LỜI CHỨNG CỦA PAUL MCGUIRE
…Gia đình tôi đã từng nghĩ rằng: Những người tin theo Đức Chúa Jesus Christ là chống lại ĐỜI, chống tình dục, và chống sự vui chơi. Bởi đó, tôi đã được nuôi dưỡng trong thành kiến thật sự chống Cứu thế giáo. Tôi đã nghĩ rằng tín đồ của Chúa là những người quá lập dị, mê tín và cổ hũ
Có một lần, trong một bữa ăn chiều nhân ngày Lễ Tạ Ơn, Bà tôi (Công giáo) bảo Cha tôi dâng lời cầu nguyện. Cha tôi đáp: “Không, chúng ta không cầu nguyện, vì mọi thứ chúng ta có trên bàn ăn nầy đều do sự làm việc của con người. “ Nhân bản chủ nghĩa đã là thần của chúng tôi”.
Tôi đã được dạy rằng: Không có Thượng Đế … con người là trung tâm của vũ trụ. Cũng không có sự ĐÚNG hay SAI tuyệt đối, hết thảy điều xấu của con người chỉ là do sự thiếu hiểu biết.
Cha tôi là một giáo viên, và cũng là một nghệ sĩ, thế nên các bạn hữu đến nhà chúng tôi đều là những nghệ sĩ, trí thức, họa sĩ và thi sĩ. Tôi chưa bao giờ gặp một tín đồ Chúa Cứu Thế suốt thời thiếu niên. Chưa có ai nói với tôi về Đức Chúa Trời. Cũng chưa có ai làm chứng với tôi về Chúa Jesus Christ. Thật vậy, tôi đã là người đói khát tâm linh đáng thương.
Có ba câu hỏi đã vương vấn tôi từ lúc hãy còn thơ ấu: Tại sao tôi sống? Mục tiêu đời tôi là gì? Tôi làm gì ở đây? Trong khi những đứa trẻ khác chơi đùa, tâm trí tôi luôn luôn suy tư với những câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời.
Nghĩ rằng khoa học có thể đem lại cho tôi những lời giải đáp, tôi bắt đầu đọc tiểu sử của các đại khoa học gia. Đến 10 tuổi, tôi đã đọc hầu hết các nhà khoa học từ Einstein đến Eurico Ferni. Tôi có một giàn thí nghiệm lớn trong phòng ngủ của tôi với những chai lọ, ống thử và các bảng Tuần Hoàn. Tôi tập những thực nghiệm sinh hàn (cryogenics) bằng cách đông lạnh những thảo mộc trong tủ lạnh với ý định duy trì sự sinh động của chúng.
Dù vậy, sau khi mỏi mệt với khoa học như một phương tiện tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, kế đó tôi quay sang công việc thử nghiệm huyền thuật (occult) của các tôn giáo Đông phương.
Khi tôi được 11 tuổi, cha mẹ tôi ly dị, và thế giới của tôi bị xé nát. Tôi trở nên ương ngạnh. Cuộc “tìm kiếm tâm linh” của tôi pha trộn với sự gia tăng căm hờn đối với hết thảy quyền thế và xã hội. Mẹ tôi, lo lắng cho tính bướng bỉnh của tôi nên đưa tôi đến một nhà điều trị tâm lý, hy vọng giải quyết được các vấn đề của tôi. Dù vậy, việc nầy chỉ tạo thêm rối rắm. Tôi đã sẵn sàng trước sự cám dỗ của sinh họat phản văn hóa, triết lý ảo thức (Psychedelic philosophy) của thập niên 60, sau nầy trở thành phong trào Tân thế hệ.
Sau đó, phong trào “Hippie” xuất hiện và ma túy tràn lan khắp xứ và tại thành phố Nữu Ước.
Lúc tuổi 15, tôi đã xuất hiện với Abbie Hoffman tại “Làng Nữu Ước” và được tôn là Hội viên danh dự của Đảng Hắc Báo (Black Panther) mặc dù tôi là người da trắng vì tôi đã tham gia tổ chức các cuộc biểu tình. Tôi đã muốn thấy chính phủ Hoa kỳ bị lật đổ. Để rồi bằng phương tiện hòa bình, chúng tôi có thể phát huy một ảo thức hệ hoàn cầu và một hệ thống thế giới mới được hướng dẫn bởi Tân thế hệ. Trong mọi điều nầy, tôi đã quan niệm rằng những người tín đồ Chúa Cứu Thế là một đe dọa cho cuộc cách mạng chính trị tâm linh đang đến với địa cầu.
Tôi bắt đầu dùng chất LSD thật nặng lượng, từ bỏ thể xác, theo chiêm tinh chiếu mạng, thần giao cách cảm, đủ mọi thứ. Tôi thường thử nghiệm những hiện tượng siêu nhiên và đi vào một ảo giới cảm thức cao hơn. Nơi đó, các dị linh thông giao với tôi, và nơi đó tôi tập luyện quyền lực siêu linh. Chung qui, tôi đã tin rằng tôi được hoàn thành kiếp “nhân quà” và tự giải phóng khỏi kiếp “xa luân sanh tử” (Bánh xe sống và chết). Tôi đã muốn trở thành một “đấng chánh giác”, Tôi nhìn những người tín đồ của Chúa Cứu Thế như đang sống trong một bình diện cảm thức thấp hơn.
Sau đó, tôi vào Đại học Missouri, tại đây tôi học về “Biến trạng cảm thức”. Đây là một môn học mới và được cấp tín chỉ.
Tôi đã không tin các danh xưng của Chúa Cứu Thế Jesus vì tôi chưa thấy chứng cớ về các phép lạ của những việc làm siêu nhiên tại Hội thánh nhờ quyền phép Thánh Linh như được chép trong các sách Thánh Vụ Sứ Đồ. Nói rõ hơn, tôi muốn tìm “bằng chứng” rằng Chúa Jesus Christ là một Đấng như Ngài đã tuyên xưng, nhưng tôi chưa tìm được.
Sau đó, khi tôi gặp các tín đồ Cứu Thế giáo, họ nói với tôi rằng Chúa Jesus Christ là “Con Đường” duy nhất đến với Thượng Đế, tôi thật hết sức nghi ngờ. Tôi có thể đồng ý rằngChúa Jesus là một “Giáo sư thật được soi sáng”, nhưng khó chấp nhận Ngài là Con của Thượng Đế. Bởi vì nếu Ngài sống lại từ thể chết và thực hiện hết thảy những phép lạ mô tả trong Kinh Thánh …, nếu quả thật các tín đồ của Đấng Christ được tràn đầy tình yêu và quyền phép của Ngài, thì họ đã đảo lộn thế gian nầy rồi, thế sao hầu hết các Hội thánh mà tôi đã đến đều chết lạnh và không còn sinh động?
Khoảng thời gian đó, lần đầu tiên trong đời, tôi được gặp các môn đồ chân chính của Đấng Christ, họ đã hành động trong quyền lực siêu nhiên của Đức Thánh Linh và ánh vinh quang Thượng Đế chiếu sáng trên sắc diện của họ. Các thành viên của tổ chức “Jesus Hành Động” (Jesus Movement) có đến Columbia, và các tín hữu “tràn đầy Thánh Linh” tuôn tràn vào khuôn viên đại học. Tôi đã gặp họ mọi nơi, và giống như Saul ở Tarsus (người đã bắt hại đạo Chúa, sau trở nên Thánh đò Paul), tôi đã nghĩ rằng trách nhiệm của tôi là phải bảo vệ niềm tin Chủ nghĩa Thần bí Đông phương và tôn giáo của “cảm thức thượng đẳng”.
Tôi đã có ý định tấn công họ trong các lớp học triết lý, biện luận với họ khi họ truyền rao đức tin của họ. Ý thích của tôi là muốn hạ nhục và chứng minh rằng họ sai lầm bằng những cuộc tranh luận trí thức.
Hơn nữa, để tăng thêm thái độ “lăng nhục”, tôi định sẽ diễu cợt và nhạo báng họ khi gặp họ lai vãng quanh đó. Là một sinh viên điện ảnh, tôi có thể làm những phim hoạt kê “loại X” với những “búp bê khêu gợi” để chế nhạo tính đạo đức của các tín đồ Cứu Thế giáo mà tôi thù ghét.
Nhưng có mấy người trong số môn đồ thật của Chúa bắt đầu hạ tôi thành số “0” và chia xẻ với tôi tình yêu của Đấng Cứu Thế Jesus. Núp dưới cái vỏ “cự phách”, tôi là một con người tổn thương và hoảng sợ, muốn thò tay ra để tìm lời giải đáp. Thoạt tiên, tâm trí tôi hoàn toàn chối từ mọi điều họ nói. Nhưng họ vẫn thương yêu tôi bằng một tình yêu tâm linh tuyệt đối, thánh khiết và sâu đậm. Tôi nghĩ rằng những điều họ nói hoàn toàn ngây ngô, nhưng chính tôi cảm thấy bị thu hút bởi Đức Thánh Linh. Thật vậy, trong khi họ nói chuyện với tôi, Đức Thánh Linh đã bắt phục tôi, và tôi cảm thấy Thượng Đế đang trò chuyện với tôi. Tôi thấy rằng hết thảy những tranh luận trí thức của tôi bị triệt hạ đến không còn gì cả, và lần đầu tiên trong đời, tôi thấy một sự thánh khiết và một tình yêu trọn vẹn, chính là Thượng Đế. Các môn đồ của Chúa Cứu Thế đầy quyền lực siêu nhiên của Đức Thánh Linh, tôn vinh Thượng Đế bằng ngôn ngữ thiên thượng, và bày tỏ cho tôi thấy cuộc sống khiêm nhu của họ. Họ tiếp đón tôi như một “con người” và kính mến tôi. Họ mời tôi đến dự những buổi nhóm cầu nguyện, và đưa tôi đi ăn chung với họ.
Qua cách xử thế cá nhân của họ đối với tôi, tôi cảm thấy cánh tay Thượng Đế ôm lấy tôi và bồng ẵm tôi như một người Cha mà tôi chưa hề có. (Mấy năm sau, Cha ruột của tôi cũng tin nhận Chúa). Thượng Đế vĩ đại của vũ trụ, Đấng sáng tạo trời và đất, đã ôm tôi vào lòng thương yêu, qua sự quan tâm và đưa dẫn của các tín hữu Cứu Thế giáo. Một điều đã chạm vào tận bên trong tôi, như một trẻ thơ bị nhốt kín trong phòng tối, đau đớn, bầm dập và tả tơi, được trồi lên và nâng đỡ trong tình yêu của Thượng Đế.
Tôi vẫn chưa sẵn sàng đầu phục, nhưng Đức Thánh Linh đang hành động trong đời tôi. Tôi đã có mọi loại câu hỏi trí thức, và họ tặng tôi một quyển sách tựa đề “Thoát Khỏi Lý Luận” (Escape From Reason) của Tiến sĩ Francis Schaffer, khiến thay đổi đời tôi. Tôi đã chợt tỉnh khi phát giác rằng con người trí thức cũng có thể là môn đồ của Đấng Christ.
Thật vậy, tôi đã chống đối Đức Thánh Linh, và các quyền lực tăm tối không muốn buông tha tôi. Các tín hữu Cứu thế giáo cầu nguyện cho tôi, và Đức Thánh Linh khởi sự bắt phục tôi. Tôi tự thấy mình như đang đi trên thượng lộ “bị ném đá” (nhớ lại hành động của Saul ở Tarsus ra lệnh ném đá Stephen một sứ đồ của Chúa), tôi bắt đầu khóc sướt mướt như sự hiện diện của Thượng Đế đã chạm đến tôi.
Một ngày kia, tôi đến thăm một nữ tín hữu tên Laura, cô đã dành rất nhiều thời giờ để nói với tôi về Đấng Cứu Thế Jesus; tôi thuật cho cô nghe những sự kỳ diệu nhận được gần đây. Một cô gái khác bỗng đến ngồi kế bên và trộm nghe câu chuyện của chúng tôi. Cô là con gái của một Mục sư, đang vật lộn với câu hỏi: “Cứu thế giáo có thật là chân lý?” Cô nhìn thẳng vào tôi và hỏi: “Anh có tin rằng Đức Chúa Jesus Christ là Con của Thượng Đế?”
Bất chợt, tận bên trong tôi xuất hiện câu trả lời: “Vâng, tôi tin rằng Đức Chúa Jesus Christ là Con của Thượng Đế.” Tôi giật mình, vì trong đời tôi chưa bao giờ thốt ra những lời như thế. Thật vậy, tôi thật sự thưa cùng Quý Vị: Trong khi nói chuyện với họ, tôi đã có quyền lực của Đức Thánh Linh mạnh mẽ nhất chưa hề có trong đời tôi. Giống như bầu trời bất thần nứt ra, và sự hiện diện của Thượng Đế phủ trùm lên tôi. Một tấm màn khổng lồ kéo lên khỏi mắt tôi, và tôi nhận biết Thượng Đế là Đấng thực hữu.
Suốt tuần lễ đó, tôi ý thức được, không chút nghi ngờ rằng: hết thảy những điều tôi không thể tìm kiếm trong thần bí giáo Đông phương, trong những tương quan giữa vòng con người, và trong Tân thế hệ, tôi đã tìm được trong Đấng Cứu Thế Jesus. Đây không là một trải nghiệm khác của trạng thái “cảm thức cao hơn”, tôi hoàn toàn được giao tiếp với thực hữu của một chiều hướng sâu xa hơn mọi trạng thái mà tôi đã được trải nghiệm trong đời.
Như một lời chứng cá nhân, tôi có thể nói rằng tôi đã áp dụng câu Kinh Thánh Phúc âm Matthew (17:20) nhiều lần trong đời tôi, và tôi đã nhận được những phép lạ kỳ diệu:
“Quả thật, Ta phán cùng các ngươi, nếu các ngươi có đức tin như một hạt cải, các ngươi sẽ nói với núi nầy: ‘Hãy di chuyển từ bên đây sang bên kia’ thì nó sẽ dời đi, và không có điều gì bất năng cho các ngươi.”.
Một phép lạ siêu nhiên phải phù hợp với Kinh Thánh, mới đúng là phép lạ thật từ Thượng Đế. Kinh Thánh cũng nói về sự phỉnh gạt bằng các dấu kỳ và phép lạ, ngụy tạo những việc làm kỳ diệu của Đức Thánh Linh. Dù con người đã bị các tà giáo và huyền đạo dối gạt, Thượng Đế nhân ái và bao dung không để họ đi vào địa ngục mà không can thiệp. Ngài đã đặt những tảng đá ngăn chận các lối vào nơi tăm tối, Ngài đã sai các thánh đồ của Ngài ra đi khắp nơi, truyền rao Sứ điệp Tình Yêu của Ngài, cảnh giác tội lỗi và gian trá của các tà đạo. Ngài là Đấng duy nhất từng công bố: “Ta là Đường Đi, Lẽ Thật và sự Sống. Chẳng bởi Ta, không ai được đến cùng Thiên Phụ” (John 14:6). Ngài muốn hết thảy mọi người đều được cứu.
PAUL MCGUIRE, Hollywood, CA.