôi thất quá
kỳ diệu. Không có bàn tay chăm sóc của Ngài thì một thường dân như tôi
sao có thể “vớ bở” như thế được. Cảm ơn Chúa thật nhiều!
Vì nhiều lý do, năm 1989, nhân một chuyến đi công tác nước ngoài, tôi
đã xin tỵ nạn ở Đức. Một hôm ở trại tỵ nạn Heilbronn, tôi gặp nhà truyền đạo người Hà Lan, Henk Wolthaus. Ông đến trại để phát sách Cơ-đốc cho mọi người. Sau khi nói chuyện với ông một lát, tôi xin ông một cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh (vì ông không có Kinh thánh tiếng Việt), và một vài cuốn sách nhỏ khác. Tối hôm đó, tôi bắt đầu đọc thử các sách mới xin xem sao.
Ngay từ dòng đầu của Kinh thánh, tôi đã thấy vô lý:
“Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.”
Lương tri tôi bật lò xo. Đó là phản ứng tự nhiên của một người đã
sống gần năm mươi năm với chủ nghĩa vô thần. Nhưng rồi tôi nhớ lại,
chính Newton cũng cho rằng sở dĩ các thiên thể chuyển động nhịp nhàng
được là nhờ “cái hích đầu tiên của Thượng Đế,”
mà ngày trước tôi đã từng phân tích cho sinh viên đây là quan
điểm hoàn toàn sai lầm. Tự nhiên tôi nghĩ rằng Newton, người khám phá
ra định luật hấp dẫn vũ trụ, được coi là phát minh vĩ đại nhất của lịch
sử văn minh nhân loại, lại có thể kém như thế ư? Và tôi tự trả lời: không
thể được, chắc là mình dốt, không hiểu được ông ta, có lẽ Thượng đế có
thật. Rồi tôi đọc tiếp câu chuyện Thượng đế sáng tạo vũ trụ trong sáu
ngày. Tất cả như một truyện thần thoại dành cho trẻ con. Khi đọc đến
Tân Ước, tôi lại càng thấy nhiều điều không thể chấp nhận được. Có thể tin
chăng một bà mẹ đồng trinh sinh con, một người mù được sáng, người cùi
được sách, người què được lành, người chết đã có mùi được sống lại chỉ
nhờ những lời phán? Ai có thể đi bộ trên mặt nước, ra lệnh bắt bão tố
vô tri phải dừng?
Những phép lạ đầy dẫy trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen suy nghĩ
theo logic khoa học của tôi không sao hiểu nỗi. Đúng lúc ấy, trong đầu
tôi nảy ra một câu hỏi mà bây giờ tôi biết là chính Chúa đã đến và gở
mối cho tôi. Câu hỏi đó là: Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại mà tôi từng ngưỡng mộ, tin Kinh thánh? Họ cuống tín, hay chính mình ngu dốt? Từ những cuốn sách mỏng xin của Henk, tôi đã đọc thấy những câu bất hủ sau đây:
Charles Dickens viết: “Kinh thánh Tân Ước chính là cuốn sách tốt nhất đã từng hoặc sẽ được biết đến trên thế giới.”
Ngài Isaac Newton, nhà khoa học mà tôi đầy lòng khâm phục đã kết luận:
“Trong Kinh thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn trong bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”
Victor Hugo viết: “Nước Anh có hai cuốn sách, Kinh Thánh và Shakespeare. Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”
Albert Einstein, nhà vật lý học được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ này, đã phát biểu: “Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là què quặt.”
Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu được nhiều, nhưng Chúa biết tôi là người học
khoa học nên đã dùng tiếng nói của chính các nhà khoa học thất lớn để
mở mắt cho tôi. Tôi lại nhớ đến một câu chuyện về Newton. Sau khi ông
khám phá ra định luật hấp dẫn vũ trụ kỳ diệu, nhiều người đã hỏi ông làm
cách nào ông lại có thể tìm ra định luật vĩ đại nầy, Newton vừa cười vừa
trả lời: “Đó là nhờ tôi đứng trên vai những người khổng lồ.” Chúa như đang
nhắc nhở tôi: “Hãy đứng trên vai những người khổng lồ này thì con sẽ
nhận ra Chân Lý của Ta.” Quả nhiên tôi đã bị Ngài bắt phục dễ dàng.
Cái tư tưởng vô thần, được nhồi sọ công phu trong bao nhiên năm nay bị
đánh bật ra khỏi đầu tôi. Xưa nay tôi vẫn nghĩ đơn giản: không có Thượng Đế
vì không ai chứng minh được sự hiện hữu của Ngài. Nhưng bây giờ tôi
lại biết đặt câu hỏi mới: “Ai đã chứng minh được Thượng Đế không hiện
hữu?”
Tất cả chỉ dựa vào cảm giác của con người; mà cảm giác thì không phải
là một cách chứng minh khoa học. Người đứng ở trái đất nói rằng mặt trăng
quay quanh trái đất; nhưng quan sát viên đứng ở mặt trăng sẽ bảo trái
đất quay quanh mặt trăng. Ai đúng? Hơn nữa, có nhiều cái hiện hữu mà
không thể nhận biết được bằng cảm giác, chẳng hạn như trí khôn con
người. Không có và không thể có một máy nào đo được trí khôn. Vì vậy,
có Thượng Đế hay không có Thượng Đế là vấn đề của Đức Tin, nằm ngoài phạm vi của khoa học, của cảm giác.
Tính muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu: hạt
going nào sinh cây trái đó, vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa, sự hài hòa
và hoàn thiện của cơ thể con người, sự hùng vĩ của bầu trời sao; tất cả
những cái đó, cộng với những ý kiến các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục,
chính là sự chứng minh tuyệt vời và làm cho tôi tin rằng phải có Đấng
Sáng Tạo. Đó chính là Thượng Đế toàn năng, toàn tri, toàn trí và toàn
tại.
Dần dần tôi cũng tin Kinh thánh là Lời của Thượng Đế phán dạy cho loài
người, vì dù đã được viết bởi hơn bốn mươi tác giả, ở những địa điểm
khác nhau, trải ra 1500 năm, nhưng Kinh Thánh là một thể thống nhất.
Từ đầu đến cuối đều nói về kế hoạch cứu rỗi của Thượng Đế đối với nhân
loại.
Một trong những khái niệm khó nhất là khái niệm Đức Chúa Trời ba ngôi
một thể. Cảm tạ Chúa đã đào tạo tôi thành một người nghiên cứu vật lý,
nên điều này đối với tôi lại rất dễ chấp nhận khi so sánh với nước.
Nước cũng có ba trạng thái là rắn. lỏng và hơi. Ba trạng thái vật chất ấy
đều có cùng bản chất là nước. Có thể nói ba là một, một nhưng là ba. Điều
thật khó hiểu đã trở thành quá rõ ràng, mặc dù đây chỉ là một sự so
sánh rất khấp khiểng, một sự minh họa rất đại khái mà thôi.
Khi đã có những niềm tin cơ bản ấy, thì mọi thắc mắc về các phép lạ
đều được giải đáp dễ dàng. Đức Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời hiện
thân làm người như chúng ta, nhưng đồng thời Ngài chính là Thượng Đế, là
Đấng Sáng Tạo. Chính Chúa Giê-xu đã tạo dựng nên vũ trụ này, một phép lạ vĩ
đại, thì những phép lạ khác trong Tân Ước, như đi bộ trên mặt nước,
gọi người chết sống lại, đối với Ngài có gì là khó thực hiện.
Những lời dạy của Chúa Giê-xu đã gây cho tôi nhiều xúc động, vì thấy
tình yêu thương của Ngài thật vô bờ bến. Ngài cũng phán:
“Ta là Đường Đi, và Nguồn Sống. Nếu không nhờ Ta, không ai đước đến với Cha.” Ngài không tìm đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta, mà chính Ngài là con đường dẫn chúng ta đến sự cứu rỗi linh hồn. Ngài không nói tới một chân lý nào khác, vì chính
Ngài là chân lý tuyệt duy nhất. Và cũng chính Ngài là nguồn sống, vì tổ phụ A-đam của chúng ta đã nhờ sinh khí của Ngài mà trở thành một loài sinh linh.
Người Việt Nam cũng tin có Ông Trời. Ca dao Việt Nam có bài:
Lạy Trời
mưa
xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.
Con người tưởng rằng có thể trực tiếp đến với Trời, đến với Cha Thiên
Thượng. Chúa Giê-su cho biết: tội lỗi đã tạo ra một hố ngăn cách giữa nhân loại với
Thượng Đế, và bây giờ chính Ngài là chiếc cầu duy nhất bắc qua hố thẳm ấy. Ai
không tin nhận Ngài thì không thể đến cùng Thượng Đế được. Lời dạy bao trùm nhiều ý
nghĩa sâu sắc đó đã cảm động lòng tôi rất nhiều. Được Đức Thánh Linh truyền
cảm hung, tôi đã phổ nhạc bài thánh ca: “Xin Cha Sống Mãi Trong Con.” Tôi cũng lấy
câu này để đọc trong ngày tôi được làm thánh lễ báp-tem. Cảm ơn Chúa thật nhiều!
Tiến
sĩ Phan Như Ngọc
Stuttgart,
Germany