Piano
Uớc muốn động viên tinh thần con trai nhỏ của mình phát triển khả năng chơi đàn piano, một bà mẹ cho con trai tới dự buổi hoà nhạc của Paderewski. Sau khi vào chỗ ngồi, bà mẹ chợt nhận thấy vài nguời bạn lâu ngày không gặp đang đứng ở bên kia khán phòng, thế là bà vội đi đến đó để chào hỏi.
Vốn có bản tính tò mò, cậu bé con nhanh chóng bắt lấy cơ hội để thám hiểm những điều kì diệu của phòng hoà nhạc, cậu một mình hăng hái đi dạo vòng quanh khán phòng và cuối cùng cậu đi qua cánh cửa có hàng chữ “Không phận sự, xin miễn vào”.
Khi đèn phòng hòa nhạc mờ dần, báo hiệu sẽ bắt đầu buổi hòa nhạc, bà mẹ quay lại chỗ ngồi, và bà phát hiện ra cậu con trai không còn ở chỗ ngồi nữa. Ngay lúc đó, màn sân khấu hé mở, hệ thống đèn chiếu trên sân khấu mở đầu rất ấn tuợng, đèn pha tập trung vào nhân vật chính… Giật mình, bà mẹ nhận ra con trai mình đang ngồi trên ghế trước cây piano, cậu bé ngây thơ bắt đầu gõ tay trên phím đàn bài “Kìa con bướm vàng”.
Lúc bấy giờ, nguời nghệ sĩ piano vĩ đại mới buớc vào, ông nhanh chóng đi đến cây piano, ngồi xuống và nói nhỏ vào tai của cậu bé, “Đừng bỏ cuộc, tiếp tục chơi đi nào, cậu bé.” Và rồi tay trái của Paderewski cùng hòa thêm phần bass. Chẳng mấy chốc, bàn tay phải của ông cũng choàng qua vai cậu bé và đi phần đệm. Cùng với nhau, một nghệ sĩ vĩ đại và một cậu bé mới chập chững tập đàn làm thay đổi màn mở đầu của buổi diễn, nó thật bất ngờ và cũng không kém phần hấp dẫn, tất cả thính giả trong khán phòng đều thưởng thức say mê. Bài hát “Kìa con bướm vàng” ngây ngô đã trở nên một tác phẩm tuyệt vời.
Suy gẫm
Dù ở bất cứ địa vị, hoàn cảnh nào trong cuộc sống chúng ta, dù trong hiện tại hay trong quá khứ, cho dù có nghèo hèn, dù có tuyệt vọng, bất cứ hiện trạng tâm linh chúng ta thế nào, khô hạn hay đầy tràn sức sống, và ngay cả khi ở trong đêm tối của linh hồn ta – Chúa vẫn nói với chúng ta rằng có Chúa ở cùng, Ngài sẽ tỏ cho ta thấy những việc lớn và khó. Ngài sẽ dùng ta làm những việc ngoài khả năng của chúng ta, bởi sức Ngài.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Giô-suê 1:9
Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi.
Thử lòng
Vào một mùa đông cách đây 30 năm, sáng Chúa nhật ở Ashland, Kentuckey, tôi đã gặp được thiên sứ. Ít ra là tôi nghĩ đó là thiên sứ, vì tôi không dám chắc trăm phầm trăm. Nhưng cứ mỗi khi tôi nghĩ về việc đã xảy ra, tôi lại thấy có lẽ ông ấy đã được Chúa sai đến để thăm Hội thánh nhỏ bé của chúng tôi, và thử lòng chúng tôi.
Buổi sáng Chúa nhật bắt đầu bằng những cơn gió lạnh buốt, làm cho bất cứ ai cũng chẳng muốn rời khỏi chiếc giường ấm áp. Nhưng buổi nhóm ở nhà thờ đang “réo gọi”, và tôi còn phải dạy trường Chúa nhật nữa. Darlene, vợ tôi và tôi hối hả lo chuẩn bị cho hai đứa nhóc cùng đến nhà thờ.
Tôi là một mục sư lo mục vụ về giới trẻ cho Hội thánh trong vùng, và chắc các bạn cũng đoán ra, rằng mọi người cũng quan tâm đến khả năng làm việc của tôi xem có thể lo được mục vụ này không. Vào cái ngày đặc biệt đó, bài học tôi sẽ dạy về đức tin hành động giữa cộng đồng và bày tỏ ra cho người khác. Bài học được soạn để làm tiền đề cho bài giảng chính mà mục sư chủ tọa sẽ giảng vào buổi nhóm ngay sau đó.
Mặc dù tôi hơi bối rối, nhưng lớp học vẫn diễn ra tốt đẹp. Việc thảo luận rất sôi nổi, và tôi nghĩ chúng tôi đã giải quyết hết mọi khúc mắc của các bạn trẻ về vấn đề này. Đến giờ nhóm, chúng tôi cùng lên phòng nhóm chính trên lầu với toàn hội thánh. Mọi người rất vui vẻ vì được lên phòng nhóm chính, dù sao ở trên đó thì hệ thống sưởi cũng tốt hơn là tầng hầm – là nơi của tất cả các lớp học Kinh Thánh nhỏ.
Công việc thường lệ của tôi là hướng dẫn giờ thờ phượng. Tôi hướng dẫn cầu nguyện, rồi đến thông báo về những tin tức cần thiết trong vòng Hội thánh. Khi tôi đang đọc những hàng chữ nghệch ngoạc vội vàng của mình, bất ngờ tôi nhìn ra cửa chính. Một người đàn ông lớn tuổi vừa đẩy cửa bước vào, gương mặt tỏ vẻ như ngại ngùng vì có lỗi, ông từ từ tiến đến chỗ ghế trống ở giữa phòng nhóm.
Mọi người như quay cả lại, nhìn theo từng bước lê chân của ông lão. Ông mặc chiếc quần kaki dính đầy đất lem luốc, mang đôi giày bata trắng không vớ. Cái áo sơ mi ông mặc, nhìn có vẻ như trước đây nó từng là màu trắng… Để chống lại cái buốt giá mùa đông, ông ta mặc một chiếc ao len màu xám, có hai chỗ rách ở cùi chõ. Khuôn mặt già nua của ông bị nứt nẻ bởi gió lạnh, và dường như đã lâu ông không cạo râu. Ông lại còn xách một cái bao giấy trên tay nữa. Những người ngồi gần ông lão lạ mặt bịt mũi và quay mặt đi… Còn ông lão thì cứ nhìn quanh quanh vào những người chung quanh đang thờ phượng, họ ngồi đó trong những bộ cánh lịch lãm nhất.
Tôi xong phần thông báo, và người lo phần âm nhạc bước lên thay thế. Ông bước về phía bục, đặt thánh ca xuống và mở ra. Nhưng bỗng nhiên ông dừng lại. Ông lão nọ đang giơ tay lên.
“Vâng? Ông muốn nói gì ạ?”
“Tôi có thể nói một điều không ạ?”, ông lão nọ nói với giọng nhỏ và mệt mỏi.
Khẽ liếc mắt nhìn đồng hồ, rồi người hát dẫn gật đầu.
Nắm lấy cái ghế tựa của hàng ghế phía trước, ông lão nhìn chung quanh hội thánh, gật đầu chào, rồi mỉm cười. “Ở bên ngoài rất lạnh, tôi rất biết ơn các ông bà đã cho phép tôi vào bên trong nhà thờ ấm áp này.”
“Chúng tôi rất vui có thể giúp ông như vậy,” người hát dẫn nói.
“Ông thấy đó, tôi là người đi ngang qua đây. Tôi không có nhà. Tôi may mắn gặp được ngôi nhà thờ xinh đẹp này, và vì tôi bị lạnh quá, tôi phải vào đây.”
Bây giờ thì người hát dẫn nhìn chằm chằm vào đồng hồ trên tay anh ta. Một vài tín đồ cũng nhúc nhích trên ghế.
Ông lão nọ vẫn tiếp tục, “Như tôi đã nói, tôi không có nhà. Và tôi đang rất đói. Vậy, tôi muốn hỏi thăm… không biết trong vòng quý ông bà có ai có thể giúp tôi một bữa ăn và cho tôi xin một ít tiền để sống cho đến khi tôi tìm được chỗ ở không ạ?”
Một sự im lặng đáng sợ.
Mọi người nhìn nhau và nhấp nhổm không yên. Một vài người quay lại nhìn ông lão nọ như thể ông ta vừa nói một câu chuyện hài dơ bẩn.
Mặt người hát dẫn ngây ra, nhưng những ngón tay anh thì vẫn không ngừng vo vo bìa của cuốn thánh ca để trên bục giảng.
Không một ai nói gì.
Cuối cùng, ông mục sư chủ tọa đứng lên, nhìn chung quanh hội thánh như dò ý. Nhưng không ai nói một lời nào, ông nhún vai, trở lại ghế ngồi, và từ đó thì cứ nhìn chằm chằm xuống đất.
Sự im lặng dài tưởng như mấy tiếng đồng hồ trôi qua, ông lão chầm chậm cuối đầu, bước ra khỏi chỗ ngồi và lê chân ra cửa.
Chỉ khi cách cửa đóng lại thì sự im lặng mới chấm dứt. Người ta thở dài nhẹ nhõm. Một vài người thì nói chuyện xì xầm với nhau.
Vợ tôi thúc mạnh cùi chõ vào tôi và nói, “Mình đâu thể để cho ông ta ra đi giữa trời lạnh như thế. Anh ngăn ông ta lại đi. Ông ấy có thể đến ở với gia đình mình mà.”
Tôi đứng bật dậy và chạy ra, cùng lúc một người bạn trong Hội thánh cũng chạy theo tôi. Chúng tôi tung cửa và chạy ra ngoài trời lạnh giá. Chỉ một phút sau đó. Nhưng chẳng hề thấy bóng dáng ông lão nọ ở đâu.
Chúng tôi đi vòng quanh nhà thờ, tìm khắp nơi. Nhưng chẳng thấy ông lão đâu nữa. Không biết ông ấy đã đi đâu?
Người bạn và tôi nhìn nhau. Có cái gì đó thật kì lạ. Chỉ vài giây thôi mà không biết ông ấy đi đâu. Cứ như ông ấy đã bốc hơi mất vậy.
Cảm giác thật tệ hại, chúng tôi trở vào lại nhà thờ. Bây giờ cả phòng nhóm rì rầm âm thanh của mọi người bàn về việc vừa xảy ra vài phút trước đó. “Đúng ta chúng ta nên làm gì đó?” hoặc là “Vâng, ông ta nên đi và kiếm một công việc làm chứ.” Một số người khác thì nói, “Nhưng chúng ta là con cái Chúa. Chúng ta phải làm gì đó cho ông ấy.” Một quý bà phát biểu, “Làm sao mà ông già ấy dám vào nơi tôn nghiêm này. Và chúng ta cũng chẳng hề biết ông ta.”
Cuối cùng, ông mục sư chủ tọa đứng lên và nhìn hội chúng. Những tiếng ồn lắng dần lại. Ông nói, “Hôm nay, một chuyện kinh khủng đã xảy ra. Chúng ta đã mất một cơ hội để chứng tỏ mình là con cái Chúa, và tôi sợ rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể nhận được nó nữa.” “Ý của mục sư là gì vậy?” Ai đó hỏi.
“Tôi muốn nói rằng, tôi tin chúng ta nhận được sự thăm viếng của thiên sứ của Chúa ngày hôm nay. Khi tôi còn nhỏ, mẹ tôi vẫn thường dạy tôi rằng Đức Chúa Trời sai những thiên sứ của Ngài đến chăm sóc chúng ta, hướng dẫn chúng ta… Nhưng Ngài cũng sai những thiên sứ đến để thử chúng ta để xem chúng ta thật sự là người như thế nào. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã được thử thách hôm nay. Và tôi nghĩ chúng ta đã thất bại.”
Rồi ông mục sư mở Kinh thánh và đọc, “Hãy hằng có tình yêu thương anh em. Chớ quên sự tiếp khách; khi có kẻ làm điều đó, đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết.” (HeDt 13:1-2)
Nói xong, ông mục sư đóng Kinh thánh lại, ông ngồi xuống và gục đầu buồn bã.
Tôi vẫn hay nhớ về việc đã xảy ra khi tôi già đi và trưởng thành hơn trong chức vụ mình. Không biết ông lão ấy là ai? Tại sao ông lại đến nhà thờ của chúng tôi ngay chính cái ngày chúng tôi học về sự phục vụ người khác? Không biết ông ấy có phải thật là thiên sứ hay không? Không hiểu sao, tôi tin ông ấy là thiên sứ. Ít ra đối với tôi, ông ấy là thiên sứ.
Suy gẫm
Chúng ta vẫn thường được nghe giảng, được học, suy gẫm và nhắc nhở về đời sống yêu thương, nhân từ đối với mọi người. Chúa Jesus đã để lại cho chúng ta một gương sống cho tha nhân.
Trong đời sống hằng ngày, bạn bày tỏ sự khác biệt giữa mình với những người chưa tin Chúa như thế nào trong cách đối xử với mọi người?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Ma-thi-ơ 25:35, 36, 40
35 Vì ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; ta khát, các ngươi đã cho ta uống; ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước ta; 36 ta trần truồng, các ngươi mặc cho ta; ta đau, các ngươi thăm ta; ta bị tù, các ngươi viếng ta. 40 Vua sẽ trả lời rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy.
**
Bạn có tin vào sự Phục sinh không?
Edith Burns vốn là một tin kính Chúa hết lòng, bà sống ở San Antonio, Texas. Bà đang là một bệnh nhân của bác sĩ Will Phillips, một vị bác sĩ rất tài năng và có tấm lòng bác ái. Bác sĩ Will cũng rất yêu mến Edith Burns.
Một buổi sáng nọ, ông bước vào văn phòng với tấm lòng nặng trĩu, đó là vì bệnh tình của Edith Burns thật trầm trọng. Khi ông vừa đến, Edith đang ngồi ở phòng đợi, trên tay là cuốn Kinh Thánh bìa đen dày cộm, bà đang sốt sắng nói chuyện với một bà mẹ trẻ ngồi bên cạnh.
Edith Burns có một thói quen khi giới thiệu mình như thế này: “Xin chào, tôi tên là Edith Burns. Cho tôi hỏi chị có tin vào sự Phục Sinh của Chúa không vậy?” Rồi bà sẽ giải thích ý nghĩa của lễ Phục sinh, và bằng cách đó, đã có rất nhiều người được cứu.
Bác sĩ Phillips bước vào phòng, ông gặp cô y tá Beverly. Beverly đã gặp Edith lần đầu khi cô đo huyết áp cho Edith. Lúc đó, Edith đã làm quen bằng cách quen thuộc của mình: “Tôi tên la Edith Burns. Không biết cô có tin vào sự Phục Sinh của Chúa không?”
Beverly trả lời, “Sao bà lại hỏi vậy? Vâng, tôi tin.” Edith đáp, “Ồ tốt quá, thế cô tin lễ Phục sinh có ý nghĩa thế nào?” Beverly nói, “À, sẽ có những quả trứng, rồi đến nhà thờ và diện đồ đẹp.” Edith cố gắng giải thích cho Beverly về ý nghĩa thật sự của lễ Phục sinh, và cuối cùng bà đã hướng đẫn cô đến sự hiểu biết Chúa Jesus Christ và tin nhận Ngài.
Bác sĩ Phillips nói, ” Beverly, khoan hãy gọi Edith vào văn phòng tôi đã. Tôi tin rằng thế nào bà ấy cũng sẽ nói chuyện về Chúa thêm với ai đó trong phòng đợi.”
Sau khi được gọi vào, Edith ngồi đối diện với bác sĩ Phillips, bà nhìn bác sĩ và nói, “Bác sĩ Will này, sao ông có vẻ buồn bã thế? Ông đã đọc Kinh thánh hôm nay chưa đấy? Ông đã cầu nguyện chưa?”
“Bác sĩ Phillips trả lời nhẹ nhàng, “Bà Edith, tôi là bác sĩ, còn bà là bệnh nhân đấy nhé.”
Rồi với tấm lòng nặng nề, ông nói, “Kết quả xét nghiệm của bà đã có đây, nó cho biết bà đã mang bệnh ung thư, Edith ạ, tôi thật buồn khi phải nói rằng bà sẽ không sống được lâu nữa.”
Edith trả lời, “Sao thế bác sĩ Will Phillips, thật đáng xấu hổ chưa? Sao ông lại phải buồn? Chẳng lẽ ông nghĩ rằng Chúa đã sai lầm sao? Ông vừa mới cho tôi biết rằng tôi sẽ được gặp Chúa Jesus yêu dấu, sẽ gặp lại chồng tôi, và những bạn bè thân yêu. Ông vừa thông báo cho tôi biết tôi sắp sửa được mừng Chúa Phục sinh mãi mãi, thế mà bây giờ ông lại thấy khó khăn khi đưa cho tôi tấm vé để về với Ngài!”
Bác sĩ Phillips nghĩ thầm, “Ôi, Edith thật là một phụ nữ vĩ đại làm sao!”
Sau hôm đó, Edith vẫn tiếp tục đến phòng khám của bác sĩ Phillips mỗi ngày. Rồi Giáng sinh đến, phòng khám của bác sĩ Phillips đóng cửa cho đến ngày 3 tháng 1. Ngày đầu năm mới, Edith không đến. Trưa hôm đó, bà gọi cho bác sĩ và bảo rằng bà muốn nhập viện trong những ngày tới, “Will à, tôi sắp sửa về nhà nơi Thiên đàng rồi, nên tôi muốn ông hãy xếp những bệnh nhân nữ nào cần biết vễ ngày lễ Phục sinh ở gần phòng của tôi.”
Và thế là, họ đã làm như vậy, những người nữ bệnh nhân cứ lần lượt đến ở chung phòng với Edith. Rất nhiều phụ nữ được cứu. Mọi người, từ những nhân viên bệnh viện cho đến các bệnh nhân đều rất thích thú về Edith, và họ gọi bà bằng Edith Phục sinh – mọi người, trừ ra Phyllis Cross, cô y tá trưởng.
Phyllis không bị tác động nào từ Edith vì cô ta là người vô thần. Cô vốn là một y tá quân đội. Cô đã biết quá nhiều, nghe quá nhiều. Cô ta đúng là một mẫu nữ quân nhân chính hiệu. Cô đã kết hôn ba lần, và là một phụ nữ cứng cỏi, khô khan, lạnh lùng, cô làm mọi việc dựa trên sách vở mà thôi.
Một buổi sáng nọ, hai y tá báo cáo rằng Edith bị bệnh. Edith bị cảm và Phyllis Cross phải vào thăm nom, chích thuốc cho bà. Khi cô bước vào, Edith mỉm cười thật tươi và nói, “Phyllis à, Đức Chúa Trời yêu thương cô lắm, tôi cũng yêu cô, và tôi vẫn hằng cầu nguyện cho cô.”
Phyllis Cross trả lời lạnh lùng, “Thế à, bà nên bỏ chuyện cầu nguyện cho tôi đi, nó chẳng có ích gì đâu. Tôi không quan tâm.” Edith trả lời, “Vâng, tôi sẽ vẫn cầu nguyện cho cô, và tôi xin Chúa khoan đem tôi về nhà cho đến khi cô trở về với gia đình của Chúa.”
Phyllis Cross nói, “Thế thì chắc là bà chẳng bao giờ chết, vì chuyện đó chẳng bao giờ xảy ra đâu,” nói rồi cô bước thẳng ra ngoài.
Mỗi ngày, khi Phyllis Cross vào phòng thăm, Edith đều nói, “Đức Chúa Trời yêu thương cô lắm, Tôi cũng yêu cô và đang cầu nguyện cho cô.” Một ngày nọ, Phyllis Cross bị thôi thúc đi đến phòng của Edith. Cô bước vào phòng, ngồi xuống bên giường, và Edith nói, “Tôi thật mừng là cô đã đến, bởi vì tôi biết hôm nay là một ngày đặc biệt của cô.”
Phyllis Cross hỏi, “Bà Edith này, bà đã hỏi rất nhiều người ở đây cái câu hỏi, “Cô có tin vào sự Phục sinh của Chúa không?”, thế mà bà chưa bao giờ hỏi tôi câu đó.”
Edith Burns lấy cuốn Kinh thánh ra, chia sẻ với Phyllis Cross về lễ Phục sinh, về câu chuyện Chúa Jesus Christ đã chịu chết trên thập tự giá, đã chịu chôn và Ngài sống lại thể nào. Edith hỏi, “Phyllis này, cô có tin vào sự Phục sinh của Chúa không? Cô có tin rằng Chúa Jesus đang sống và Ngài đang muốn sống trong tấm lòng của cô không?”
Sự cảm động đến trên Phyllis, cô trả lời, “Vâng ,tôi tin, tôi tin hoàn toàn, và tôi ao ước Chúa tể trị cuộc sống tôi.” Và Phyllis cầu nguyện, mời Chúa Jesus ngự vào lòng mình.
Hai ngày trước lễ Phục sinh, khi Phyllis vào thì Edith hỏi, “Hôm nay là ngày gì thế, Phyllis?”
“Sao thế Edith, hôm này là ngày Thương Khó.”
“Ồ không phải đâu, với cô thì mỗi ngày đều sẽ là ngày Phục sinh. Chúc mừng Phục sinh, Phyllis!”
Hai ngày tiếp theo, vào Chúa nhật Phục sinh, Phyllis Cross tạt ngang bệnh viện, làm một vài việc vặt còn lại và đi xuống tiệm hoa bên dưới, cô muốn mua tặng Edith vài bông Lili trắng và chúc mừng Phục sinh. Khi cô vào phòng, Edith nằm trên giường, cuốn Kinh thánh to bìa đen của bà ở trên đùi, tay để trên cuốn Kinh thánh. Khuôn mặt bà như đang mỉm cười.
Khi Phyllis đến cầm lấy tay bà, cô nhận ra Edith đã qua đời.
Ngày hôm sau, khi đến văn phòng, Phyllis Cross nhìn thấy hai cô thực tập sinh nơi bàn, cô tiến đến và giới thiệu, “Xin chào, tôi tên la Phyllis Cross. Không biết các bạn có biết ý nghĩa của sự Phục sinh không?”
Suy gẫm
Chúa Jesus đã yêu thương con người tội lỗi, Ngài bằng lòng mua chuộc chúng ta bằng chính thân báu của Ngài. Sự sống lại của Chúa chính là niềm hy vọng sống của chúng ta, những con cái Ngài.
Chúng ta cũng phải chia sẻ niềm vui và hy vọng ấy cho những ai chưa biết đến Ngài, hầu cho thêm nhiều người được cứu.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Cong-vụ 1:8
Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.
**
Quả trứng của Jeremy
Jeremy sinh ra trong một thân thể không lành mạnh như những đứa trẻ khác, cậu bé bị chậm phát triển về trí óc và mang trong người một căn bệnh bẩm sinh hiểm nghèo, nó đang từng ngày làm cho cậu chết dần chết mòn đi. Tuy vậy, ba mẹ Jeremy vẫn cố gắng đem đến cho cậu bé một cuộc sống bình thường nhất có thể được, và họ đã gửi cậu vào trường tiểu học Theresa.
Tuy đã được 12 tuổi, Jeremy vẫn chỉ học lớp hai, cậu bé dường như không thể tiếp thu được bài học. Cô giáo của cậu, Doris Miller, thường phải phát cáu với cậu bé. Cậu bé thường ngồi không yên một chỗ, cứ vặn vẹo người trên ghế, mũi thì thò lò, và hay làu bàu những âm thanh khó chịu mà không ai hiểu. Cũng có đôi lần khác, cậu bé nói rõ ràng rành mạch, và đó là những lúc ánh sáng đã chiếu xuyên qua được cái đầu tối tăm của cậu. Nhưng hầu hết là Jeremy làm cho cô giáo của cậu bực mình nhiều hơn.
Một ngày nọ, cô giáo gọi cho ba mẹ cậu bé và mời họ đến trường để trao đổi ý kiến. Khi ông bà Forester, ba mẹ của Jeremy, ngồi yên lặng trong căn phòng học vắng vẻ, cô Doris mới bảo họ, “Jeremy thật sự không thuộc về chỗ này đâu, cậu bé thuộc về một ngôi trường đặc biệt. Thật không hợp lý cho cậu bé khi phải học với những bạn bè nhỏ tuổi hơn, mà chúng nó lại không hề có vấn đề nào về chuyện tiếp thu bài vở cả. Tại sao mà chúng ta lại phải bắt cậu bé học chung với 19 đứa bạn nhỏ hơn cậu đến 5 tuổi!”
Bà Forester khóc rấm rức trong khi ông chồng trả lời.
“Cô Miller à, thật ra chúng tôi cũng muốn gửi cháu đến trường cho trẻ đặc biệt, nhưng khổ là gần khu này không có trường loại đó. Jeremy sẽ bị sốc nặng nếu như chúng tôi không cho cháu đến trường này nữa. Chúng tôi biết cháu nó rất thích đi học ở đây.”
Doris ngồi thừ ra sau khi nhà Forester ra về, cô cứ nhìn chằm chằm vào những bông tuyết đang rơi ngoài cửa sổ. Cái lạnh giá như thấm vào trong lòng cô. Cô cũng muốn thông cảm với gia đình Forester. Dù sao đi nữa, con trai họ đang mang một căn bệnh hiểm nghèo. Nhưng thật là bất hợp lý khi giữ cậu bé trong lớp học này. Cô còn lũ trẻ để giảng dạy, trong khi Jeremy ở đó như là một vật cản. Hơn nữa, cậu bé sẽ chẳng bao giờ học đọc hay viết được đâu. Tại sao phải tốn thêm thời gian mãi như vậy?
Khi Doris đang cân nhắc vấn đề ấy, thì có một sự cáo trách trong lòng cô. Cô buột miệng nói lớn, “Ôi Chúa ơi, con đang ở đây than phiền, trong khi vấn đề của con thật chẳng là gì cả so với nan đề của gia đình khốn khổ đó! Xin Chúa hãy giúp con có thêm lòng yêu thương và sự kiên nhẫn với Jeremy!”
Từ hôm đó trở đi, Doris cố gắng để làm lơ đi những tiếng ồn và những ánh nhìn vô hồn của cậu bé.
Một ngày kia, cậu bé khập khiễng đi đến bàn cô giáo, cậu kéo lê cái chân tật nguyền theo sau… “Con thương cô lắm, cô Miller ơi,” cậu bé kêu to đến nỗi cả lớp đều nghe thấy. Những đứa trẻ khác khúc khích cười, và mặt Doris bắt đầu đỏ lên. Cô lắp bắp, “Tại… sao… vậy… à, điều đó thật dễ thương, Jeremy. Bây giờ con ngồi xuống ghế đi nào…”
Mùa xuân đến và những đứa trẻ háo hức chờ mùa lễ Phục sinh sắp đến. Doris kể cho chúng nghe câu chuyện về Chúa Jesus, và rồi để nhấn mạnh về cuộc sống mới, cô đưa cho mỗi đứa trẻ một quả trứng bằng nhựa. Cô nói với bọn trẻ, “Bây giờ, cô muốn các con đem quả trứng này về nhà, các con sẽ bỏ cái gì đó vào bên trong để thể hiện về cuộc sống mới. Và ngày mai các con mang vào lớp cho cô chấm điểm. Các con có hiểu không? “Dạ hiểu, cô Miller!” Bọn trẻ trả lời rất phấn khởi – chỉ trừ Jeremy.
Cậu bé lắng nghe chăm chú, đôi mắt không hề rời khỏi khuôn mặt cô giáo. Cậu chẳng gây ra tiếng động nào, ngay cả những tiếng ồn quen thuộc của cậu. Nhìn Jeremy, cô Doris tự hỏi không biết cậu bé có hiểu những gì cô vừa kể về sự chết của Chúa Jesus và sự phục sinh của Ngài không? Không biết cậu có hiểu bài tập về nhà mà cô vừa giao cho cả lớp không? Có lẽ cô nên gọi điện thoại về nhà cho ba mẹ cậu, và giải thích về bài tập về nhà kia.
Tối ấy, cái bồn rửa chén ở nhà Doris bị hư. Cô phải gọi chủ nhà đến và đợi hàng giờ để ông ta đến và giúp cô sửa lại. Sau đó, cô còn phải đi chợ mua rau quả, phải ủi áo quần cho ngày mai đi dạy, và còn soạn bài kiểm tra từ vựng cho bọn trẻ vào ngày mai. Thế là cô quên mất chuyện gọi điện thoại cho ba mẹ Jeremy.
Sáng hôm sau, 19 đứa trẻ đến trường, chúng cười đùa và nói chuyện với nhau khi lần lượt bỏ quả trứng của mình vào cái rổ to trên bàn cô giáo Miller. Sau tiết học toán là giờ để mở những quả trứng.
Trong quả trứng đầu tiên, Doris thấy một bông hoa, “Ồ đúng rồi, một bông hoa chắc chắn là dấu hiệu của một đời sống mới,” cô nói. “Khi cây cối đâm chồi từ mặt đất, chúng ta biết mùa xuân đang đến.” Một bé gái ngồi ở hàng đầu vẫy vẫy tay.
“Đó là quả trứng của con đó cô Miller,” nó la lớn lên.
Quả trứng kế tiếp chứa một con bướm bằng nhựa, nhưng nhìn giống thật lắm. Doris cầm nó đưa lên. “Các con biết rằng cái kén đã thay đổi và trở thành con bướm rất xinh đẹp. Đúng rồi, đó cũng biểu hiện cho một cuộc sống mới.” Judy mỉm cười tự hào và nói, “Cô Miller, đó là quả trứng của con đó.”
Kế tiếp, Doris tìm thấy một cục đá có rêu mọc trên đó. Cô giải thích rằng rêu cũng biểu hiện cuộc sống, và Billy từ cuối lớp nói lên, “Ba con giúp con làm đó cô!”, mặt cậu thật rạng rỡ.
Rồi Doris mở quả trứng thứ tư. Cô ngạc nhiên. Quả trứng trống không! Chắc chắn nó của Jeremy rồi, cô nghĩ, và đương nhiên là nó đã không hiểu cô hướng dẫn cái gì ngày hôm qua cả. Chỉ tại cô quên mất, không gọi cho ba mẹ cậu bé.
Bởi vì cô không muốn làm cho cậu bé xấu hổ, cô lặng lẽ để quả trứng một bên và tiếp tục lấy một quả trứng khác trong rổ. Đột nhiên, Jeremy nói to, “Cô Miller ơi, sao cô không nói gì về quả trứng của con hết?” Bực mình, Doris trả lời, “Nhưng mà Jeremy – quả trứng của con trống không, chẳng có gì bên trong cả!” Cậu bé nhìn vào mắt cô giáo và trả lời nhỏ xíu, “Vâng ạ, nhưng mà mộ của Chúa Jesus cũng trống không như vậy mà.”
Thời gian như ngừng trôi. Doris im lặng hồi lâu mới có thể nói tiếp. Cô hỏi cậu bé, “Nhưng con có biết tại sao mộ của Chúa lại trống không hay không nào?”
“Ồ vâng, con biết!” Jeremy kêu lên. “Chúa Jesus bị đóng đinh chết và bị bỏ vào đây. Rồi Cha của Ngài làm cho Ngài sống lại!”
Chuông hết tiết học vang lên. Khi những đứa trẻ hào hứng chạy ra ngoài sân chơi, Doris khóc. Cái lạnh giá trong tâm hồn cô tan đi hoàn toàn.
Ba tháng sau đó, Jeremy mất. Những ai đến thăm viếng tang lễ đều ngạc nhiên khi thấy 19 quả trứng đặt trên quan tài của cậu bé, tất cả đều trống không.
Suy gẫm
Chúa đã chết trên thập tự giá để chuộc tội cho bạn và tôi, và Ngài cũng đã từ kẻ chết sống lại để chúng ta được sống.
Bạn có chia sẻ niềm vui Chúa sống cho người khác chưa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
I Cô-rinh-tô 15:20-22
20 Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, Ngài là trái đầu mùa của những kẻ ngủ. 21 Vả, vì chưng bởi một người mà có sự chết, thì cũng bởi một người mà có sự sống lại của những kẻ chết. 22 Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại,
**
Phép lạ từ tình yêu thương
Khi Karen biết mình đã có thai đứa con thứ hai, như những bà mẹ hiểu biết khác, cô cố gắng giúp cho đứa con trai 3 tuổi của mình – Michael – làm quen với việc nó sẽ có em. Họ siêu âm và biết đứa trẻ là một bé gái. Thế là ngày qua ngày, đêm nào Michael cũng hát cho đứa em gái, còn đang ở trong bụng mẹ, của mình nghe.
Cậu bé đang xây dựng một tình yêu với đứa em gái bé nhỏ trước cả khi cậu gặp được em mình nữa. Mọi việc diễn ra tốt đẹp cho cả hai me con Karen – người vốn là một tín đồ sốt sắng của Hội thánh Panther Creek United, Tennessee. Và rồi thời điểm sanh nở đến.
Mỗi năm phút, mỗi ba phút, và rồi mỗi phút chờ đợi trôi qua… Nhưng bất ngờ một biến chứng phức tạp xuất hiện khi cô đang trên bàn sanh, Karen phải trải qua hàng giờ đau đớn. Các bác sĩ băn khoăn không biết có cần phải mổ hay không? Cuối cùng, sau một thời gian dài tranh chiến, em gái của Michael đã ra đời. Nhưng cô bé đang trong tình trạng rất nguy hiểm. Một tiếng còi hú vang lên trong đêm khuya, và chiếc xe cấp cứu lao đi, chở đứa trẻ vừa sanh đến khu chuyên khoa ở bệnh viện St. Mary, Knoxville, Tennessee.
Những ngày dài trôi đi chậm chạp. Tình trạng của đứa bé ngày càng tệ hơn. Các bác sĩ nhi khoa nói với cha mẹ đứa trẻ trong sự hối tiếc, “Chỉ có một chút hy vong mà thôi. Xin chuẩn bị cho điều xấu nhất có thể xảy ra.” Karen và chồng cô liên lạc với nghĩa trang trong vùng để mua một phần đất mai táng. Trước đây, họ đã sửa sang lại căn phòng đặc biệt trong nhà cho em bé – nhưng bây giờ họ lại phải chuẩn bị cho một lễ tang.
Tuy nhiên, Michael vẫn nài xin cha mẹ cho cậu vào thăm em bé. “Con muốn hát cho em nghe mà,” cậu cứ nói mãi. Đã sang tuần thứ hai trong phòng săn sóc đặc biệt, và người ta tự hỏi không biết lễ tang có đến trước khi sang tuần thứ ba không.
Michael vẫn cứ tiếp tục mè nheo về chyện nó muốn hát cho em gái nghe, nhưng con nít không được phép vào phòng Săn sóc đặc biệt. Karen suy nghĩ. Cô sẽ đem Michael vào thăm em bé, cho dù người ta có cho hay không! Nếu cậu bé không được gặp em nó vào lúc này, thì có thể lắm nó sẽ chẳng còn dịp nào khác.
Cô dấu con vào trong áo và bế nó vào phòng. Nhưng cô y tá trưởng đã phát hiện ra và la lên, “Đem đứa trẻ ra ngoài nhanh! Trẻ em không được phép vào đây!” Bản năng của người mẹ trổi dậy mạnh mẽ trong Karen, và người phụ nữ vốn dịu dàng và ôn hòa, bây giờ lại trừng mắt vào cô y tá nọ, cô nói với giọng dứt khoát, “Nó sẽ không rời khỏi đây cho đến khi nó hát cho em gái nghe!”
Karen dắt Michael lại bên nôi em bé. Cậu bé nhìn chằm chằm vào em gái nhỏ xíu của mình vốn đang phải tranh chiến để được sống. Sau một phút, cậu bé bắt đầu hát. Bằng một giọng hát ngây thơ và trái tim trong sáng, cậu bé Michael 3 tuổi hát: “Em là ánh mặt trời của anh, chỉ là em thôi. Em làm cho anh hạnh phúc khi mà bầu trời chung quanh u ám…” Ngay lúc đó, em bé gái dường như có chút phản ứng. Những mạch đập của nó chậm dần lại và đều đặn hơn.
“Hát tiếp đi con, Michael,” Karen bật khóc và khuyến khích con, đang khi cô cầu nguyện trong lòng, “Chúa ôi, xin hãy thương xót con gái bé bỏng của con.”
Michael tiếp tục, “Chắc em không biết đâu, không biết là anh thương em rất nhiều đâu. Đừng lấy mất ánh mặt trời của anh đi nhé…”
Khi Michael hát cho đứa em nhỏ của mình nghe, hơi thở dồn dập và mệt mỏi của nó trở nên đều đặn hơn, như tiếng rừ rừ của chú mèo con.
“Hát tiếp đi con!!”
“Có một đêm nọ, anh đang nằm ngủ, anh đã mơ thấy anh bế em bé trong tay…” Đứa em nhỏ bắt đầu như dịu xuống và rơi vào giấc ngủ.
“Hát nữa đi con, Michael.”
Bây giờ thì nước mắt chan hòa trên má cô y tá trưởng khó chịu kia. Karen thấy lòng mình ấm áp và bình an.
“Em là ánh mặt trời của anh, chỉ là em thôi. Đừng lấy mất ánh mặt trời của anh đi nhé…”
Ngày hôm sau… ngay chính ngày hôm sau, đứa bé nhỏ đã khỏe trở lại để có thể về nhà! Tạp chí “Phụ nữ ngày nay” gọi đây là “Phép lạ từ bài hát của đứa anh trai.” Những bác sĩ thì chỉ đơn sơ gọi đây là phép mầu. Nhưng Karen thì nói đây là “Phép lạ từ tình yêu thương của Chúa”!
Suy gẫm
Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu thương tuyệt vời không gì sánh bằng. Và Ngài đã để lại tình yêu thương đó trong lòng chúng ta, để chúng ta có thể đem tình yêu đó chia sẽ cho những người khác.
Bạn đã làm được điều đó chưa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
I Cô-rinh-tô 13:7
Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự.
**
Chiếc vò nứt
Có một người gánh nước thuê ở Ấn Độ nọ, mỗi ngày anh gánh nuớc từ suối về với hai chiếc vò nặng trĩu trên đôi vai. Một trong hai chiếc vò chẳng may bị nứt, trong khi chiếc bên kia thì nguyên vẹn. Vì thế, sau khi gánh một đoạn đường dài từ suối về, chiếc vò nứt chỉ còn chứa một nửa lượng nuớc trong khi chiếc bên kia thì vẫn đầy tràn.
Trong suốt hai năm dài, thay vì hai vò nước đầy, mỗi ngày anh chỉ đem về nhà chủ mình được một vò rưỡi nước mà thôi. Chiếc vò nguyên vẹn rất tự hào về những gì mà nó làm được, nó cảm thấy nó đã làm trọn trách nhiệm mà người ta tạo ra nó. Còn chiếc vò bị nứt lại cảm thấy xấu hổ về điều khiếm khuyết của mình. Nó cảm thấy đau khổ vì mình chỉ có thể hoàn thành được một nửa trách nhiệm của mình mà thôi.
Sau hai năm dài, chiếc vò nứt tự dằn vặt và xấu hổ vì nghĩ mình thất bại, chẳng thể làm trọn việc của mình. Vào một ngày nọ, bên dòng suối, nó buồn bã nói với người gánh nước, “Tôi cảm thấy xấu hổ về chính mình và muốn nói lời xin lỗi với ông.”
“Tại sao vậy?” Người gánh nước hỏi, “anh cảm thấy xấu hổ về việc gì?”
“Trong suốt hai năm qua, tôi chỉ có thể đem về nhà được một nửa vò nước… Nước đã bị rò rỉ ra từ vết nứt trên người tôi suốt trên đường trở về nhà ông chủ của anh. Bởi vì khiếm khuyết của tôi, mà anh phải chịu vất vả, và anh đã không nhận được công giá xứng đáng cho công sức mà anh đã bỏ ra,” chiếc vò nứt trả lời.
Người gánh nước cảm thấy thương hại cho chiếc vò cũ kỹ, nứt nẻ này. Anh ta nói, “Không sao, hôm nay trên đường mình trở về nhà ông chủ của tôi, tôi muốn anh chú ý đến những bông hoa xinh đẹp mọc bên đường.”
Và quả thật, Khi leo lên những dốc đồi, chiếc vò nứt chú ý thấy những ánh nắng ấm áp đang chiếu rọi lên những bông hoa rực rỡ bên đường, và nó lấy làm thích thú. Nhưng rồi khi về gần đến nhà, chiếc vò nứt lại tiếp tục buồn bã vì nó nhớ ra mình đã làm rò rỉ hết một nửa vò nước như mọi khi. Thế là nó lại nói lời xin lỗi với người gánh nước về điều này.
Người gánh nước trả lời, “Anh có chú ý thấy rằng có những bông hoa xinh đẹp kia chỉ mọc ở phía của anh không? Bên kia đường thì chẳng có hoa mọc? Đó là vì tôi luôn biết cái khiếm khuyết của anh và tôi đã tận dụng điều đó. Tôi đã trồng những hạt giống hoa trên con đường bên phía anh đi qua. Mỗi ngày khi chúng ta quay trở về nhà từ dòng suối, anh đã tưới nước lên những cây hoa ấy. Và sau hai năm, bây giờ tôi có thể hái những bông hoa xinh đẹp đem về trang trí cho chiếc bàn của ông chủ tôi. Nếu như anh không có vết nứt đó thì ông chủ tôi sẽ không có những bông hoa xinh đẹp này để trang hoàng và làm đẹp cho ngôi nhà của mình.
Suy gẫm
Mỗi chúng ta đều có những khiếm khuyết. Tất cả chúng ta đều là những chiếc vò nứt. Nhưng trước mắt Chúa, không có đều gì là vô ích cả. Khi bạn được Chúa kêu gọi làm công việc Ngài, đừng bao giờ e ngại vì nghĩ mình bất tài hay mình có nhiều khuyết điểm.
Hãy tập chấp nhận những khiếm khuyết mình có và bằng lòng cho Chúa sử dụng đời sống chúng ta theo ý Ngài, Chúa sẽ làm cho nó trở nên có ích trong nhà của Ngài. Hãy mạnh dạn bước đi để kinh nghiệm được rằng những yếu đuối của chúng ta sẽ trở nên những mạnh mẽ trong tay Thiên Chúa.
Bạn đã sẵn sàng giao cuộc đời của mình cho Ngài sử dụng chưa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
I Cô-rinh-tô 12:4-6
4 Vả, có các sự ban cho khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Thánh Linh. 5 Có các chức vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có các việc làm khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa Trời, là Đấng làm mọi việc trong mọi người.
**
Biên bản vi phạm luật giao thông
Jack nhìn chằm chằm vào cái công-tơ-mét trên xe mình trước khi giảm tốc độ, 75 dặm/giờ. Đây là lần thứ tư trong mấy tháng gần đây. Không hiểu sao mà một người cứ bị cảnh sát bắt gặp hoài như thế chứ?
Khi xe giảm tốc độ chỉ còn 10 dặm một giờ, Jack cho xe lùi lại, nhưng chỉ nửa vời thôi. Cứ để cho anh cảnh sát lo lắng về một mối nguy hiểm tai nạn giao thông. Anh cảnh sát đang bước ra khỏi xe, trên tay cầm một xấp giấy tờ.
Ồ, Bob à? Chẳng lẽ là anh Bob ở nhà thờ đó sao? Jack kéo cao cổ áo khoác lên một chút, anh rún người xuống. Chuyện này thì còn tệ hại hơn là một tấm thẻ phạt nữa. Một cảnh sát Cơ Đốc bắt gặp một tên vi phạm luật lệ giao thông vốn vẫn nhóm trong cùng nhà thờ với anh ta mỗi Chúa nhật! Thật tồi tệ! Anh ta là một người chỉ mong nhanh chóng chạy về với vợ con sau một ngày làm việc mệt mỏi ở văn phòng mà thôi. Cũng là một người đã hẹn sẽ đi chơi đánh gôn chung với anh cảnh sát nọ vào ngày mai đây.
Nhảy ra khỏi xe, Jack tiến lại phía người đàn ông mà anh gặp hằng tuần vào Chúa nhật, người mà anh chưa bao giờ nhìn thấy mặc cái bộ đồng phục này. “Xin chào anh Bob. Thật tình cờ lại gặp anh trong hoàn cảnh như vầy.”
“Chào Jack.” Không hề có nụ cười nào đáp lại.
“Chắc anh cũng đoán ra là anh bắt gặp quả tang tôi đang vội về nhà với vợ con.”
“Ừ, tôi cũng đoán vậy.” Bob có vẻ không kiên định lắm. Tốt.
“Tôi đã làm cả ngày dài ở công ty, thật mệt mỏi. Tôi nghĩ là tôi chỉ phạm luật có chút xíu thôi – đây là lần đầu tiên đấy.” Jack vừa nói vừa lấy chân di di trên hòn đá cuội bên vệ đường. “Diane mới gọi tôi và nói về món bò rán và khoai tây cho buổi tối nay. Anh biết ý tôi muốn nói gì không?”
“Tôi biết chứ. Tôi còn biết rằng anh là người “có tiếng” trong vùng này nữa.”
Oái! Kiểu này có vẻ tình hình đang xoay chuyển hướng xấu đi rồi. Tới lúc phải đổi chiến thuật thôi. “Thế đồng hồ của anh bấm lúc tôi chạy vận tốc bao nhiêu thế?”
“Bảy mươi mốt. Anh có thể vui lòng vào xe ngồi lại không?”
“Ừm… hoãn đã, Bob à. Tôi cũng nhìn đồng hồ của tôi khi tôi vừa thấy anh. Tôi thấy chỉ vừa chạm mức 65 thôi mà.” Lời nói dối trở nên rất tự nhiên mỗi khi người ta lâm vào cảnh có thể bị nộp phạt như thế này.
“Jack, anh hãy vào lại trong xe đi.”
Bối rối, Jack khom người chui vào trong xe qua cánh cửa đang mở. Đóng mạnh cánh cửa xe, anh bắt đầu bật công tắc xe. Anh chẳng vội vàng gì mở cửa sổ ra cả. Vài phút nặng nề trôi qua. Bob xé một tờ khỏi tập giấy. Tại sao anh ta chẳng hỏi bằng lái xe nhỉ? Jack nghĩ bụng rằng “dù có lí do gì đi nữa, chắc cũng cả tháng nữa mình mới lại ngồi gần ngài cảnh sát kia lại trong nhà thờ.”
Một cái gõ nhẹ vào cửa sổ phía trên đầu Jack. Bob đang đứng đó, trên tay đang xếp tờ giấy lại. Jack quay cửa sổ xuống một chút, chỉ là một kẽ hở khoảng 5 xen-ti-mét, chỉ vừa đủ để Bob thò tay đưa mảnh giấy vào thôi.
“Cám ơn.” Jack không thể kìm được cái vẻ coi thường trong giọng nói.
Bob chẳng nói tiếng nào, quay bước trở lại xe của anh ta.
Jack nhìn Bob qua kính xe. Anh mở tờ giấy ra đọc. Không biết phạt mình bao nhiêu đây? Chờ một phút.
Cái gì đây? Có vẻ như chuyện đùa. Đây không phải là một tờ biên bản phạt vi phạm luật giao thông.
Jack bắt đầu đọc: “Jack thân mến, thời gian trước tôi có một đứa con gái nhỏ. Lúc nó mới sáu tuổi thì chết vì bị một chiếc xe tông vào. Anh đoán xem – đó là một người chạy quá tốc độ. Đương nhiên là anh ta bị phạt một số tiền, và cũng bị tù trong thời gian ba tháng, sau đó thì anh ta đã được tự do. Tự đo để ôm hôn những đứa con gái của anh ta. Còn tôi thì chỉ có một đứa mà thôi, và tôi phải đợi cho đến khi trở về thiên đàng thì mới có thể lại được ôm nó vào lòng. Cả ngàn lần, tôi cố gắng để tha thứ cho người đàn ông kia. Cả ngàn lần tôi nghĩ rằng tôi đã tha thứ. Cũng có thể tôi đã làm được điều đó, nhưng tôi phải làm lại điều đó hoài. Bây giờ cũng vậy… Xin hãy cầu nguyện cho tôi. Và cũng hãy cẩn thận. Bây giờ đứa con trai nhỏ là tất cả những gì còn lại mà tôi có. Bob.”
Jack ngoái đầu lại, vừa lúc chiếc xe của Bob quay đầu và hướng ra đường cái. Jack nhìn theo cho đến khi chiếc xe chạy khuất. Mười lăm phút sau đó, Jack cũng quay đầu xe và lái chầm chậm về nhà. Anh vừa lái xe vừa cầu nguyện xin Chúa tha thứ, và anh nghĩ sẽ làm vợ con ngạc nhiên khi ôm vợ và những đứa nhóc con mình vào lòng ngay khi anh bước vào nhà.
Suy gẫm
Chúa ban cho mỗi chúng ta cuộc sống với những niềm vui và phước hạnh mỗi ngày. Chúng ta đang sống như thế nào? Có làm vinh hiển danh Chúa trong những hành động, suy nghĩ, lời nói, trong sinh hoạt hằng ngày của mình không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
I Cô-rinh-tô 10:31
Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm.
**
Chúa ơi, con vừa đến đây!
Vào một buổi trưa nọ, một vị mục sư dạo một vòng qua nhà thờ mình chủ tọa. Ông quyết định bước vào đền thờ để xem có ai đến cầu nguyện không?
Vừa lúc đó, cửa sau nhà thờ mở ra và một người đàn ông lớn tuổi từ từ đi xuống giữa hai hàng ghế. Mục sư có vẻ không vui trong lòng khi nhìn thấy vẻ nhếch nhác của ông, dường như ông ta đã mấy ngày không cạo râu… Chiếc áo sơ mi trên người ông ta mặc nhăn nhó, còn chiếc áo khoác thì có vẻ đã cũ sờn. Người đàn ông tiến đến, quỳ xuống tại một hàng ghế, cuối đầu một lúc, rồi đứng dậy và bước ra.
Ngày qua ngày, vào mỗi buổi trưa khoảng tầm đó, người đàn ông nọ đều đặn đến và đi. Và trưa nào cũng vậy, ông ta chỉ quỳ gối một chốc mà thôi.
Vì thế, mối nghi ngờ trong lòng vị mục sư ngày càng tăng. Ông suy nghĩ và lo lắng rằng ông già nọ có thể đến theo dõi nhà thờ và lập kế hoạch đánh cắp cũng nên. Thế rồi một lần nọ, ông quyết định đến hỏi thăm người đàn ông lạ mặt kia, “Xin lỗi, tôi thường thấy ông đến đây vào buổi trưa. Ông đến làm gì thế?”
Người đàn ông trả lời rằng ông làm việc ở gần đây. Giờ cơm trưa của ông khoảng nửa tiếng, và ông dùng thời gian này để cầu nguyện, hầu cho có được thêm năng lực từ nơi Chúa để sống mỗi ngày.
“Tôi chỉ đến với Chúa một lúc thôi, vì nhà máy tôi làm cũng hơi xa nơi đây một chút. Khi tôi quỳ gối và thưa chuyện với Chúa, tôi chỉ nói với Ngài vài điều như vầy:
“Chúa ơi, con vừa mới đến để nói chuyện với Ngài đây. Con tạ ơn Chúa rất nhiều, vì con đã tìm được mối tương giao mật thiết với Chúa, và vì Ngài gánh hết tội lỗi của con. Con không biết cầu nguyện gì nhiều, nhưng con suy nghĩ về Chúa mỗi ngày. Chúa Jesus ơi, con là Jim, con vừa đến để nói chuyện với Ngài hôm nay đây.”
Ông mục sư nghe xong, lòng cảm thấy ngượng ngùng và khó chịu với chính mình về những gì mình suy nghĩ. Ông bảo với Jim rằng bất cứ lúc nào ông muốn cầu nguyện thì hãy đến đây, nhà thờ luôn rộng cửa đón ông.
Đến giờ phải đi làm, Jim mỉm cười, nói lời cám ơn và tạm biệt. Ông vội vàng đi ra cửa…
Về phần vị mục sư, ông đến, quỳ gối trước tòa giảng, việc mà từ trước đến nay ông chưa từng làm, và cầu nguyện nơi đó. Tấm lòng cứng cỏi, khô hạn của ông tan chảy ra và được sưởi ấm bằng tình yêu Chúa. Ông cầu nguyện với Ngài. Nước mắt tuôn dài, ông bắt đầu lặp lại lời cầu nguyện đơn sơ của Jim:
“Chúa ơi, con vừa mới đến để nói chuyện với Ngài hôm nay. Con tạ ơn Chúa rất nhiều, vì con đã tìm được mối tương giao mật thiết với Chúa, cảm tạ Chúa vì Ngài gánh hết cả tội lỗi của con. Con không biết cầu nguyện gì nhiều, nhưng mỗi ngày con suy niệm về tình yêu của Ngài. Chúa Jesus ơi, chính là con đây, con vừa đến để nói chuyện với Ngài hôm nay đây.”
Lời cầu nguyện thật đơn sơ, nhưng khi thốt lên những lời này, lòng vị mục sư được thay đổi lớn, và ông cảm nhận được một mối liên lạc mật thiết với Chúa.
Một ngày sau đó, vị mục sư không thấy ông già Jim đến cầu nguyện nữa. Và nhiều ngày trôi qua, ông vẫn không thấy Jim trở lại. Vị mục sư bắt đầu lo lắng. Ông tìm đến nhà máy nọ và hỏi thăm về Jim, người ta cho biết Jim đang bị đau và đã nhập viện. Ở bệnh viện, bác sĩ và y tá cũng lo lắng cho tình trạng của Jim, nhưng ngược lại, ông lại chẳng có vẻ gì buồn rầu, lo lắng cả.
Cả tuần khi Jim ở trong bệnh viện, ông đem một không khí mới mẻ vào đó. Ông mỉm cười với tất cả mọi người, và lây cho họ niềm vui. Với Jim, đem niềm vui đến cho những người chung quanh là phần thưởng của ông. Vị y tá trưởng thật không tài nào hiểu nổi vì sao Jim lại quá đổi vui mừng mỗi ngày, dù chẳng có ai gửi hoa, cũng chẳng ai gọi điện hay đến thăm hỏi ông cả.
Vị mục sư đến bên giường bệnh. Cô ý tá dễ mến nói cho ông biết rằng bệnh nhân thật tội nghiệp, chẳng có bạn bè hay người thân chăm sóc, ông ta chẳng có chốn nào để nương thân cả.
Jim từ từ mở mắt ra, nhìn với vẻ ngạc nhiên và nói với một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt già nua, “Cô y tá đã sai rồi, cô ấy không biết đâu, ở nơi đây, vào buổi trưa mỗi ngày, Ngài đến đây. Một người bạn thân thiết của tôi đến thăm tôi. Ngài sẽ ngồi đây, ngay cạnh bên, cầm lấy tay tôi, rồi sẽ cuối xuống nói chuyện với tôi:
“Ta vừa mới đến để nói chuyện với con đây, Jim. Ta rất hạnh phúc vì con và Ta đã tìm được mối tương giao mật thiết với nhau, và Ta vui lòng gánh hết tội lỗi của con. Ta luôn luôn vui thích nghe con cầu nguyện và Ta luôn nhớ đến con mỗi ngày. Jim ơi, Ta là Jesus, đã đến tìm con hôm nay đây.”
Suy gẫm
Cuộc sống khó khăn, nhiều bận rộn, đến nỗi đôi khi chúng ta không còn thời gian để tương giao với Chúa. Nhưng ai đã thiết lập được mối tương giao mật thiết với Chúa sẽ kinh nghiệm được niềm vui, tình yêu và sư thỏa lòng mà Chúa dành cho mỗi con cái Ngài.
Hôm nay, bạn đã dành thời gian trò chuyện với Chúa hay chưa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Kh 3:20
Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta.
**
Người đàn ông vô gia cư
Khu vực đậu xe của nhà thờ buổi sáng Chúa nhật hôm ấy hầu như không còn chỗ. Các con cái Chúa từ khắp nơi trong khu vực về đây nhóm lại. Giống như các nhà thờ lớn khác, mỗi tín đồ ở đây thường chọn sẵn cho mình một chỗ ngồi thích hợp ở phía trước bục giảng, bắt đầu từ những hàng ghế thứ ba, thứ tư trở đi.
Nhà thờ ở đây thật có kinh nghiệm khi trang bị các ghế dựa để mọi người ngồi thoải mái như khi xem tivi tại nhà vậy. Các cụ cao tuổi thì cứ luôn ngồi mãi một hàng ghế cố định của họ qua hàng bao thập kỷ. Và các anh chàng hậu đậu thì không rời khỏi mấy góc cuối trong nhà thờ.
Sáng Chúa nhật hôm ấy, có một người lạ mặt đứng ở một góc của bãi đậu xe, gần thùng đựng rác. Khi các gia đình đậu xe vào bãi, họ chú ý thấy ông ta đang đứng đó lục lọi thùng rác, trông thật bẩn thỉu. “Ồ không thể được, em không tin nổi anh ơi,” một quý bà thì thầm vào tai chồng. “Chẳng lẽ đó là điều có thể xảy ra ở chỗ này hay sao – một đám ăn không ngồi rồi, dơ dáy bẩn thỉu lảng vảng quanh nhà thờ.”
Một bé gái lo lắng níu áo cha, “mà ba ơi, sao lại…”
Người cha thì bận rộn dò xét người lạ mặt nọ, ông ta đang trong một trang phục rộng thùng thình, chiếc quần lỗi thời và chiếc áo sơ mi sờn rách đang lục lọi và làm dơ bẩn cả một khu vực đậu xe.
“Đừng nhìn ổng, con cưng,” người cha nói nhỏ và vội vàng hối đứa bé đi vào lớp học Kinh Thánh của nó.
Tiếng nhạc du dương trổi lên thánh thót, vang vọng cả ngôi thánh đường, trong khi những tín hữu dần dần ổn định chỗ ngồi. Ban hát lễ tôn vinh Chúa một bài Thánh ca thật cảm động, ” Gần nơi Cha lòng bạn yên thỏa… Khúc Thánh Ca nguồn vui tâm hồn…”
Bỗng nhiên ánh sáng từ bên ngoài tràn vào ngay giữa lối đi vào nhà thờ. Hai cánh cửa nhà thờ chợt mở toang và người đàn ông vô gia cư, nhếch nhoác và bẩn thỉu nọ, đang ngẩng cao đầu tiến về phía trước toà giảng. “Ồ không thể được, sao lại là ông ta?”, ai đó thốt lên.
“Ổng nghĩ ổng là ai chứ?” Ông trưởng ban trật tự lằm bằm trong cổ họng khi nhìn thấy.
Người lạ mặt đặt chiếc giỏ đầy rác rưởi của mình xuống ngay băng ghế hàng đầu tiên. Cái ghế mới vừa được bọc lại bằng loại vải đắt tiền cách đây ba tháng. Nhạc ngừng trổi khúc. Và trước khi mọi người kịp làm gì, người lạ mặt nọ thẳng bước hướng lên bục giảng. Ông bước đến đứng bên cạnh cái bục giảng bằng gỗ sồi chạm trổ tỉ mỉ, nhìn xuống toàn hội chúng lúc đó đang trố mắt kinh ngạc.
Người đàn ông râu tóc bù xù nói với giọng hơi ngập ngừng, nhưng trầm ấm và mạch lạc, rõ ràng. Vừa cởi nút áo khoác, ông vừa nói về Chúa Jesus và tình yêu mà Ngài dành cho hết thảy mọi người.
“Chúa Jesus có một tình yêu tuyệt vời, tình yêu Ngài vượt trội hơn hẳn những gì mà chúng ta xứng đáng nhận.”
Bước ra khỏi cái quần rộng thùng thình, người đàn ông ấy tiếp tục mô tả sự tha thứ mà Chúa dành sẵn cho mỗi một người, sự tha thứ hoàn toàn vô điều kiện…
“Chúa yêu chúng ta vô điều kiện. Ngài ban mạng sống Ngài cho chúng ta một cách nhưng không. Vô điều kiện và đời đời, chúng ta có thể hưởng sự bình an từ Ngài, và chúng ta được bảo đảm rằng dù chúng ta ra thể nào, dù chúng ta đến từ đâu, dù chúng ta hay ngược đãi người khác và cả chính mình, thì chúng ta luôn luôn có nguồn hy vọng sống.”
“Trong Chúa Jesus, luôn luôn có hy vọng sống.”
“Quí vị thấy đó, không bao giờ là quá trễ để chúng ta thay đổi,” ông ta tiếp tục.
“Ngài là Đấng có quyền thay đổi, và là Nguồn của sự tha thứ. Ngài đến để mang cho chúng ta một cuộc sống mới ý nghĩa.”
Các quý ông và quý bà trong hội thánh lúng túng khi lẽ thật được bày tỏ theo cách này, nó làm họ như là bị điện giật vậy. Người đàn ông lạ kia kéo bộ râu giả ra…
“Tôi đứng đây để thưa với quý vị rằng chúng ta được yêu thương với một tình yêu khác hẳn tình yêu loài người, một tình yêu tuyệt vời mà loài người không thể hiểu nỗi, một tình yêu có thể giúp chúng ta biết chấp nhận và yêu thương người khác.” Rồi ông tiếp, “Xin chúng ta cùng cầu nguyện chung với nhau.”
Vị mục sư khôn ngoan nọ – dưới bộ dạng của một người vô gia cư – đã không giảng một bài giảng nào ngày hôm ấy, nhưng khi ra về, tất cả mọi người đều mang biết bao nhiêu suy nghĩ trong lòng…
Suy gẫm
Chúa yêu bạn với một tình yêu không gì sánh bằng!
Bạn đang yêu Chúa như thế nào và tình yêu đó được bày tỏ như thế nào với những người quanh bạn?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IGi 4:20
Vì có ai nói rằng: Ta yêu Đức Chúa Trời, mà lại ghét anh em mình, thì là kẻ nói dối; vì kẻ nào chẳng yêu anh em mình thấy, thì không thể yêu Đức Chúa Trời mình chẳng thấy được
**
Viên gạch
Charles là một thanh niên trẻ tuổi khá thành công trong công việc. Anh ta vừa tậu được một chiếc xe mới. Anh lái xe trên con đường ở vùng ngoại ô, chiếc Jaguar lướt nhanh thật êm ái. Charles xem chừng có những đứa trẻ đang chạy chơi hai bên đường không, giữa những hàng xe đang đậu kia. Bất chợt Charles lái xe chậm lại vì anh cảm giác hình như mình vừa nhìn thấy một cái gì đó ở phía trước.
Khi lái xe ngang qua, anh chẳng thấy một đứa trẻ nào cả. Thay vào đó, một cục gạch bay thẳng vào cánh cửa xe của anh. Charles thắng gấp và anh lái xe lùi lại chỗ viên gạch vừa được ném ra.
Charles tức giận nhảy ra khỏi xe, chộp lấy đứa trẻ đứng gần mình nhất và gằn giọng, “Mày là ai hả? Mày làm cái khỉ gì thế? Cái xe của tao mới tinh như vậy, mày ném cục gạch vô thì có biết tao phải tốn bao nhiêu tiền để sửa không hả? Tại sao mày lại làm như thế, nhóc con?”
Cậu bé năn nỉ giải thích. “Thưa chú, cháu xin lỗi. Cháu không biết phải làm gì khác nữa. Cháu đành phải quăng cục gạch ra bởi vì chẳng ai chịu dừng lại giúp cháu cả.” Nước mắt lăn dài trên má, cậu bé chỉ về hướng những chiếc xe đang đậu đằng kia.
“Em trai cháu ở đằng kia kìa,” cậu bé nói. “Nó bị tuột thắng và ngã khỏi chiếc xe lăn, mà cháu thì không biết làm sao để bế nó lên cả.” Vừa khóc, cậu bé vừa hỏi Charles, “chú có thể làm ơn bế em cháu đặt vào xe lăn giúp cháu được không ạ? Nó đang đau lắm, mà nó nặng quá cháu không bế lên nổi.”
Không đợi đứa trẻ nói thêm, Charles cố gắng nuốt nhanh cái nghẹn ngào trong cổ họng và anh vội vàng đến bên, đỡ đứa em dậy, đặt nó vào chiếc xe lăn, rồi anh lấy chiếc khăn tay yêu quý của mình phủi bụi đất dính trên người đứa bé, xem xét những vết trầy xước trên người nó. Anh nhìn đứa bé từ đầu đến chân, để chắc chắn rằng nó không bị làm sao cả.
“Cám ơn chú, xin Chúa ban phước lại trên chú,” đứa bé mừng rỡ nói với người khách lạ. Sửng sốt trước lời nói của đứa trẻ, Charles đứng im nhìn cậu bé nhỏ đẩy chiếc xe lăn cùng đứa em tật nguyền hướng về nhà.
Charles trở lại chiếc xe của mình, bước chân anh như nặng nề quá đỗi. Vết lõm trên cửa xe vẫn còn đó, nhưng anh chẳng màng đến chuyện mang xe đi sửa nữa. Anh muốn giữ cái vết xước ấy để nhắc nhở chính mình một điều: Đừng chạy qua cuộc đời quá nhanh, đến nỗi người khác phải quăng cục gạch vào mình để gây sự chú ý.
Suy gẫm
Chúa đang thì thầm nói với mỗi chúng ta. Thỉnh thoảng khi chúng ta không có thời gian để lắng nghe Chúa, Ngài phải ném những “viên gạch” để chúng ta dừng lại, chú ý đến những gì Ngài muốn nói với chúng ta. Tất cả đều là sự lựa chọn của chúng ta: Lắng nghe tiếng thì thầm… hay chờ đợi một viên gạch được ném ra!
Bạn có dành thời gian tỉnh lặng để lắng nghe điều Chúa đương phán với bạn không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ISa 3:10
Đức Giê-hô-va đến đứng tại đó, gọi như các lần trước: Hỡi Sa-mu-ên! hỡi Sa-mu-ên! Sa-mu-ên thưa: Xin hãy phán, kẻ tôi tớ Ngài đương nghe!
**
Chúa có thể làm gì với 57 xu?
Vào một buổi sáng Chúa nhật, tại một ngôi nhà thờ nhỏ kia, có một cô bé nhỏ đang đứng khóc thút thít. Cô bé không được vào lớp học Kinh Thánh vì lớp học đã quá đông đúc, không còn chỗ cho cô bé nữa.
Bất chợt ông mục sư đi ngang qua, cô bé òa khóc nức nở, “Ông mục sư ơi, con không được vào lớp trường Chúa nhật học.”
Nhìn cô bé con mặt mày lấm lem, đầu tóc rối bù, ông mục sư dường như hiểu được vấn đề. Ông cầm tay dẫn cô bé vào lớp trường Chúa nhật, tìm một chỗ ngồi để cô bé được học Kinh Thánh vào buổi sáng hôm đó.
Đứa trẻ rất cảm động về những gì ông mục sư đã làm. Hôm đó, cho đến khi đi ngủ, nó vẫn tiếp tục nghĩ về những đứa trẻ giống mình, chúng nó cũng không có điều kiện để được học biết về Chúa Giê-xu.
Khoảng hai năm sau đó, cô bé nọ qua đời trong một căn phòng tồi tàn, nằm trong một chung cư đông đúc. Ba mẹ cô gọi ông mục sư – vốn là người đã làm bạn với con gái của ông bà suốt những năm qua – đến làm lễ tang cho con gái nhỏ của họ.
Khi thân thể bé bỏng của cô bé được dời ra khỏi giường, mọi người chợt thấy một chiếc ví sờn rách, cũ kỹ rơi ra. Có lẽ chiếc ví được nhặt đâu đó từ những đống đồ cũ bị người ta vứt đi.
Trong ví là 57 xu và một mảnh giấy nhàu nát với những nét chữ nguệch ngoạc, “Món tiền này dùng để xây dựng một ngôi nhà thờ lớn hơn, đủ chỗ cho tất cả những đứa trẻ có thể đến học trường Chúa nhật”. Đó là số tiền dâng mà cô bé đã dành dụm trong suốt hai năm qua.
Khi đọc những dòng chữ đơn sơ ấy, ông mục sư đã khóc. Ông lập tức hiểu ra mình cần phải làm điều gì. Cầm tờ giấy của cô bé nhỏ và quyển sổ soạn bài giảng cũ kỹ của mình, ông mục sư bước lên toà giảng. Ông kể lại toàn bộ câu chuyện về tình yêu không vị kỷ và sự dâng hiến của cô bé. Và ông đưa ra một thách thức với ban trị sự là làm sao có thể quyên góp đủ tiền để xây dựng một ngôi nhà thờ lớn hơn.
Nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại tại đó!
Một tờ báo biết được câu chuyện cảm động này đã đăng trên số báo của họ. Rồi một người buôn bán bất động sản đọc được câu chuyện kể trên đã dâng hiến một mảnh đất trị giá hàng ngàn dollar. Ông ta chủ động liên hệ với hội thánh, và khi được hội thánh cho biết là không đủ ngân quĩ để mua mảnh đất đó của ông, ông mỉm cười và nói rằng ông bán nó với giá 57 xu.
Trong lúc đó, các tín hữu trong nhà thờ cũng đã quyên góp được một số tiền lớn. Nhiều người ở khắp nơi khi nghe được về câu chuyện trên đã rộng lòng dâng hiến cho hội thánh trong việc xây dựng nhà thờ mới. Trong vòng 5 năm, món quà của cô bé nhỏ đã gia tăng lên đến 250,000 dollar, một số tiền rất lớn vào lúc bấy giờ. Tình yêu không vị kỷ của cô bé đã đem lại một kết quả to lớn.
Khi bạn có dịp đến thành phố Philadelphia, hãy thăm nhà thờ Temple Baptist với hơn 3300 chỗ ngồi, và một trường đại học với hàng trăm sinh viên đang được huấn luyện
Cũng hãy đến thăm bệnh viện Good Samaritan, và tòa nhà dành riêng cho trường Chúa nhật với hàng trăm giáo viên dạy các lớp trường Chúa nhật, hầu cho không một đứa trẻ nào trong vùng mong muốn học trường Chúa nhật lại bị bỏ rơi.
Trong một phòng của toà nhà này, bạn sẽ thấy một bức chân dung với khuôn mặt dịu dàng của một cô bé, chính là người mà chỉ với chỉ 57 xu được dành dụm trong sự hi sinh, đã làm nên một sự kiện vĩ đại.
Bên cạnh bức ảnh đó là tấm hình của vị mục sư đáng kính của cô bé, tiến sĩ Russell H. Conwell, tác giả cuốn sách “Những cánh đồng kim cương.”
Suy gẫm
Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy thất vọng vì nghĩ rằng mình không có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh hiện tại. Cần nhớ rằng nếu tự sức mình thì chúng ta sẽ chẳng làm được gì, nhưng với sự hướng dẫn và quan phòng của Chúa, chúng ta sẽ luôn đạt được những kết quả thật phi thường.
Đừng bao giờ thất vọng khi cuộc sống làm cho chúng ta cảm thấy mình vô giá trị, nhưng hãy vui mừng và biết rằng Chúa Toàn Năng có thể làm được những việc vô cùng to lớn qua đời sống của chính mỗi người, nếu chúng ta bằng lòng dâng mình cho Chúa, để Chúa hướng dẫn mọi lối trong cuộc đời mình.
Bạn có sẵn sàng không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Eph 3:20
Vả, Ðức Chúa Trời, bởi quyền lực cảm động trong chúng ta, có thể làm trổi hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng,
**
Dây yêu thương
Trời chạng vạng tối, Joe đang lái xe về nhà trên con đường làng nhỏ hẹp. Tìm công việc giữa cộng đồng người Trung Đông này quả thật rất khó, thật tình mà nói, nó cũng rề rày như chiếc xe Pontiac cà tàng của anh. Nhưng Joe quyết không bao giờ từ bỏ ý định tìm kiếm công việc. Kể từ lúc nhà máy sản xuất quần áo hiệu Levis đóng cửa, Joe đã trở nên thất nghiệp. Và thế là mùa đông này lại càng lạnh hơn…
Đường sá thật vắng vẻ. Chẳng ai thèm đi lại trên con đường này, trừ phi họ đang rời khỏi nó. Hầu hết các bạn của Joe đã rời khỏi khu vực này. Họ có mái ấm gia đình để vui vầy và có những giấc mơ để hướng đến. Nhưng Joe thì vẫn đóng đô ở đây. Dù sao, đây cũng là nơi mà anh đã chôn cất ba mẹ mình, cũng là nơi anh sinh ra và lớn lên.
Con đường này quá quen thuộc đối với Joe đến nỗi anh không cần bật đèn xe cũng có thể nói cho chúng ta biết cái gì hiện có ở hai bên đường. Trời càng lúc càng tối dần, và có dấu hiệu cơn bão tuyết đang sắp đến. Joe phải cố gắng rời khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt.
Joe lướt xe nhanh đến nỗi suýt nữa thì anh đã không nhìn thấy một phụ nữ lớn tuổi đang gặp khó khăn bên đường. Nhưng dù trong ánh sáng mờ mờ, Joe cũng có thể nhận thấy bà đang cần giúp đỡ. Anh đỗ xe đằng trước chiếc Mercedes của bà rồi bước ra ngoài. Chiếc Pontiac của anh vẫn nỗ máy xình xịch trong khi anh tiến về phía bà ta.
Mặc dù nhìn thấy nụ cười nở trên môi Joe, người phụ nữ nọ vẫn lo lắng. Chắc chẳng có ai lại tốt đến nỗi có thể dừng lại giúp bà vào giờ này. Không biết anh ta có định làm hại bà không? Anh ta nhìn không đáng tin cậy một chút nào cả, trông có vẻ rất nghèo đói. Joe cũng có thể nhìn thấy bà ta đang đứng đó run rẩy, sợ hãi. Anh hiểu cái cảm giác của bà lúc này. Thế nên anh nói, “Cháu dừng lại để giúp bà đây. Bà vào lại trong xe ngồi chờ đi cho ấm, cháu sẽ coi xem có sửa xe được không. À, tên cháu là Joe.”
Chiếc xe của bà bị nổ lốp. Tuy có mang theo một chiếc lốp khác, nhưng với độ tuổi của bà thì việc thay một chiếc lốp xe là khó khăn biết chừng nào. Joe bò vào gầm xe tìm chỗ để đặt đồ nâng xe lên, khuỷu tay anh trầy xước cả. Cuối cùng thì Joe đã thay xong lốp xe cho người phụ nữ nọ. Nhưng quần áo anh thì lấm lem, còn tay chân thì trầy trụa. Khi Joe đang vặn chặt ốc vít cuối cùng lại, bà mới kéo cửa sổ xe xuống và bắt đầu nói chuyện với anh. Bà ở St. Louis và có chuyện phải đi ngang qua con đường này. Bà không biết phải nói làm sao để diễn tả được sự biết ơn với anh. Joe chỉ mỉm cười trong lúc đóng lại cốp xe sau cho bà.
Người phụ nữ hỏi Joe rằng bà phải trả anh bao nhiêu. Anh muốn bao nhiêu tiền bà cũng trả được. Bà rất biết ơn anh, trong khi ngồi chờ anh sửa xe, bà đã tưởng tượng biết bao nhiêu điều kinh khiếp có thể xảy ra cho mình nếu như không có Joe dừng lại giúp. Nhưng Joe chưa bao giờ nghĩ về tiền bạc. Đối với anh, giúp đỡ người khác không phải là một nghề nghiệp để kiếm tiền. Đây chỉ là việc giúp đỡ một ai đó khi họ cần đến mình, vì chính Chúa Ngài đã dành sẵn rất nhiều người để giúp đỡ anh trước kia. Anh đã sống cả cuộc đời mình như vậy và anh sẽ không làm khác đi. Joe nói với bà rằng nếu bà muốn trả công cho anh, thì chỉ cần lần sau khi bà gặp ai cần sự giúp đỡ thì xin bà rộng lòng giúp đỡ họ; và Joe nói thêm, “và khi đó, bà sẽ nhớ đến cháu.”
Joe chờ cho đến khi bà nọ nổ máy xe và lái đi, anh mới tiếp tục về nhà. Hôm nay là một ngày lạnh lẽo và buồn tẻ nhưng Joe cảm thấy vui hơn sau khi gặp bà ta.
Về phần người phụ nữ nọ, sau khi lái xe được một vài cây số, bà thấy một quán nhỏ ven đường. Bà bước vào để ăn một chút gì cho đỡ đói, và cũng để bớt lạnh trước khi tiếp tục lái xe về nhà. Đó là một nhà hàng trông có vẻ nhớp nháp. Phía bên ngoài là hai trạm bơm xăng củ kỹ. Bà ít khi nào nhìn thấy một quan cảnh ảm đạm giống như vậy bao giờ.
Cô nhân viên phục vụ tiến đến và mang cho bà một chiếc khăn sạch để lau tóc. Cô ta có một nụ cười thật tươi, một nụ cười dường như theo cô suốt ngày. Bà để ý thấy rằng hình như cô ta đang mang thai được khoảng chừng 7 – 8 tháng, nhưng có vẻ như cô ta chẳng bao giờ để những cái mệt mỏi, khó chịu, đau đớn làm thay đổi tính tình cô. Bà ngạc nhiên suy nghĩ tại sao có những người có “quá ít” mà lại sẵn lòng cho đi “quá nhiều”, ngay cả đối một người hoàn toàn lạ mặt như bà. Bà chợt nhớ đến Joe.
Sau khi dùng xong bữa ăn, bà tính tiền bằng tờ 100 đô. Khi cô phục vụ bước vào quầy để lấy tiền thối, bà lẳng lặng rời khỏi quán. Lúc cô quay trở lại bàn thì chẳng thấy vị khách đâu nữa. Cô ngạc nhiên không biết bà ta đã đi đâu, chợt cô thấy một hàng chữ viết trên tấm khăn ăn. Cô đã khóc khi đọc lời nhắn, “Cô không nợ gì tôi cả, tôi cũng đã từng trong hoàn cảnh giống cô. Có người đã từng giúp tôi giống như tôi giúp cô vậy. Nếu cô muốn trả ơn tôi thì đây là điều mà cô sẽ làm. Đừng bao giờ để sợi dây yêu thương phải dừng lại ở đây.”
Cô vẫn còn có nhiều việc phải làm, dọn dẹp bàn ghế, đổ đầy các hũ đường và vài người khách đang bước vào quán, nhưng cô bảo họ tiệm đã đóng cửa, cô sẽ làm mọi thứ vào ngày mai. Đêm hôm đó, khi cô trở về nhà và bước vào giường, cô nghĩ về món tiền và những lời mà người khách nọ đã để lại. Làm sao mà bà ta biết được vợ chồng cô cần đến số tiền ấy biết nhường nào? Tháng sau đứa bé ra đời, lúc đó gia đình sẽ gặp khó khăn biết là bao nhiêu. Cô cũng biết rằng chồng cô lo lắng như thế nào… Và cô đến bên cạnh người chồng đang say ngủ, cô đã hôn nhẹ lên má chồng và thì thầm nho nhỏ, “Mọi điều rồi cũng ổn cả thôi mà, em yêu anh, Joe.”
Suy gẫm
Trong cuộc sống, có lúc chúng ta suy nghĩ rằng mình có quá ít, đến nỗi không thể chia sẻ gì cho người khác được. Nhưng chính Chúa là người Cha yêu thương, sẽ luôn ban tình yêu và ân điển dư dật trên chúng ta, là con cái Ngài. Xin hãy là một mắc xích trong sợi dây yêu thương bắt nguồn từ Thiên Chúa, để đem tình yêu Chúa đến với nhiều người.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
CoCl 3:14
Nhưng trên hết mọi sự đó, phải mặc lấy lòng yêu thương, vì là dây liên lạc của sự trọn lành.
**
Phước hạnh từ những chiếc gai
Sandra bước chầm chậm, cô đi trong cơn gió lạnh của tháng 11, hướng đến cửa hàng bán hoa.
Cuộc đời cô xưa nay vốn êm ả như cơn gió mùa xuân. Nhưng rồi vào lúc cô mang thai đứa con thứ hai được bốn tháng, thì một tai nạn xe cướp đi tất cả những êm ả ấy.
Trong tuần lễ Tạ ơn này, đúng ra cô đã hạ sinh một cậu con trai. Sandra rất đau buồn vì sự mất mát này. Mà vậy cũng chưa hết, công ty của chồng cô lại đang trên đà phá sản. Rồi cô em gái định đến thăm cô trong dịp lễ này lại vừa gọi đến thông báo cô ấy không thể đến được.
Một cô bạn của Sandra đã làm cô tức điên lên khi chia sẻ rằng những điều đau buồn cô đang gánh chịu là chương trình, là đường lối Chúa trên đời sống Sandra, để cô có thể trưởng thành hơn, và có thể cảm thông với những nỗi đau của người khác. “Cô ta thật chẳng hiểu tí gì về cảm giác của mình,” Sandra nghĩ.
Lễ Tạ ơn? Tạ ơn Chúa về cái gì chứ? Cô thầm nghĩ. Cảm tạ về anh tài xế bất cẩn nọ, đã lái chiếc xe tải tông vào sau xe cô hay sao? Hay là cảm tạ về cái túi đệm hơi trong xe đã cứu cô thoát chết nhưng lại lấy mất đứa con trong bụng cô?
“Xin chào, tôi có thể giúp gì cho chị ạ?” Người bán hoa nói làm cô giật cả mình.
“Tôi… tôi cần một bó hoa cho…” Sandra ngập ngừng nói.
“Cho lễ Tạ ơn phải không? Chị muốn hoa thật đẹp, hay bình thường? Hay chị muốn một kiểu hoa tôi gọi là “Đặc biệt cho lễ tạ ơn” mà khách hàng của tôi rất yêu thích?” Người bán hoa gợi ý. “Tôi bảo đảm rằng loài hoa biết kể chuyện đấy,” cô ta nói tiếp. “Hay chị muốn tìm cái gì mang ý nghĩa “biết ơn” cho mùa lễ năm nay?””
“Không hẳn vậy!” Sandra buột miệng. “Trong khoảng năm tháng trở lại đây, những gì tồi tệ nhất có thể xảy ra thì đã xảy ra với tôi cả.”
Sandra hối hận vì mình lỡ miệng nói ra suy nghĩ đó. Nhưng cô bị bất ngờ khi người bán hoa bình thản trả lời, “Tôi có một kiểu hoa hoàn toàn phù hợp cho cô đây.”
Vừa lúc đó, cái chuông nhỏ nơi cửa kêu đính đoong; người bán hoa nói, “Xin chào Barbara… Hoa của bà đặt đã sẵn sàng rồi đây.” Rồi cô ta nhẹ nhàng xin lỗi Sandra để đi vào trong, sau đó cô nhanh chóng xuất hiện trở lại, cầm trên tay một bó gồm cỏ dại màu xanh, những cái nơ, và những thân hoa hồng đầy gai. Ở dưới thân cây được bó lại cẩn thận, nhưng đặc biệt là “bó hoa” này chẳng hề có một bông hoa nào.
“Bà có muốn để vào hộp không?” Người bán hoa hỏi.
Sandra nhìn xem thử người khách hàng trả lời ra sao. Đây có phải chuyện đùa không? Ai lại muốn mua một bó toàn thân cây hoa hồng trơ trọi như thế! Nàng chờ cho người mua hoa cười ồ lên, nhưng bà ta chẳng cười gì cả.
“Vâng, nhờ cô bỏ vào hộp dùm,” Barbara trả lời với một nụ cười biết ơn. “Chắc cô nghĩ sau ba năm từ khi tôi có bó hoa đặc biệt này, tôi không quá xúc động về ý nghĩa của nó nữa, nhưng thật ra tôi vẫn có thể cảm giác nó rất rõ ràng… tất cả trở lại thật rõ ràng,” bà ta vừa nói vừa để tay lên ngực. Và rồi bà đi khỏi với “bó hoa đặc biệt” của mình.
“Ừmm..,” Sandra ngập ngừng, “người khách của chị vừa rồi… ừmm… vừa đi ra với một bó… không có hoa gì cả!”
“À, vâng, tôi đã cắt hết hoa đi. Đó chính là một bó “đặc biệt cho lễ cảm tạ.” Tôi gọi đó là “bó gai tạ ơn.”
“Ồ, thật à, chị đừng bảo là có người lại chịu trả tiền để mua bó gai ấy chứ!” Sandra kêu lên.
“Barbara đã đến đây với tâm trạng rất giống chị bây giờ,” người bán hoa giải thích. “Bà ấy nghĩ rằng mình chẳng có gì nhiều để tạ ơn cả. Bà mất người cha vì bệnh ung thư, công việc làm ăn của gia đình thất bại, cậu con trai thì rơi vào nghiện ngập hút chích, và chính bà ta phải đối diện với một cuộc giải phẫu lớn.”
“Cùng năm đó, chồng tôi qua đời,” cô ta tiếp tục nói, ” và đó là lần đầu tiên trong đời tôi đã trải qua mùa lễ một mình. Tôi không có con cái, không có chồng, không có gia đình bên cạnh, và nợ nần chồng chất nên tôi chẳng thể đi du lịch ở đâu được cả.”
“Rồi lúc đó chị làm gì?” Sandra hỏi lại.
“Tôi đã học để có thể tạ ơn về những chiếc gai,” người bán hoa trả lời nhẹ nhàng. “Tôi luôn luôn tạ ơn Chúa về mọi điều tốt Ngài làm trên đời sống tôi, và chẳng bao giờ phải thắc mắc về những điều tốt đến trong cuộc đời mình. Nhưng khi những điều tệ hại xảy ra, tôi luôn luôn hỏi tại sao! Phải mất nhiều thời gian để tôi học biết rằng, những lúc mờ mịt trong cuộc sống rất quan trọng. Chị biết không, Kinh Thánh nói rằng Chúa luôn an ủi chúng ta khi chúng ta buồn phiền, đau đớn, và từ sự an ủi của Ngài, chúng ta học để biết an ủi, nâng đỡ người khác.”
Sandra nhớ đây cũng chính là điều cô bạn gái đã cố gắng giải thích cho mình. “Tôi nghĩ sự thật là tôi không muốn sự an ủi. Tôi mất đứa con và tôi đã giận dữ với Chúa.”
Bỗng một người khách bước vào tiệm, một người đàn ông bị hói. “Chào Phil!” Người chủ tiệm nói to với ông ta.
“Vợ tôi bảo tôi đến lấy món “Đặc biệt cho lễ tạ ơn” của chúng tôi… 12 thân gai dài nhé!” Phil cười khi người bán hoa đưa cho ông bó thân cây gai được gói đẹp đẽ lấy từ tủ lạnh.
“Cái này cho vợ ông à?” Sandra nghi ngờ hỏi. “Phiền ông cho tôi hỏi, tại sao bà nhà lại thích bó thân cây toàn gai thế này thế?”
“Ồ, chẳng phiền gì cả.. Tôi vui khi nghe chị hỏi điều này,” Phil trả lời. “Hai năm trước đây, tôi và vợ gần li dị đến nơi. Sau tuổi bốn mươi, chúng tôi thật sự sống trong tình trạng tồi tệ, nhưng trong tình yêu và sự dẫn dắt của Chúa, chúng tôi giải quyết dần dần những nan đề. Chúa cứu hôn nhân của chúng tôi. Jenny, cô chủ tiệm hoa đây, kể cho tôi nghe rằng cô ấy giữ một chậu toàn thân gai hoa hồng để nhắc nhở cô về điều cô ấy học trong những giai đoạn “chông gai”, và điều đó nhắc nhở tôi. Tôi đem về nhà một vài thân gai ấy. Vợ chồng tôi quyết định dán nhãn lên những thân gai ấy từng nan đề cụ thể trong cuộc sống mình, và cảm tạ về những điều học được từ những nan đề ấy.”
Khi Phil trả tiền cho cô chủ tiệm, ông nói với Sandra, “Bó hoa đặc biệt ấy rất có ý nghĩa, tôi giới thiệu nó với chị đấy!”
“Tôi chẳng biết liệu tôi có thể cảm tạ Chúa về những cái gai trong cuộc sống mình không nữa,” Sandra nói. “Nó quá sức… mới mẻ!”
“Vâng,” người bán hoa trả lời cẩn thận, “theo kinh nghiệm của riêng tôi, những cái gai nhọn làm cho hoa hồng thêm quý giá và đặc biệt. Chúng ta coi trọng ý muốn Chúa trong những lúc nguy khó hơn là những lúc bằng an. Hãy nhớ rằng, Chúa Jesus đã đội chiếc mão bằng gai để rồi chúng ta có thể nhận biết được tình yêu vô đối của Ngài. Đừng nên khó chịu với những chiếc gai.”
Nước mắt lăn dài trên má Sandra. Lần đầu tiên từ khi tai nạn xảy ra, cô cảm thấy như được cởi bỏ khỏi những gánh nặng nề trong lòng. “Tôi cũng sẽ mua mười hai thân cây gai đó nữa,” cuối cùng cô cố gắng nói trong nghẹn ngào.
“Tôi cũng đã mong cô sẽ chọn chúng,” cô chủ tiệm hoa nói nhẹ nhàng. ” Tôi sẽ bó chúng rất nhanh thôi.”
“Cám ơn chị. Tôi phải nợ chị gì đây?”
“Không cần gì cả. Chỉ cần một lời hứa rằng, chị sẽ để Chúa chữa lành vết thương lòng mình. Bó hoa của năm đầu tiên luôn luôn đặc biệt.” Người bán hoa mỉm cười và đưa một tấm thiệp cho Sandra. “Tôi đính kèm vào bó hoa của chị một tấm thiệp, có thể là chị sẽ thích đọc nó đấy.”
Tấm thiệp ghi rằng: “Lạy Chúa, con chưa bao giờ cảm tạ Ngài về những cái gai trong cuộc sống mình. Con đã tạ ơn Chúa cả ngàn lần về những hoa hồng Chúa ban, nhưng chưa từng tạ ơn Ngài về những cái gai. Xin hãy dạy con về sự vinh quang trong những khó khăn mà con phải mang; xin dạy con biết giá trị của những chông gai trong cuộc đời con. Xin Chúa hãy dạy con biết đến gần Ngài trên con đường khốn khó. Xin Chúa chỉ cho con thấy, sau làn nước mắt, màu sắc của chiếc cầu vồng sẽ sáng rực rỡ hơn.”
Hãy ngợi khen Chúa về những hoa hồng Ngài ban cho; và hãy cảm tạ Ngài về những chiếc gai trong cuộc đời.
Suy gẫm
Năm mới đến, chúng ta thường nhìn lại để suy gẫm về năm cũ, xem những thành bại, những vui buồn của cuộc sống mình. Bạn đã có được những điều gì để tạ ơn Chúa?
Đối diện với hoàn cảnh khó khăn, những thất bại đến với cuộc sống mình, bạn có thể dâng lời tạ ơn Chúa không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Thi 103:2-4
2 Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, Chớ quên các ân huệ của Ngài.
3 Ấy là Ngài tha thứ các tội ác ngươi, Chữa lành mọi bịnh tật ngươi,
4 Cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư nát, Lấy sự nhơn từ và sự thương xót mà làm mão triều đội cho ngươi.
**
Kiến và Ve Sầu
Một ngày nọ, mẹ của Mark, một cậu bé 9 tuổi, nhận được một cú điện thoại không mong đợi vào giữa trưa trong giờ làm việc. Đó là cô giáo ở trường của cậu con trai bà gọi đến.
“Bà Smith à, hôm nay, ở lớp con trai bà có một chuyện bất thường xảy ra. Con trai bà đã làm một chuyện mà tôi hết sức bất ngờ, tôi nghĩ tôi phải nói ngay cho bà biết đây.”
Thường khi, các bà mẹ ít khi mong đợi cô giáo của con cái họ gọi vào giữa ngày như thế. Mẹ của Mark cũng vậy, bà cảm thấy lo lắng và nóng ruột khi nhận cuộc điện thoại với lời mở đầu như thế. “Không biết có chuyện gì đây?”, bà tự hỏi.
Cô giáo lại nói tiếp, “Tôi đã nhiều năm dạy học, nhưng thật tình mà nói, tôi chưa từng gặp việc như thế này xảy ra bao giờ.
Sáng nay tôi dạy về bài học tập làm văn. Và như mọi khi tôi vẫn làm, tôi kể câu chuyện “Kiến và Ve Sầu”.
“Kiến làm việc chăm chỉ suốt mùa hè và dự trữ thức ăn rất dồi dào. Nhưng Ve Sầu thì ca hát rong chơi suốt mùa hè và không chịu làm việc gì cả.
Khi mùa đông đến, Ve Sầu bắt đầu đói vì không có thức ăn. Thế là anh ta bèn tìm đến nhà Kiến và xin thức ăn. “Anh Kiến ơi, anh có nhiều thức ăn, xin anh hãy chia cho tôi cùng ăn với.”
Rồi tôi ra đề bài cho các em, “Và bây giờ, công việc của các con là viết tiếp phần cuối của câu chuyện.”
Con trai bà, Mark, giơ tay lên hỏi tôi, “Cô ơi, con có thể vẽ không?”
“Được thôi, Mark, nếu con thích, con có thể vẽ một bức tranh. Nhưng truớc hết, con phải viết phần kết của câu chuyện.”
Sau đó tôi thu bài để chấm. Vẫn như mọi năm truớc, phần lớn học trò viết, “Anh Kiến đã chia thức ăn của mình cho Ve Sầu, và cả hai cùng sống qua mùa đông giá rét.”
Và cũng như mọi khi, có một vài em lại viết, “Không được đâu anh Ve ơi. Anh không nên rong chơi suốt mùa hè và không chịu làm việc. Bây giờ tôi chỉ có đủ thức ăn cho mình tôi thôi.” Và rồi Kiến sống qua mùa đông, còn Ve Sầu thì chết vì lười biếng.
Nhưng câu chuyện của con trai bà thì lại có kết thúc khác hẳn. Cậu bé đã viết, ” Và rồi, Kiến đã đưa hết thức ăn của mình có cho Ve Sầu, Ve Sầu sống qua mùa đông lạnh lẽo. Nhưng Kiến thì đã chết.”
Và còn bức tranh?
Ở duới cuối trang giấy, cậu bé vẽ ba cây thập tự giá với dòng chữ bên dưới, “Chúa Jesus đã ban cho hết mọi sự để chúng ta được sống, nhưng Ngài đã phải chịu chết.”
Suy gẫm
Trong cuộc sống thường nhật của mình, bạn có luôn nhớ đến sự hi sinh chịu chết của Chúa dành cho chính mình không? Bạn sống như thế nào với sự hy sinh đó?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Esai 53:5
Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh.
**
Hãy đưa má bên trái… và cầu nguyện
Jack quăng xấp giấy tờ lên bàn tôi – anh ta nhíu mày và nhìn tôi trừng trừng một cách giận dữ.
“Có gì vậy anh?” Tôi hỏi.
Anh ta lấy ngón tay chọc thẳng vào giữa bản báo giá. “Lần sau nếu cô muốn thay đổi bất cứ thứ gì, phải hỏi tôi trước đã,” anh ta quát tôi, rồi quay gót đi thẳng, để tôi nghẹn ngào trong giận dữ.
Làm sao anh ta có thể đối xử với tôi như vậy, tôi nghĩ. Tôi đã làm gì? Tôi chỉ đổi một câu văn quá dài, sửa lại lỗi văn phạm, và tôi nghĩ đó là những việc tôi được thuê để làm ở đây. Mà đây không phải là điều chỉ có một mình tôi bị mắng. Những nữ thư ký khác làm việc ở vị trí của tôi trước đây cũng chịu như vậy, vì thế họ gọi Jack bằng những từ chẳng hay ho chút nào. Ngay ngày đầu tiên làm việc, một đồng nghiệp đã đến nói nhỏ với tôi, “Anh ta đã làm hai thư ký khác nghỉ việc đấy.”
Vài tuần lễ trôi qua, trong lòng tôi lại càng thêm coi thường Jack. Cách anh ta cư xử làm tôi cứ phải suy nghĩ mãi về niềm tin của mình, về việc đưa má bên kia cho kẻ tát má mình, hay phải yêu thương kẻ thù nghịch mình. Jack thuộc tuýp người sẵn sàng nhanh chóng tát vô má người nào đưa má cho anh ta, anh sẵng sàng lăng nhục bất cứ ai. Tôi cầu nguyện nhiều cho hoàn cảnh này, nhưng thật tình mà nói, tôi muốn mặc kệ Jack, không quan tâm hay yêu thương gì đến anh ta.
Một ngày nọ, lại xảy ra thêm một chuyện anh ta làm cho tôi phải khóc. Tôi chạy ào vào văn phòng của Jack, sẵn sàng mất việc nếu cần, nhưng tôi phải cho con người này biết những suy nghĩ của tôi về anh ta. Tôi mở cửa, Jack liếc mắt lên.
“Gì thế?”, anh ta hỏi giọng rất xấc xược.
Đột nhiên, tôi biết mình phải làm điều gì. Dù sao, anh ta cũng xứng đáng được như vậy.
Tôi ngồi đối diện Jack và nói cách bình tĩnh, “Jack, cái cách mà anh đối xử với tôi như vậy là không đúng. Tôi chưa bao giờ gặp người nào nói chuyện với tôi giống như anh cả. Trong môi trường làm việc chuyên nghiệp, thì nó sai, và tôi không thể cho phép chuyện đó tiếp tục.”
Jack cười khẩy một cách gượng gạo và ngả người ra ghế. Tôi nhắm mắt. “Xin Chúa hãy giúp con,” tôi cầu nguyện ngắn gọn.
“Tôi muốn hứa với anh một điều. Tôi sẽ là một người bạn của anh,” tôi nói. “Tôi sẽ đối xử với anh như anh đáng được như vậy, với sự tôn trọng và tử tế. Anh xứng đáng được như vậy. Mọi người đều xứng đáng được như vậy cả.” Tôi đẩy ghế ra, nhẹ nhàng đứng lên, bước ra và đóng cửa lại sau lưng.
Jack tránh mặt tôi suốt cả tuần đó. Bản báo giá, thư từ, hóa đơn xuất hiện trên bàn tôi mỗi khi tôi ra ngoài ăn trưa, và những câu văn tôi sửa không bị trả lại nữa.
Một ngày kia, tôi đem bánh quy vào sở làm, tôi mời mọi người và cũng để trên bàn Jack một phong nhỏ.
Một lần khác, tôi để một lời chúc, “Chúc anh một ngày làm việc tuyệt vời!”
Rồi một vài tuần trôi qua, Jack xuất hiện trở lại. Anh ta cũng yêu cầu tôi thay đổi vài điều trong văn bản, nhưng không còn cái cách ầm ĩ như trước nữa. Thế nên những đồng nghiệp của tôi tò mò kéo tôi ra riêng mà hỏi thăm. Họ nói, “Hãy xem chị bắt đầu làm việc được với Jack rồi đó! Chị đã nói thẳng với anh ta à?”
Tôi gật đầu. “Jack và tôi đang trở thành bạn bè,” tôi nói trong niềm tin. Nhưng tôi từ chối nói chuyện về anh ta.
Mỗi lần tôi gặp Jack trong sảnh, tôi mỉm cười với anh. Xét cho cùng, đó là những gì bạn bè có thể đối với nhau.
Một năm sau cuộc nói chuyện với Jack, tôi phát hiện ra mình bị ung thư. Tôi, 32 tuổi, là mẹ của ba đứa con rất xinh xắn, và đang sợ hãi. Bệnh ung thư đã di căn tạo những ung bứu trong cơ thể tôi, và theo thống kê thì chẳng có bao nhiêu người sống được. Sau cuộc phẫu thuật, bạn bè và tất cả những người thân thăm viếng tôi, cố tìm những lời thích hợp nào đó để an ủi tôi. Chẳng ai biết nói gì, và nhiều người còn nói những điều không nên nói nữa. Một số khác thì khóc, và tôi phải cố gắng an ủi họ. Bản thân tôi vẫn bám chặt lấy hy vọng.
Và một ngày kia, Jack lúng túng đứng trước căn phòng nhỏ xíu, tối tăm của tôi trong bệnh viện. Anh bước đến cạnh giường tôi, và đặt một gói nhỏ lên bàn mà chẳng nói lời nào. Trong gói đó có rất nhiều củ giống.
“Hoa tu-líp đó,” anh ta nói.
Tôi cười, lắc đầu không hiểu.
Anh ta di di dưới đất một chút, rồi đằng hắng. “Nếu chị trồng chúng khi về nhà, chúng sẽ nở hoa vào mùa xuân tới. Tôi chỉ muốn chị biết rằng, tôi mong chị sẽ còn ở đó để ngắm nhìn chúng khi chúng nở hoa.”
Mắt tôi nhòa nước và tôi đưa tay ra, “Cám ơn Jack.”
Jack nắm chặt tay tôi và trả lời, “Không có gì đâu. Chị không thể thấy nó bây giờ, nhưng mùa xuân tới chị sẽ thấy những màu sắc mà tôi chọn cho chị. Tôi nghĩ chị sẽ thích nó đấy.”
Rồi anh quay đi, chẳng nói thêm lời nào và rời khỏi.
Trong suốt mười năm sau đó, tôi vẫn ngắm nhìn những đóa hoa tu-líp màu đỏ sọc trắng vươn mình lên khi mỗi mùa xuân về.
Trong một giây phút, khi tôi cầu xin Chúa ở cùng và hướng dẫn tôi, tôi đã có thể giúp một con người cộc cằn hoàn toàn thay đổi.
Suy gẫm
Là một con cái Chúa, bạn đã sống như thế nào giữa vòng những người chưa biết Chúa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 5:44-45
44 Song ta nói cùng các ngươi rằng: Hãy yêu kẻ thù nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi, 45 hầu cho các ngươi được làm con của Cha các ngươi ở trên trời;
**
Tiếng êm dịu nhỏ nhẹ
Một thanh niên vừa mất việc, anh ta không biết phải giải quyết làm sao nữa. Thế nên anh đành tìm đến một vị mục sư già để nói chuyện.
Bỏ qua lời khuyên của vị mục sư, anh ta liên tục nguyền rủa và trách móc về nan đề xảy đến cho mình. Cuối cùng, anh siết chặt nắm đấm và gào lên, “Tôi nài xin Chúa hãy nói điều gì để giúp đỡ tôi. Hãy cho tôi biết, tại sao Chúa không trả lời?”
Vị mục sư già ngồi đối diện bên kia căn phòng, nói điều gì đó để trả lời anh. Ông nói thật nhỏ nhẹ khiến anh không thể nhận ra được.
Anh trai trẻ bước ngang qua căn phòng. “Ông mục sư nói gì vậy?”, anh ta hỏi.
Vị mục sư lại nhắc lại lần nữa, nhưng một lần nữa, giọng ông thật nhỏ như một tiếng thì thầm.
Vì thế, anh thanh niên lại tiến đến gần hơn, anh đến và nghiêng người xuống ghế của vị mục sư già. “Xin lỗi, con vẫn chưa thể nghe được ông mục sư nói gì.” anh ta nói.
Đến khi đầu của họ chụm lại, vị mục sư mới khe khẽ nói một lần nữa. “Thỉnh thoảng Chúa nói thì thầm thôi, vì thế chúng ta phải đến thật gần Ngài mới có thể nghe được.”
Lần này, anh thanh niên đã nghe và hiểu.
Suy gẫm
Chúng ta muốn giọng nói của Chúa như sấm rền để trả lời những lời cầu nguyện hay nan đề cuộc sống mình. Nhưng giọng Ngài vẫn nhỏ nhẹ, thì thầm…
Có lẽ lí do là: Chẳng có gì lôi kéo sự tập trung của con người hơn là tiếng thì thầm. Lời thì thầm của Chúa có nghĩa là chúng ta phải dừng oán trách, lại gần Chúa hơn, cho đến khi chúng ta nghiêng tai bên Ngài để lắng nghe lời Ngài.
Bạn có yên lặng đủ để nghe được tiếng Chúa phán với mình không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IVua 19:11-12
11 Đức Chúa Trời phán với người rằng: Hãy đi ra, đứng tại trên núi trước mặt Đức Giê-hô-va. Nầy Đức Giê-hô-va đi ngang qua, có một ngọn gió mạnh thổi dữ tợn trước mặt Ngài, xé núi ra, và làm tan nát các hòn đá; nhưng không có Đức Giê-hô-va trong trận gió. Sau trận gió có cơn động đất; nhưng không có Đức Giê-hô-va trong cơn động đất. 12 Sau cơn động đất có đám lửa; nhưng không có Đức Giê-hô-va trong đám lửa. Sau đám lửa, có một tiếng êm dịu nhỏ nhẹ.
**
Đấng cầm quyền
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2003, một người đàn ông ở Norfolk, Virginia đã gọi đến đài phát thanh địa phương để chia sẻ lại câu chuyện của ông. Tên của ông là Robert Matthews.
“Một vài tuần trước ngày 11 tháng 9 năm 2001, vợ chồng tôi biết tin vợ tôi đã mang thai đứa con đầu lòng. Nàng bèn lên kế hoạch đi thăm cô chị gái ở California. Trên đường ra phi trường hôm đó, chúng tôi cầu nguyện xin Chúa ban phước cho vợ tôi có một chuyến bay bình an, xin Ngài luôn ở cùng nàng. Sau khi cầu nguyện xong, đi được một đoạn thì tôi nghe “bóp” một cái và xe chúng tôi lắc mạnh. Bánh xe bị nổ lốp! Tôi cố gắng nhanh chóng thay bánh xe mang theo kèm, nhưng cuối cùng vợ tôi cũng trễ chuyến bay. Cả hai vợ chồng đều buồn bã, và chúng tôi lái xe về nhà.
Tôi nhận được điện thoại của ba tôi, ông vốn là nhân viên sở cứu hỏa New York đã về hưu. Ông hỏi số hiệu chuyến bay của vợ tôi, nhưng tôi nói vợ tôi bị lỡ chuyến bay mất rồi. Ba tôi cho tôi biết chuyến bay của vợ tôi là một trong những chiếc đã đâm vào toà tháp phía nam trong vụ khủng bố vừa xảy ra. Tôi thật sự sốc chẳng thốt được lời nào. Rồi ba tôi cũng cho biết rằng ông sẽ đến đó ngay để giúp đỡ. “Đây là sự kiện mà ba không thể ngồi nhà xem được, ba phải làm gì đó.”
Đương nhiên là tôi rất lo cho sự an toàn của ông, nhưng quan trọng hơn là vì ông chưa bao giờ dâng đời sống mình cho Chúa cả. Sau một cuộc nói chuyện ngắn, tôi tin rằng ba tôi đã có một chút ý niệm về Chúa. Trước khi ông gác máy, ông dặn tôi, “Nhớ chăm sóc cháu nội của ba đó.” Đó là những lời cuối cùng ba tôi nói với tôi, vì ông đã chết trong khi ráng sức giải cứu những nạn nhân của vụ khủng bố. Niềm vui vì Chúa đã nhậm lời cầu nguyện và giữ gìn vợ tôi bình an, bây giờ nhanh chóng chuyển thành sự oán giận Chúa. Tôi trách Chúa, trách ba tôi cứng lòng, và trách cả bản thân mình.
Gần hai năm trôi qua, tôi vẫn còn trách Chúa sao lại đem ba tôi đi sớm như vậy. Con trai tôi sẽ chẳng bao giờ thấy mặt ông nội, ba tôi chưa tin nhận Chúa, và tôi chưa kịp nói lời vĩnh biệt ba.
Rồi một việc xảy ra. Cách đây hai tháng, tôi đang ngồi ở nhà với vợ con thì có tiếng gõ cửa. Hai vợ chồng tôi nhìn nhau, nhưng chẳng đoán ra ai cả. Khi tôi mở cửa, có một cặp vợ chồng và một đứa trẻ con. Người đàn ông nhìn tôi và hỏi có phải ba tôi tên là Jake Matthews không. Tôi trả lời đúng thế. Anh ta lập tức siết lấy tay tôi và nói, “Tôi chưa bao giờ có cơ hội để gặp mặt ba anh, nhưng thật vinh hạnh được gặp con của ông ấy.” Rồi anh ta giải thích với chúng tôi rằng vợ anh trước đây đã làm việc tại toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới, và đã bị kẹt bên trong khi vụ tấn công xảy ra. Lúc ấy, cô ta đang mang thai và được tìm thấy nằm dưới đống gạch vụn.Anh ta giải thích rằng ba tôi là người đã tìm ra vợ anh và giải cứu cô.
Nước mắt tôi tuôn trào khi tôi nghĩ đến việc ba tôi đã hy sinh mạng sống của ông để cứu những người như thế này. Người đàn ông nói tiếp, “Có một điều nữa anh cần biết.” Rồi người vợ cho tôi biết khi ba tôi giải cứu cô, cô đã nói về Chúa cho ông và ông đã tin nhận Ngài. Tôi khóc nấc lên khi nghe tin này.
Bây giờ, tôi biết rằng khi tôi về thiên quốc, ba tôi sẽ đứng bên cạnh Chúa Jesus để đón tôi, và như thế là gia đình người đàn ông kia cũng có cơ hội để cám ơn ba tôi trực tiếp vậy.”
Suy gẫm
Có những lúc trong đời sống của mình, bạn sẽ tự hỏi rằng tại sao điều này lại xảy đến với tôi? Nhưng điều quan trọng nhất mà bạn nên ghi nhớ: Đức Chúa Trời luôn luôn cầm quyền trên mọi sự.
Bạn có tin vào sự tể trị của Ngài trên đời sống bạn không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Châm-ngôn 21:1
Lòng của vua ở trong tay Đức Giê-hô-va khác nào dòng nước chảy; Ngài làm nghiêng lệch nó bề nào tùy ý Ngài muốn.
**
Hãy chọn con trai Ta
Có một người cha giàu có sống cùng con trai mình, cả hai cha con đều có cùng một đam mê, đó là nghệ thuật hội họa. Họ sưu tầm đủ các loại tranh quý giá, từ tranh của Picasso cho đến Raphael. Họ thường cùng ngồi lại, chiêm ngưỡng và luận bàn về những tuyệt tác nghệ thuật.
Rồi khi chiến tranh Việt Nam xảy ra, người con trai nhập ngũ. Anh chiến đấu rất dũng cảm, và đã hy sinh trong một trận chiến trong khi đang lo giải cứu một đồng đội của mình. Khi người cha hay tin về cái chết của con trai mình, ông đau khổ tột cùng; nó là đứa con trai duy nhất của ông.
Khoảng sau đó một tháng, ngay trước lễ Giáng Sinh, có một người gõ cửa nhà ông. Một chàng trai trẻ đứng đó, trên tay mang một món quà khá cồng kềnh. Anh chào và nói, “Thưa bác, bác có lẽ không biết cháu là ai, nhưng cháu chính là người mà con trai bác đã bỏ mình để cứu mạng. Hôm đó, anh đã cứu rất nhiều người. Khi anh đang cõng cháu đến chỗ trú thì một viên đạn bắn trúng tim anh, anh hy sinh ngay sau đó. Trong quân ngũ, tụi cháu thường hay nói chuyện với nhau, và anh hay nói chuyện về bác, cả về niềm đam mê tác phẩm hội họa của hai người.” Anh đưa món quà ra, “Cháu biết cái này không đáng giá gì… Cháu không phải là một họa sĩ tài ba, nhưng cháu nghĩ con trai bác sẽ muốn bác giữ nó.”
Người cha mở món quà ra. Thật bất ngờ, đó là tấm hình chân dung của con trai ông do người lính trẻ kia vẽ. Ông nhìn chăm chăm vào bức họa và cảm phục từng nét vẽ, nó phác họa thật sống động và toát lên tính cách của con trai ông. Người cha bị thu hút vào bức vẽ, cảm động đến nỗi nước mắt tuôn ra. Ông cám ơn chàng trai trẻ nọ và đề nghị được trả tiền cho bức tranh này.
“Ồ không, thưa bác, cháu chẳng bao giờ trả lại cho con trai bác điều mà anh đã làm cho cháu được. Đây là một món quà nhỏ dành cho bác.”
Người cha treo bức ảnh giữa nhà thật trang trọng. Mỗi khi có khách đến thăm, ông đều mời họ đến xem bức tranh cậu con trai trước khi giới thiệu những bức tranh khác trong bộ sưu tập quý giá của mình.
…Và rồi người cha qua đời sau đó ít lâu. Người ta tổ chức một buổi đấu giá rất lớn cho những bức tranh của ông. Có rất nhiều người thế lực và tiếng tăm đến tham dự, họ háo hức chờ đợi được chiêm ngưỡng những bức tranh quý giá và hy vọng có cơ hội mua một trong những bức tranh ấy.
Trên sàn đấu giá, bức tranh của nguời con trai được đem ra. Người đại diện bán đấu giá gõ búa và tuyên bố, “Chúng ta sẽ bắt đầu đặt giá cho bức tranh của người con trai ông chủ tôi. Ai muốn mua bức tranh người con trai này?”
Chỉ có sự im lặng. Rồi cuối phòng có tiếng đề nghị, “Chúng tôi muốn đến để xem những bức tranh nổi tiếng thôi. Hãy bỏ qua bức này đi.” Nhưng người đại diện bán đấu giá phớt lờ, “Phải bán bức tranh này trước đã. Có ai đặt giá cho bức tranh này không? $100 đô, $200 đô?”
Một giọng khác cất lên rất bực dọc, “Chúng ta đến đây không phải để xem bức tranh này, mà xem tranh của Van Goghs, của Rembrandts. Hãy bắt đầu với những bức tranh thật sự giá trị đi.”
Nhưng người đại diện vẫn tiếp tục, “Người con trai! Người con trai! Ai sẽ chọn người con trai?”
Cuối cùng, một giọng nói từ góc cuối của căn phòng vang lên. Đó là ông già làm vườn trung thành của gia đình người đàn ông giàu có đã quá cố, “Tôi sẽ mua bức này với giá $10 đô.” Là một người nghèo khó, đây là tất cả số tiền mà ông ta có thể trả được.
“Có một người trả $10 đô, có ai đặt $20 đô không?”
“Hãy cho ông ta bức tranh đó với $10 đô của ông ta, để chúng ta có thể bắt đầu những bức tranh thực thụ.”
“Đã có người đặt $10 đô, không ai đặt $20 đô sao?”
Đám đông bắt đầu bực tức. Họ không muốn bức tranh người con trai. Họ muốn đầu tư vào những bức giá trị hơn cho bộ sưu tập của họ.
Và rồi người đại diện gõ búa. “$10 đô-la lần thứ nhất! $10 đô-la lần thứ hai! Bức tranh đã được bán với giá $10 đô-la!”
Một người đàn ông ngồi ở hàng ghế thứ hai la to, “Bây giờ thì chúng ta hãy bắt đầu với bộ sưu tập thật sự!” Nhưng người bán đấu giá đặt chiếc búa xuống, “Xin lỗi quý vị, nhưng buổi đấu giá đến đây là kết thúc.”
“Cái gì? Thế những bức tranh trong bộ sưu tập thì sao?”
“Tôi xin lỗi. Khi tôi được gọi đến để nghe hướng dẫn về buổi đấu giá này, tôi được yêu cầu một quy định bí mật theo di chúc người quá cố. Tôi không được quyền tiết lộ quy định đó cho đến thời điểm này. Rằng, chỉ có bức tranh của người con trai được bán đấu giá mà thôi. Bất cứ ai mua bức tranh ấy đều có quyền thừa hưởng toàn bộ tài sản của người quá cố, bao gồm cả bộ số tranh quý trong bộ sưu tập của ông. Người đã lấy bức tranh cậu con trai sẽ có tất cả!”
Suy gẫm
Đức Chúa Trời đã ban tặng Con Trai Một của Ngài cho chúng ta trên thập tự giá 2000 năm trước. Giống như đại diện người bán đấu giá kia, thông điệp của Ngài hôm nay là: “Người con trai, ai sẽ nhận người con trai?” Bởi vì, các bạn biết đó, bất cứ ai nhận Con Trai Một của Thượng Đế đều sẽ có mọi thứ khác nữa.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Giăng 3:16
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
**
Không còn chỗ!
Hôm đó, cả nhà rất vui vẻ! Đấy là một ngày thứ bảy sau ngày lễ Tạ ơn, ngày mà họ thường dành ra để chuẩn bị trang hoàng trong dịp lễ Giáng sinh. Mỗi người trong nhà đều biết rõ công việc mà mình cần làm. Bố và Tommy sẽ trang hoàng bên ngoài. Mẹ sẽ dựng cây thông Noel và treo những món quà lên đó. Còn Heather sẽ phụ trách phần trang hoàng bên trong ngôi nhà. Họ bắt đầu từ rất sớm vì những công việc này tốn rất nhiều thời gian.
Khi cả nhà chuẩn bị nghĩ để ăn trưa, bố đã hoàn thành được một nửa công việc của mình. Các ngọn đèn được mắc xung quanh nhà, nhìn thật đẹp mắt. Nhưng bố còn phải treo các dây đèn nhấp nháy trên các hàng cây, rồi còn phải trang hoàng dãy hàng rào ngoài sân. Và bố còn phải để ông già Noel cùng các con tuần lộc của ông trên mái nhà nữa.
Mẹ thì hầu như đã hoàn thành việc treo các đồ trang trí lên cây thông Noel. Bà chỉ còn rảy những bông tuyết lên đó nữa là xong. Vì nôn nóng muốn làm cho xong, bà đã lôi hết những món quà từ ngăn để đồ trong phòng ngủ ra và bắt đầu gói chúng lại.
Mẹ hi vọng rằng các đứa con của mình thích các trò chơi điện tử, các phần mềm máy tính và các bộ quần áo đẹp mà bà dành cho chúng. Và bố cũng sẽ thích các bộ đồ nghề dùng cho việc săn bắn và câu cá. Các món đồ này chẳng rẻ chút nào. Đó là những món đồ tốt mà bà đã tiêu tốn một số lớn tiền để mua nó. Mẹ còn phải gói những món quà cho bạn bè và người thân nữa. Bà cũng hi vọng mọi người sẽ nhớ đến gia đình bà như những gì bà làm cho họ, và hi vọng họ nhận được những món quà thật yêu thích trong mùa Giáng sinh này.
Heather cũng đang bê những món đồ trang trí của nó đến gần mẹ. Cô bé có một ngôi nhà nhỏ, được trang trí với ông già Noel, những người lùn bé tí, các con tuần lộc, những chiếc kẹo gậy, các đôi vớ và nhiều thứ trang hoàng Giáng sinh khác. Ngôi nhà của Heather còn nhiều ngăn trống và cô bé nhanh chóng sắp xếp những vật trang trí vào các ngăn đó.
Vào lúc xế chiều thì mọi công việc dường như đã hoàn tất. Bố và Tommy đã làm xong công việc của họ, ngoài sân thật rực rỡ với những ánh đèn nhắp nháy. Mẹ cũng đã gói xong các món quà và để bên dưới cây thông Noel. Mọi thứ dường như đã chiếm hết chỗ trong nhà. Bây giờ chỉ còn việc sắp xếp mấy cái thùng giấy lại, đem bỏ trên gác để ít hôm nữa sẽ lấy xuống và đựng lại các món đồ trang trí giữ lại cho năm sau.
Khi cả nhà cùng nhau dọn dẹp các hộp giấy lại thì họ phát hiện một chiếc hộp vẫn chưa được mở ra. Khi họ mở chiếc hộp ra thì họ nhìn thấy một cảnh tượng đêm Chúa Giáng sinh. Chúa Giêxu, Mary, Giôsép, các bác sĩ, các mục đồng và các con chiên vây quanh!. Họ cố gắng tìm một chỗ để đặt những thứ này vào những nơi mà họ đã trang trí. Nhưng sau một hồi tìm kiếm, họ không biết phải đặt những thứ này vào đâu.
Họ cảm thấy thật có lỗi, nhưng rõ ràng là họ không còn chỗ để những thứ này vào. Họ quyết định bàn bạc xem phải giải quyết những thứ này ra làm sao. Cuối cùng, một vài người đã lên tiếng nên dành những vật này cho việc trang trí vào mùa Giáng sinh năm sau. Nhưng họ sợ rằng họ lại tiếp tục quên nữa vào năm sau. Thế là họ thống nhất lấy một miếng giấy thật to và dán trên chiếc hộp với dòng chữ, “CHÚA GIÊ-XU, ĐỂ DÀNH CHO NĂM SAU.” Thế là cả nhà cảm thấy an lòng vui hưởng một mùa Giáng sinh.
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn đang để Chúa Jesus ở đâu trong khi bận rộn chuẩn bị cho mùa Giáng sinh này?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 2:10-11
10 Mấy thầy thấy ngôi sao, mừng rỡ quá bội. 11 Khi vào đến nhà, thấy con trẻ cùng Ma-ri, mẹ Ngài, thì sấp mình xuống mà thờ lạy Ngài; rồi bày của quí ra, dâng cho Ngài những lễ vật, là vàng, nhũ hương, và một dược.
**
Câu chuyện Giáng Sinh
Bobby đang lạnh cóng ở sân sau nhà trong giá tuyết. Bobby không mang ủng, cậu không thích mang ủng, mà thật ra thì cậu cũng chẳng có đôi ủng nào để mang. Cậu mang đôi giày bata bằng vải mỏng có vài cái lỗ rách, thiệt tội nghiệp cho đôi giày khi phải ở ngoài giá tuyết như vầy.
Bobby đã ở ngoài sân cả tiếng đồng hồ rồi. Và dù rằng đã cố gắng hết sức có thể, cậu cũng chẳng suy nghĩ ra mình có cái gì để tặng mẹ trong dịp lễ Giáng Sinh năm nay. Cậu lắc đầu và nghĩ, “Cũng vô dụng thôi, dù mình có nghĩ ra được, thì mình cũng chả có tiền đâu mà mua.”
Từ khi cha cậu qua đời cách đây ba năm, gia đình năm người của cậu thật sự khó khăn. Không phải vì mẹ cậu không lo chăm sóc các con, cũng không phải bà không cố gắng làm lụng, mà bởi vì dù bà có cố gắng tới đâu đi nữa cũng không bao giờ đủ cả. Mẹ cậu phải làm việc ngày đêm ở bệnh viện, nhưng đồng lương nhỏ bé của bà chỉ đủ trang trải cho một cuộc sống khá chật vật.
Khi gia đình cậu càng thiếu thốn tiền bạc và vật chất bao nhiêu, thì họ càng yêu thương và gắn bó với nhau bấy nhiêu. Bobby có hai chị lớn và một em gái nhỏ, cả ba đều lo quán xuyến việc nhà mỗi khi mẹ vắng nhà.
Hai chị và em gái của Bobby đều đã tự làm những món quà thật đẹp dành cho mẹ. Nhiều khi nghĩ cũng thấy hơi không công bằng, vì Bobby chẳng biết tự làm những món quà như các chị và em của cậu. Giáng sinh lại càng gần, và cậu vẫn chưa có gì cả.
Đưa tay quẹt nước mắt, Bobby đá mạnh vào tuyết, rồi cậu bắt đầu đi xuống phố, đến những nơi có những cửa tiệm và quầy bán hàng. Thật chẳng dễ dàng khi mới sáu tuổi mà lại chẳng có cha bên cạnh, nhất là khi cậu cần có một người đàn ông để nói chuyện. Bobby đi từ tiệm này sang tiệm khác, nhìn vào những cửa sổ trang trí rất lộng lẫy. Những món đồ thật đẹp, và cũng có nghĩa rằng chúng đã vượt quá khả năng của cậu.
Trời càng lúc càng tối, Bobby buồn bã, định quay về nhà thì bất ngờ mắt cậu bắt gặp phải một tia sáng mặt trời le lói phản chiếu từ một vật gì đó bên lề đường. Cậu cuối xuống và phát hiện đó là một đồng 10 xu. Có lẽ không ai cảm thấy mình giàu có như Bobby lúc này.
Trong lúc cậu nắm chặt gia tài vừa mới tìm thấy trong tay, một luồng hơi ấm lan tỏa khắp thân thể cậu, Bobby bước nhanh về phía cửa hiệu đầu tiên mà cậu nhìn thấy. Nhưng niềm vui của cậu nhanh chóng bị dập tắt khi tất cả các chủ tiệm, hết người này đến người khác, bảo cho cậu biết rằng cậu sẽ chẳng thể mua được thứ gì với đồng 10 xu đó đâu.
Cậu thấy một cửa hiệu bán hoa và cũng mạnh dạn bước vào xếp hàng, hi vọng sẽ mua được một đóa hoa. Khi người chủ hiệu hỏi ông có thể giúp gì cho cậu, Bobby xòe tay ra với một đồng 10 xu và hỏi không biết cậu có thể mua một bông hoa làm quà cho mẹ vào mùa Giáng sinh này không. Người chủ hiệu hết nhìn Bobby và lại nhìn đồng 10 xu trong tay cậu. Im lặng một lúc, ông ta vỗ vào vai Bobby và nói “Cháu đứng đây chờ một chút để xem ta có thể làm được gì cho cháu?”
Trong lúc đứng chờ, Bobby ngắm nhìn những bông hoa tuyệt đẹp và cậu hiểu vì sao mà các bà mẹ và những cô gái trẻ lại thích hoa đến thế.
Tiếng cửa hiệu đóng lại kéo Bobby về với thực tế, người khách cuối cùng đã rời khỏi. Chỉ còn lại một mình trong cửa hiệu, Bobby chợt cảm thấy cô đơn và sợ hãi.
Vừa lúc ấy, người chủ cửa hiệu bước ra và tiến đến quầy bán hàng. Và, trước mắt Bobby là 12 đoá hoa hồng cánh dài, màu đỏ rực rỡ với những chiếc lá màu xanh được gói xen kẽ với những bông hoa “babie” trắng nhỏ li ti trong một tờ giấy bạc lớn. Tim Bobby như ngừng đập khi người chủ hiệu cầm bó hoa và đặt cẩn thận và trong một chiếc hộp dài màu trắng.
“Cái này giá 10 xu đấy cậu bé,” người chủ hiệu vừa nói vừa đưa tay ra nhận đồng 10 xu từ Bobby. Một thoáng nghi ngờ, Bobby chìa tay đưa đồng 10 xu cho ông ta. Có thật thế không? Khi mà chẳng có ai khác chịu bán cho cậu một thứ gì có giá bằng đồng 10 xu của cậu. Cảm nhận được vẻ do dự của cậu, người chủ hiệu bảo, “Tôi vừa có hơn 20 bông hồng bán với giá 10 xu cho 12 bông. Cậu có muốn mua không?”
Lần này thì Bobby không còn do dự nữa, và khi người chủ hiệu đặt chiếc hộp dài đựng những bông hoa xinh đẹp ấy vào tay Bobby thì cậu biết đây là sự thật. Bước ra khỏi cửa hiệu, người chủ hiệu hoa còn đứng tiễn cậu, và Bobby còn được nghe ông ta chúc, “Chúc cháu một mùa giáng sinh thật vui vẻ nhé.”
Khi người chủ hiệu bước vào trong, người vợ của ông bước ra và hỏi “Anh đang nói chuyện với ai vậy, mấy đóa hoa anh bó lúc nãy đâu rồi?”
Nhìn đăm chiêu qua khung cửa sổ, và những giọt nước mắt lấp lánh trong đôi mắt, ông chậm rải trả lời, “Một điều lạ lùng xảy ra cho anh sáng nay. Trong lúc anh đang chuẩn bị mọi thứ để mở cửa hiệu, thì dường như có một tiếng nói vang vọng bên tai anh, bảo anh chuẩn bị 12 đóa hoa tốt nhất cho một món quà đặc biệt. Anh không chắc là anh nghe có đúng không hay anh lại ngớ ngẩn nữa. Một vài phút cách đây, một cậu bé rách rưới bước vào bên trong cửa hiệu của mình, bảo rằng cậu ta muốn mua 1 đóa hoa cho mẹ chỉ với đồng 10 xu.
Khi anh nhìn cậu bé, anh chợt nhìn thấy chính mình cách đây nhiều năm. Lúc đó, anh quá nghèo đến nỗi chẳng có thể mua được gì tặng cho mẹ làm quà Giáng sinh. Rồi một người đàn ông với chòm râu rậm rạp mà anh chưa bao giờ gặp đã chặn anh lại và cho anh 10 dollar.
Khi anh nhìn thấy cậu bé tối nay, anh chợt hiểu rằng ai đã nói cho anh nghe vào buổi sáng nay, và anh đã gói 12 bông hồng tốt nhất làm quà cho cậu bé.”
Nói đoạn, hai vợ chồng người chủ hiệu hoa ôm chầm lấy nhau thật yêu thương, và khi họ bước ra bên ngoài, mặc dù trời giá lạnh, họ vẫn thấy lòng mình thật ấm áp.
Câu hỏi suy gẫm
+ Đức Chúa Trời đã dành cho bạn một tình yêu vô giá trong đêm Giáng Sinh, bạn có sẵn sàng chia xẻ tình yêu đó cho người khác trong mùa Giáng Sinh này không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IGi 4:11
Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau.
**
Người bạn của con trai
Sau một vài bài thánh ca quen thuộc, ông mục sư chủ tọa chầm chậm đứng dậy, bước lên bục giảng và giới thiệu sơ lược về một người bạn mà ông quen biết từ thuở thiếu thời. Và rồi một ông lão bước lên bục để nói chuyện.
“Có một người cha, đứa con trai của ông và người bạn của nó cùng vượt Thái Bình Dương trên một chiếc tàu,” ông bắt đầu, “Bỗng dưng có một cơn bão thình lình xuất hiện, kéo phăng mọi thứ ra xa bờ. Những cơn sóng bạc đầu dữ dội đến nỗi người cha, vốn là một thủy thủ dày dặn kinh nghiệm, không thể nào giữ vững chiếc tàu… và thế là cả ba cùng bị sóng biển cuốn vào đại dương.”
Ông lão ngập ngừng đôi phút, nhìn hai thiếu niên đang ngồi ở dưới kia, chúng có vẻ rất thích thú với câu chuyện của ông. Ông tiếp tục, “Người cha, vốn là một người bơi rất giỏi, nên ông ta có thể bơi trở lại con tàu. Ông chụp lấy sợi dây cứu sinh… và bây giờ, ông ta đã phải chọn một quyết định hết sức đau đớn, đó là quăng đầu dây kia cho ai, con trai mình hay là bạn của nó? Ông ta chỉ có vài giây để quyết định mà thôi.
Người cha đó biết rằng đứa con của mình đã là một Cơ đốc nhân, đã tiếp nhận Chúa vào đời sống; và ông cũng biết đứa bạn nó là người chưa tin Chúa. Tuy đau đớn tột cùng, nhưng không thể chần chừ trước dòng nước đang chảy xiết kia, ông ta phải thực hiện quyết định của mình nhanh chóng. Trong khi người cha thét gọi con, “Cha yêu con vô cùng, con trai của cha!” thì ông lại quăng sợi dây về phía đứa bạn nó. Lúc ông kéo đứa trẻ kia cập vào tàu, thì cũng là lúc con trai ông đã biến mất sau những đợt sóng cồn giữa đêm tối mịt mù. Thân xác nó chẳng bao giờ tìm lại được.”
Lúc đó, hai thiếu niên ngồi ngay trước bục giảng cựa quậy, chờ đợi nghe tiếp câu chuyện của ông. Ông tiếp tục, “Người cha biết rằng con trai mình sẽ bước vào cuộc sống đời đời với Chúa Jesus, và ông cũng không thể chịu đựng được nỗi suy nghĩ rằng đứa bạn của nó sẽ bị hư mất đời đời nơi hỏa ngục vì một đời sống không có Chúa. Vì thế, ông quyết định hy sinh đứa con trai của mình. Tình yêu của Thượng Đế thật vĩ đại, và Ngài đã làm một việc tương tự như thế cho tất cả chúng ta.”
Nói rồi, ông bước xuống và về chỗ ngồi trong khi một bầu không khí im lặng bao trùm cả Hội Thánh.
Vài phút sau khi buổi nhóm tan, hai đứa thiếu niên nọ chạy lại bên ông lão. Một đứa bắt đầu nói rất nhã nhặn, “Câu chuyện của ông thật cảm động, nhưng cháu không nghĩ câu chuyện thật sự xảy ra, rằng có người cha nào lại chấp nhận bỏ con mình mà cứu người khác với hy vọng sẽ đem người kia về tin nhận Chúa.”
Ông lão liếc nhìn xuống cuốn Kinh Thánh mới tinh, được bao bọc rất kỹ càng của cậu bé và trả lời, “Thế là cháu đã hiểu được vấn đề rồi đó.” Một nụ cười xuất hiện trên gương mặt ông lão, và ông lại nhìn lên hai cậu bé, “Nó có vẻ như không thực tế cho lắm, phải không? Nhưng hôm nay, ta đứng lên chỉ để nói với mấy cháu rằng câu chuyện đó cho ta một ý nghĩ về việc Thượng Đế đã ban Con Một của Ngài cho ta.” Ông dừng lại một chút rồi tiếp, “Và mấy cháu biết đó, ta chính là người cha trong câu chuyện, và mục sư chủ tọa của mấy cháu chính là bạn của con trai ta.”
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có bao giờ hy sinh điều gì của bản thân mình để đem người khác về với Chúa không?
+ Bạn suy nghĩ gì về những người thân yêu của bạn vẫn chưa tin nhận Chúa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mac 16:15
Ngài phán cùng các sứ đồ rằng: Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành cho mọi người.
**
Trở nên như đứa trẻ
Trong nhà hàng hôm ấy, gia đình chúng tôi là những vị khách duy nhất có trẻ em đi cùng. Tôi đặt Erik ngồi bên cạnh mình, trên một cái ghế cao dành cho trẻ con. Mọi người đều ăn uống trong im lặng…
Thình lình, Erik kêu ré lên với vẻ rất hân hoan, “Xin chào, chào ông!” và nó đập hai bàn tay nhỏ xíu mũm mĩm lên cái bàn nhỏ trước mặt.
Mắt nó cứ nhắm tít lại mà cười, trông rất hào hứng. Cái miệng nhỏ xíu cứ thế mà nhe ra cười vui vẻ vô cùng. Tôi nhìn quanh và phát hiện thủ phạm làm cho nó trở nên phấn khích như vậy.
Đó là người đàn ông mặc chiếc quần rộng thùng thình, mấy ngón chân thì lòi cả ra khỏi cái gọi là “đôi giày”. Ông ta mặc chiếc áo sơ-mi dơ dáy, đầu tóc thì không chải mà cũng chẳng gội. Khuôn mặt ông đầy râu ria, lỗ mũi ông nhìn thật xấu xí. Chúng tôi ngồi xa ông nên chẳng thể ngửi được, nhưng tôi nhìn bộ dạng thì chắc chắn ông ta hôi hám lắm.
Ông vẫy vẫy tay, rồi vỗ tay, “Chào nhóc biu, chào cháu” ông ta nói với Erik. Hai vợ chồng tôi nhìn nhau, “Mình phải làm gì bây giờ?” Erik thì vẫn tiếp tục cười đùa vui vẻ và trả lời ông ta, “Chào ông, cháu chào ông.”
Mọi người trong nhà hàng đều đã chú ý đến sự việc đang xảy ra, họ hết nhìn chúng tôi rồi lại nhìn người đàn ông nọ. Ông già ấy đang làm phiền đến con trai nhỏ xinh xắn của chúng tôi.
Khi thấy món ăn của chúng tôi được mang đến, ông ta bắt đầu kêu to đến nỗi ai trong nhà hàng cũng nghe, “Bé con ăn bánh ngon nhỉ? …Ú.. ùmmm… ú ..ùmmm…”
Ông ta cũng biết “ú…ùmm” với con nít! Không có một ai, đặc biệt là hai vợ chồng tôi, có thể nghĩ rằng ông già đó dễ thương đến như vậy. Ông ta rõ ràng là một kẻ vô công rỗi nghề và say xỉn.
Cả hai vợ chồng tôi đều cảm thấy xấu hổ ghê gớm. Chúng tôi ăn trong im lặng; mọi người đều im lặng, trừ Erik. Nó vẫn tiếp tục cái màn cười nói vui vẻ với ông già vô công rỗi nghề kia, cả hai cứ thế mà đùa giỡn với nhau.
Cuối cùng, chúng tôi cũng ăn xong và chuẩn bị rời khỏi nhà hàng. Chồng tôi đi tính tiền và bảo rằng anh sẽ đợi ngoài bãi đậu xe.
Trong lúc ấy, ông già ngồi ngay giữa đường từ chỗ tôi ra cửa. “Chúa ôi, xin cho con đi ra khỏi chỗ này trước khi ổng nói chuyện với con hoặc với Erik,” tôi đã cầu nguyện như vậy.
Khi tôi đi đến gần ông ta, tôi quay lưng về phía ông và bước vội qua, cốt để tránh ngửi phải hơi thở của ông. Khi tôi vừa quay lại như thế, Erik chồm người qua tay tôi, giơ hai tay về phía người đàn ông nọ như đòi ông ta bế nó.
Trước khi tôi kịp làm gì, Erik đã chồm tuột khỏi tay tôi qua tay ông ta. Bất ngờ, một ông già hôi hám và một đứa trẻ dễ thương kia tạo nên một mối quan hệ yêu thương gắn bó. Erik trong một hành động hoàn toàn tin cậy, đầy tình yêu thương và giao phó trọn vẹn đang tựa chiếc đầu mình lên đôi vai người đàn ông.
Đôi mắt người đàn ông nhắm lại. Tôi thấy những giọt nước mắt lăn trên đôi gò má già nua của ông. Bàn tay chai sần mang dấu ấn của những công việc lao động nặng nhọc, với đầy những vết thẹo lớn nhỏ, đang nâng niu đứa con trai bé bỏng của tôi, vỗ vỗ lưng nó với một tình thương tôi không thể nào diễn tả được, nhưng tôi cảm nhận được điều đó một cách rất rõ ràng.
Chẳng có ai có thể thương mến nhau sâu đậm như vậy chỉ sau một khoảnh khắc ngắn ngủi như họ. Và tôi đứng chết trân ở đó.
Người đàn ông nọ bồng Erik, ru nó trên tay thật âu yếm, và ông nhìn tôi không chớp. Cuối cùng ông cất giọng nói như ra lệnh cho tôi, “Bà hãy chăm sóc đứa bé này.” Không hiểu sao, tôi cũng đã thốt ra được từ chiếc cổ đang bị tắt nghẹn, “Vâng, tôi sẽ chăm sóc nó.”
Người đàn ông gỡ Erik khỏi ngực mình và trao cho tôi trong nỗi niềm bịn rịn luyến tiếc… Tôi nhận lại con mình, trong khi người đàn ông nọ nói bằng giọng rất cảm động, “Xin Chúa ban phước cho bà. Bà đã tặng tôi một món quà rất ý nghĩa trong mùa Giáng sinh này”. Tôi không thể thốt được gì, chỉ lí nhí trả lời “Cảm ơn ông” và vội vã ôm Erik bước nhanh ra xe. Chồng tôi ngạc nhiên khi thấy tôi vừa ôm chặt Erik trong tay vừa khóc, vừa lẩm bẩm suốt ” Chúa ôi, xin tha thứ cho con, xin hãy tha thứ cho con.”
Hôm ấy, tôi đã được chứng kiến một tình yêu thương đơn sơ, tin cậy hoàn toàn, không xét đoán ai qua chính đứa con trai bé nhỏ của mình. Một đứa trẻ nhìn thấy được một tấm lòng của một con người, trong khi mẹ nó chỉ nhìn thấy được những quần áo bên ngoài mà thôi!
Câu hỏi suy gẫm
+ Khi nhìn một người khác, bạn thường chú trọng đến điều gì nơi họ?
+ Bạn có mang trong lòng một niềm tin và tình yêu đơn sơ như con trẻ không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 18:3-4
3 “… quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ, thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu. 4 Vậy, hễ ai trở nên khiêm nhường như đứa trẻ nầy, sẽ là lớn hơn hết trong nước thiên đàng.”
**
Chúa Jesus thật sự rất yêu thương bạn
Theo như thường lệ, cứ mỗi trưa Chúa nhật, sau lễ thờ phuợng buổi sáng ở nhà thờ, ông mục sư cùng đứa con trai nhỏ 11 tuổi của mình sẽ đi xuống phố và phát truyền đạo đơn. Vào buổi trưa Chúa nhật hôm ấy, đến giờ hai cha con đi phát truyền đạo đơn thì ngoài trời mưa như trút nước và thật giá buốt. Đứa con trai nhỏ mặc đồ ấm và áo mưa vào…
“Ba ơi, con sẵn sàng rồi đây!” cậu bé nói.
Người cha hỏi, “Con sẵn sàng cái gì thế?”
“Ba quên rồi sao, tới giờ mình đi ra ngoài phát truyền đạo đơn rồi.”
Người cha trả lời, “Con à, ở ngoài trời lạnh và mưa tầm tã thế kia mà.”
Cậu con trai đã làm người cha sửng sốt khi hỏi lại, “Nhưng ba ơi, người ta vẫn sẽ phải chết nơi hỏa ngục, mặc dù trời có mưa hay không, phải không ba?”
Người cha trả lời, “Con à, nhưng ba sẽ không thể ra ngoài với thời tiết thế này.”
Với vẻ thất vọng, cậu con trai hỏi cha mình, “Ba ơi, ba cho con đi một mình nghe? Đi mà …”
Người cha ngần ngại một phút rồi trả lời, ” Con có thể đi. Cầm lấy những truyền đạo đơn này, đi cẩn thẩn nghe con.”
“Cám ơn ba!”
Và với một xấp truyền đạo đơn trên tay, cậu bé bước ra và đi giữa cơn mưa lớn. Cậu bé 11 tuổi đi bộ dọc những con đường trên phố, đi từ nhà này qua nhà khác và trao những cuốn truyền đạo đơn nho nhỏ cho bất kỳ người nào cậu gặp trên đường. Sau 2 tiếng đồng hồ đi bộ dưới mưa, cậu bé bị thấm nước ướt nhem và lạnh cóng, bây giờ chỉ còn lại một tấm truyền đạo đơn cuối cùng. Cậu dừng lại ở một góc đường và nhìn xem có ai đi ngang qua để đưa cho họ, nhưng đường phố hoàn toàn vắng vẻ.
Rồi cậu bé cất bước về hướng căn nhà đầu tiên cậu thấy, cậu băng qua vỉa hè đến trước ngôi nhà và bấm chuông. Cậu bấm chuông – nhưng không ai trả lời. Cậu lại bấm chuông lần nữa, rồi lần nữa… nhưng vẫn không có ai trả lời cả. Cậu bé đứng đợi, vẫn không có tiếng trả lời. Cậu bé định quay gót đi, nhưng một điều gì lại khiến cậu đứng lại. Một lần nữa, cậu lại bấm chuông liên tục và đấm vào cửa ầm ĩ. Cậu đợi, có cái gì đó giữ cậu bé đứng đó chờ. Cậu bấm chuông lần nữa, và lần này cánh cửa từ từ mở ra. Một phụ nữ đứng tuổi trông rất buồn rầu xuất hiện trước cửa.
Bà hỏi giọng nhỏ nhẹ, “Cậu bé, tôi có thể giúp gì không?”
Với ánh mắt sáng ngời và nụ cười rạng rỡ, cậu bé nói, “Thưa bà, cháu xin lỗi vì làm phiền, nhưng cháu chỉ muốn nói rằng CHÚA JESUS THẬT SỰ RẤT YÊU THƯƠNG BÀ! Cháu đến để tặng bà cuốn truyền đạo đơn cuối cùng của cháu, đây là cuốn sách nói về Chúa Jesus và tình yêu thương vĩ đại của Ngài dành cho con người.” Nói rồi cậu trao cuốn sách cho bà và xin phép đi về.
Người phụ nữ nọ nói với theo, “Cám ơn cậu bé! Xin Chúa chúc phước lành trên cậu!”
Ngày Chúa nhật sau đó trong nhà thờ, người cha Mục sư đứng trên bục giảng, và khi buổi nhóm bắt đầu, ông hỏi, “Có ai trong quý vị muốn làm chứng hay muốn chia sẻ điều gì không?”
Từ từ, ở hàng ghế phía sau, một phụ nữ đứng tuổi đứng lên. Khi bà bắt đầu nói, khuôn mặt bà toát ra vẻ sáng ngời. “Không ai trong quý vị biết tôi. Tôi chưa bao giờ đến đây lần nào. Quý vị thấy đó, trước Chúa nhật tuần trước, tôi không phải là người tin Chúa. Chồng tôi qua đời được ít lâu, để lại mình tôi đơn độc trong cuộc đời này. Chúa nhật tuần trước, một ngày mưa tầm tã và lạnh lẽo, tôi buồn bã đến nỗi nghĩ rằng sẽ kết thúc cuộc đời mình ở đây vì tôi không còn có chút hy vọng hay ước muốn sống nào nữa.
Vì thế tôi chuẩn bị sợi dây thừng và cái ghế, rồi trèo lên cầu thang trên căn gác nhà tôi. Tôi treo dây lên trần nhà một cách cẩn thận, rồi trèo lên ghế và tròng đầu kia vào cổ. Tôi đứng trên chiếc ghế đó, cô đơn cùng cực và lòng tan nát, tôi chuẩn bị đá cái ghế đi thì đột ngột có tiếng chuông cửa làm tôi giật mình.
Tôi nghĩ, “Đợi một phút, người ta sẽ bỏ đi thôi.” Tôi đợi và đợi – rồi tiếng chuông cửa như càng lúc càng to và liên tục, và rồi người gọi cửa còn gõ cửa rất ồn ào. Tôi lại nghĩ, “Không biết ai trên đời này đi kiếm tôi? Không có ai bấm chuông nhà tôi hay đến thăm tôi từ rất lâu rồi!” Tôi tháo sợi dây thừng ra và đi ra cửa. Chuông reo inh ỏi… Khi tôi mở cửa, thật không thể tin vào mắt mình!
Trước hiên nhà tôi là một cậu bé sáng sủa nhất mà tôi từng gặp, mặt cậu sáng như thiên thần! Nụ cười của cậu! Ôi, tôi không thể nào tả được cho quý vị! Và những lời cậu nói đã làm sống lại trái tim vốn đã chết của tôi, cậu nói rằng “Thưa bà, cháu chỉ đến để nói rằng Chúa Jesus thật sự rất yêu thương bà!” Rồi cậu trao cho tôi cuốn sách nhỏ mà tôi đang cầm đây. Khi cậu bé từ biệt và ra đi dưới cơn mưa trong cái lạnh buốt giá, tôi đóng cửa lại, vào nhà và đọc từng câu trong cuốn sách này. Sau đó tôi trở vào căn gác nhỏ, tháo sợi dây thừng và cất cái ghế. Tôi không cần dùng đến chúng nữa.
Quý vị thấy đó, tôi bây giờ đã là một đứa con hạnh phúc của một vị Vua. Bởi vì sau cuốn sách có địa chỉ của quý Hội Thánh đây, nên tôi đến để gửi lời cám ơn vị thiên thần nhỏ của Chúa, người đã đến với tôi rất đúng lúc, và cứu linh hồn tôi khỏi hỏa ngục đời đời.”
Lúc bấy giờ trong nhà thờ không ai cầm được nước mắt. Người cha mục sư bước xuống khỏi bục giảng, đến dãy ghế mà vị thiên thần nhỏ đang ngồi, ông dâng lời ngợi ca và tôn vinh Danh Chúa vang khắp cả nhà thờ. Ông ôm lấy cậu bé và khóc nức nở không kiềm chế được.
Có lẽ chưa có Hội Thánh nào có được phút giây vinh quang như thế! Và có thể vũ trụ này chưa từng chứng kiến người cha nào được tràn đầy tình thương và vinh dự từ con trai mình như thế, trừ một người Cha, là Đức Chúa Trời, Ngài cũng đã bằng lòng cho con trai Một của mình, là Chúa Jesus, bước vào thế giới lạnh lẽo và tối tăm này. Và Đức Chúa Trời đã nhận Chúa Jesus trở về trong niềm vui không thể nói hết được, và khi cả thiên đàng tôn vinh và ngợi khen sự vinh hiển của Vua, thì Ngài ngồi bên cạnh Con Trai yêu dấu mình trên ngai cao cả, trên hết mọi danh cao cả và quyền uy.
Có thể bạn đang đọc những dòng này là một người cũng đang đi trong sự tối tăm, lạnh lẽo và đơn độc của cuộc đời mình. Cũng có thể bạn là một Cơ đốc nhân, hoặc bạn không có nan đề nào trong cuộc sống, hoặc có thể bạn chưa biết vì Vua cao cả kia. Dù bạn trong trường hợp nào, hay dù bạn đang trong hoàn cảnh ra sao, trong nan đề thế nào, và dù là hoàn cảnh đó tồi tệ đến đâu, tôi muốn bạn biết rằng tôi đến chỉ để nói với bạn rằng “CHÚA JESUS THẬT SỰ RẤT YÊU THƯƠNG BẠN!”
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có thật sự cảm nhận được tình yêu tuyệt diệu của Chúa dành cho riêng đời sống mình không?
+ Có bao giờ bạn suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm của mình trong việc truyền rao Danh Chúa và đặt nó là công việc cấp bách không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 3:16
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
**
Câu chuyện về Tommy
John Powell, một giáo sư dạy thần học của trường đại học Loyola ở Chicago đã viết về một học sinh của ông tên là Tommy. “Khoảng mười hai năm trước, tôi đứng nhìn các sinh viên của mình xếp hàng vào lớp học môn “Thần đạo”. Đó cũng là ngày đầu tiên tôi gặp Tommy.
Tôi không tin được vào mắt mình. Anh ta đang đứng chải đầu, mái tóc vàng hoe, dài đến ngang lưng. Đó là lần đầu tiên tôi thấy một đứa con trai để tóc dài đến như vậy. Tôi nghĩ chắc kiểu tóc này là một mốt mới cũng nên. Tôi biết trong suy nghĩ của tôi, điều quan trọng không phải là cách bạn để tóc thế nào, mà là nó có ý nghĩa thế nào; nhưng lúc đó tôi chưa chuẩn bị tinh thần đón nhận những tư tưởng mới mẻ kiểu này nên cảm xúc của tôi cứ thể hiện ra. Tôi lập tức đánh chữ “Cá biệt” vào tên Tommy vì thật sự anh ta quả là rất cá biệt.
Tommy trở nên người “vô thần” tạm trú trong lớp thần đạo của tôi. Anh khăng khăng phản đối, cười nhạo và không chấp nhận khả năng rằng “có một Đấng, một Chúa yêu thương con người vô điều kiện”. Chúng tôi sống với nhau suốt một học kỳ trong hoà bình, mặc dù tôi phải công nhận anh ta là một nổi phiền muộn thật sự cho tôi.
Khi anh ta trở lại vào cuối khóa học và nộp bài thi cuối khoá, anh ta hỏi tôi bằng giọng pha chút giễu cợt, “Giáo sư có nghĩ rằng một ngày nào đó, em sẽ tìm thấy Chúa không?”
Tôi quyết định dùng một liệu pháp hơi sốc một chút. “Không”, tôi nói giọng chắc nịch.
“Ồ, em lại nghĩ rằng đó phải mục đích mà giáo sư muốn đạt được chứ.” Tôi để anh ta đi ra gần tới cửa lớp rồi nói giật lại, “Tommy! Tôi không nghĩ rằng anh sẽ tìm được Chúa, nhưng tôi tin chắc rằng Chúa sẽ tìm anh!”
Anh ta nhún vai rồi bước ra khỏi lớp, và cũng bước ra khỏi cuộc đời tôi.
Tôi cảm thấy một chút thất vọng mỗi khi nghĩ rằng anh ta đã không nhận ra được câu nói “thông minh” của tôi, “Chúa sẽ tìm anh!” (Ít ra là tôi tự nghĩ đó là câu nói thông minh.) Sau đó tôi nghe nói Tommy đã tốt nghiệp và điều đó cũng đủ làm cho tôi thấy dễ chịu.
Rồi có một tin buồn, tôi nghe rằng Tommy đã bị ung thư thời kỳ cuối. Trước khi tôi kiếm ra anh ta, anh đến tìm tôi. Khi anh bước vào văn phòng tôi, thân thể anh tiều tụy hẳn ra, mái tóc dài bây giờ rụng hết vì kết quả của những cuộc hóa trị. Nhưng đôi mắt anh sáng ngời, và giọng nói anh mạnh mẽ, tôi tin đây là lần đầu tiên anh như thế.
Tôi thốt lên, “Tommy, tôi vẫn thường nhắc đến anh. Tôi nghe anh bị bệnh phải không?”
“Ồ vâng, thưa giáo sư, em bệnh rất nặng. Em bị ung thư cả hai phổi. Chuyện này là chủ đề để mọi người bàn cả mấy tuần nay.”
Tôi hỏi, “Em có thể nói cho tôi nghe được không, Tommy?”
“Chắc chắn rồi, giáo sư muốn biết điều gì nào?” anh trả lời tôi.
“Em nghĩ thế nào về cuộc đời mới được hai mươi bốn tuổi và đang phải chết dần chết mòn?”
“Vâng thưa giáo sư, nhưng cũng có nhiều điều còn tệ hại hơn thế nữa.”
“Ví dụ?”
“Như là đang ở tuổi năm mươi và chẳng có một giá trị đích thực nào hay chẳng có một lý tưởng cho cuộc sống; chẳng hạn như ở tuổi năm mươi và suốt ngày nghĩ đến rượu chè, tán gái và chuyện kiếm tiền là mục đích “to nhất” của cuộc đời.”
Tôi bắt đầu dò tìm lại trong bộ nhớ của mình, tìm kiếm cái chữ “cá biệt” mà ngày nào tôi đã tặng cho Tommy. (Dường như người nào mà tôi đánh giá phẩm chất là “tệ”, rồi cố gắng loại bỏ ra, thì Chúa lại đem họ trở lại để dạy dỗ tôi.)
Tommy nói tiếp, “Nhưng điều khiến em đến gặp giáo sư là câu nói mà giáo sư nói với em vào bữa học cuối cùng.” (Anh ta đã nhớ điều đó!) “Em đã hỏi rằng giáo sư có nghĩ em sẽ tìm gặp được Chúa không, và câu trả lời “không” của giáo sư đã làm em thật sự rất ngạc nhiên. Rồi giáo sư nói, “Nhưng Chúa sẽ tìm anh!” Em nghĩ về điều đó rất nhiều, em cũng bỏ công sức nghiên cứu, tìm kiếm Chúa trong thời gian đó. (Ồ, câu nói “thông minh” của tôi. Anh ta đã nghĩ về nó rất nhiều!) Nhưng đến khi các bác sĩ cắt một khối u trong người em và bảo em đó là khối u ác tính, lúc đó em suy nghĩ thật sự nghiêm túc về vị trí của Chúa.
Rồi khi mầm ác tính lan ra các bộ phận khác của cơ thể, em đã thật sự đập gọi cửa thiên đàng. Nhưng Chúa không chịu bước ra. Thật ra, chẳng có gì xảy ra cả. Giáo sư có bao giờ cố hết sức để làm gì đó trong thời gian dài mà cuối cùng vẫn chẳng được gì không? Lúc đó mình sẽ mang tâm lý chán nản, chẳng muốn cố gắng nữa, rồi một ngày mình sẽ bỏ cuộc.
Thế là, một ngày nọ em thức dậy, em quyết định bỏ cuộc, thay vì quẳng thêm vài lời thỉnh cầu vô ích qua bức tường cao kia cho Chúa, Đấng mà chả biết chắc có thật hay không, em quyết định chẳng thèm quan tâm tới chuyện Thượng đế, chuyện đời sau, hay những chuyện giống vậy nữa… Em nghĩ thà để chút thời gian ít ỏi còn lại của đời mình để làm việc gì ích lợi hơn.
Em nhớ về giáo sư và lớp thần đạo, em nhớ một điều nữa mà giáo sư đã nói: “Nỗi buồn sâu sắc nhất là đi qua cuộc đời mà không có tình yêu thương. Nhưng còn có một nỗi buồn cũng ngang ngửa như vậy: đó là mình đi qua và rời thế giới này mà chưa kịp nói cho người mình thương rằng mình thương yêu họ”. Vì vậy, em bắt đầu thực hành việc đó với người khó nhất, đó chính là ba em.
Ba em đang đọc báo khi em tiến đến và mở lời, “Ba ơi…”
“Có chuyện gì thế?” ba vẫn chăm chú đọc báo trong lúc trả lời em.
“Ba ơi, con muốn nói chuyện với ba.”
“Được rồi, nói đi.”
“Con muốn nói là…nó rất quan trọng.”
Ông hạ tờ báo thấp xuống một chút, “Chuyện gì thế?”
“Ba ơi, con rất thương ba. Con chỉ muốn ba biết rằng con thương ba.”
Tom mỉm cười với tôi và kể với một vẻ mãn nguyện trên mặt, như thể có một niềm vui đang lan chảy, sưởi ấm trong lòng anh ta.
“Tờ báo trên tay ba rơi xuống sàn nhà. Ông đã làm hai điều mà em chưa từng thấy trước đây bao giờ. Ông khóc và ôm chầm lấy em. Hai cha con đã nói chuyện suốt đêm hôm đó cho đến tận sáng hôm sau, dù rằng sáng hôm sau ông phải đi làm. Cảm giác được gần gũi với ba thật tuyệt dịu làm sao, được nhìn thấy những giọt nước mắt yêu thương của ông, được ở trong vòng tay của ông, và được nghe ông nói rằng “ba thương con.”
Đối với mẹ và đứa em trai thì có phần dễ dàng hơn. Cả nhà đều khóc, ôm lấy nhau, và bắt đầu nói cho nhau nghe những tình cảm thật của mình. Cả nhà đã chia sẻ cho nhau tất cả những điều bí mật mà mình giữ kín bao năm qua. Em chỉ hối tiếc một điều là đã giữ kín tình cảm của mình quá lâu.
Và bây giờ em bắt đầu cởi mở với mọi người. Và cho đến một ngày, em nhìn lại và thấy rằng Chúa ở đó. Ngài đã không đến với em khi em cầu xin. Hình như Chúa làm mọi việc theo cách của Ngài và vào thời điểm mà Ngài đã định. Nhưng điều quan trọng là Ngài vẫn ở đó. Ngài đã tìm đến em. Giáo sư nói đúng, Ngài tìm đến em ngay cả khi em không còn tìm Ngài nữa.
Tôi thật sự kinh ngạc, “Tommy, tôi nghĩ em đang nói một điều rất quan trọng, quan trọng hơn cả điều em nhận ra. Đối với tôi, ít nhất là em đã công nhận rằng để tìm gặp Chúa, không phải xem Ngài như một tài sản của cá nhân mình, hay một người chuyên giải quyết những nan đề, hoặc là một Đấng an ủi nhất thời khi mình cần, mà bằng cách chính mình phải sống đời sống yêu thương. Phao lô có nói rằng “Đức Chúa Trời là sự yêu thương, ai ở trong sự yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy.”
Tom, em có thể giúp tôi một việc không? Em biết không, khi em học trong lớp thầy năm đó, em là một gánh nặng cho thầy. Nhưng bây giờ, chính em đã làm cho thầy cảm thấy nhẹ nhàng. Em có thể đến lớp thần đạo mà thầy đang dạy và kể cho các sinh viên nghe hết thảy mọi điều mà em vừa kể cho thầy nghe không? Nếu như thầy kể cho họ nghe thì hiệu quả chỉ bằng một nửa so với chính em kể cho họ.
“Ồ….Em sẳn sàng kể cho giáo sư nghe, nhưng em không biết là em có sẵn sàng để kể cho lớp của giáo sư hay không?”
“Tom, hãy suy nghĩ về việc này. Khi nào em sẵn sàng, hãy báo cho thầy biết.”
Một vài ngày sau Tom gọi cho tôi và báo rằng anh đã sẵn sàng đến với các các sinh viên của tôi, rằng anh muốn làm việc đó cho Chúa và cho tôi. Chúng tôi đã lên lịch cho Tom. Tuy nhiên, cuối cùng Tom đã không kịp làm điều đó. Tom có một cuộc hẹn còn quan trọng hơn cả buổi nói chuyện trong lớp học của tôi.
Tất nhiên, cuộc đời của Tom không thật sự kết thúc bởi sự qua đời của cậu ta, nó chỉ là một thay đổi. Tom đã bước một bước dài từ niềm tin sang một khải tượng. Cậu ta đã tìm được cuộc sống đẹp hơn những gì mà mắt con người từng thấy, tai con người đã từng nghe và xa hơn cả sự hiểu biết của con người.
Trước khi Tom qua đời, chúng tôi nói chuyện với nhau lần cuối. “Em không thể làm chứng cho các sinh viên trong lớp của giáo sư,” Tom nói.
“Tôi hiểu, Tom.”
“Giáo sư có thể kể với họ giùm em được không? Hãy kể cho cả thế giới nghe giùm em, được không?”
“Tôi sẽ kể cho họ, Tom. Tôi sẽ cố gắng làm tốt nhất những gì có thể làm.”
Vì vậy, tôi xin cảm ơn tất cả các bạn đã kiên nhẫn nghe tôi làm chứng về câu chuyện này. Và đối với em, Tommy, dù em đang ở đâu trên thiên đàng thì hãy biết rằng “Tôi đã kể cho họ, Tommy… tôi đã làm tốt nhất những gì có thể làm.”
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có cảm nhận được tình yêu thương mà Chúa dành cho bạn không? Bạn có bày tỏ tình yêu thương đó qua cách sống của bạn với mọi người không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IGi 4:16
“… Đức Chúa Trời tức là sự yêu thương, ai ở trong sự yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy”
**
Nhắm đích
Sally đã thuật lại cho chúng tôi nghe một kinh nghiệm mà cô học được trong một lớp ngoại khóa với tiến sĩ Smith. Cô kể rằng tiến sĩ Smith là diễn giả nổi tiếng với những bài giảng rất tinh tế.
Một ngày nọ, khi bước vào lớp, Sally nhận thấy rằng hôm nay lớp sẽ có một trò vui gì đấy. Trên tường là một tấm bia lớn, và trên chiếc bàn gần đó có rất nhiều phi tiêu. Tiến sĩ Smith bảo với tất cả học sinh rằng hãy vẽ hình của người nào mà bạn ghét nhất, hoặc là hình của ai làm cho bạn tức giận, và ông cho phép họ ném phi tiêu vào hình vẽ đó.
Cô bạn của Sally vẽ hình cô gái đã “cướp” mất người yêu của cô. Một người khác thì vẽ hình đứa em trai của mình. Sally cũng vẽ bức hình của một người bạn cũ, cô dồn công sức để vẽ sao cho thật giống, ngay cả những cái mụn trên mặt cô bạn. Xong xuôi, Sally có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình…
Cả lớp xếp hàng và bắt đầu ném phi tiêu, mọi người cười nói rôm rả và không khí có vẻ rất vui nhộn. Một số học sinh ném phi tiêu rất mạnh đến nỗi tấm hình của họ bị rách toạc cả ra. Sally chờ tới lượt mình… Và cô đã rất thất vọng khi tiến sĩ Smith đề nghị mọi người dừng lại và trở về chỗ ngồi vì thời gian có hạn.
Trong khi Sally ngồi nghĩ và hậm hực trong lòng vì không có cơ hội để ném phi tiêu vào hình kẻ mình ghét, thì tiến sĩ Smith bắt đầu gỡ tấm bia ra khỏi tường.
Và sau tấm bia đó là bức hình của Chúa Jesus…
Một sự im lặng bao trùm cả lớp học khi các học sinh trong lớp nhìn thấy bức hình của Chúa Jesus bị rách nham nhở trên tường; Những cái lỗ và những dấu lởm chởm trên mặt Chúa, và hai mắt Chúa bị đâm thủng.
Tiến sĩ Smith chỉ nói một câu, “Hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy.”
Tất cả mọi người đều im lặng, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt của những học sinh trong lớp, mọi người nhìn vào bức ảnh của Chúa và suy gẫm cho bản thân mình.
Câu hỏi suy gẫm
+ Hãy nghĩ về người mà bạn ghét nhất! Bạn đang đối xử với người đó như thế nào?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 25:40
“… Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy.”
**
Những con vịt nuôi!
Có một đàn vịt trời đang bay hướng về phía nam để trú đông. Chúng bay tạo thành một chữ “V” rất đẹp trên bầu trời, bất cứ ai ở dưới đất nhìn lên cũng đều phải thích thú.
Một ngày nọ, Wally, một trong những chú vịt trời trong đàn, bỗng nhìn thấy cái gì đó rất hấp dẫn dưới mặt đất… Một cái sân nuôi gà vịt quanh nhà kho, ở đó có một đàn vịt nhà đang được nuôi trong nông trại. Bọn chúng chạy lạch bạch quanh sân, kêu quàng quạc rất vui vẻ nhộn nhịp và mỗi ngày đều được ăn bắp mà người ta thảy ra sân cho chúng.
Wally có vẻ thích thú trước những gì chú chứng kiến. “Chắc hẳn ăn bắp đó sẽ rất tuyệt,” chú tự nghĩ, “Còn ở đây, mình cứ phải bay suốt chặng đường dài mệt mỏi này. Mình thích được chạy loanh quanh thảnh thơi trong sân như vậy một lúc.” Sau khi suy nghĩ một hồi, Wally quyết định rời khỏi đàn, lượn một vòng về bên trái và lao xuống về hướng cái sân nuôi gà vịt nọ.
Chú đáp xuống giữa những chú vịt nhà trong sân, và bắt đầu chạy vớ vẩn trong sân, kêu quàng quạc như bọn họ. Rồi chú cũng bắt đầu ăn bắp. Trong lúc đó, đàn vịt trời vẫn tiếp tục hành trình bay về phía Nam, nhưng Wally chẳng thèm để ý tới. “Mình sẽ trở lại đàn khi họ từ phía Nam bay ngang qua đây trong vài tháng tới,” chú tự bảo.
Nhiều tháng trôi qua và nghĩ rằng đã hết mùa Đông, Wally nhìn lên trời và chờ đợi đàn của mình bay trở về phương Bắc. Khi chúng xuất hiện, Wally thấy đàn của mình bay thật đẹp trên bầu trời. Lúc này, Wally cũng đã thật sự chán ngán cái sân nuôi vịt ở đây rồi.
Nó thật là dơ bẩn! Và ở đây, bất cứ chỗ nào cũng chỉ toàn nghe tiếng quàng quạc mà thôi. “Bây giờ là lúc mình phải rời khỏi chỗ này,” Wally thầm nghĩ. Thế là chú vỗ cánh và cố gắng bay lên. Nhưng chú đã tăng thêm mấy ký vì ăn nhiều bắp quá, và chú lại chẳng bao giờ tập thể dục cho đôi cánh của mình nữa.
Cuối cùng Wally cũng bay lên khỏi mặt đất, nhưng chú bay thật chậm chạp và tông ầm vô hàng rào của sân nuôi gà vịt. Chú rớt bịch xuống đất! Wally tự nhủ trong lòng, “Ồ không sao, mình chỉ cần đợi họ bay về phía Nam trú đông lần tới, mình sẽ bay lên cùng mọi người và sẽ lại là một chú vịt trời thôi.”
Nhưng rồi đàn vịt trời lại bay qua một lần nữa, Wally lại cố gắng vỗ cánh thật mạnh để bay lên khỏi cái sân nuôi vịt kia. Vấn đề đơn giản là chú không còn đủ sức để bay lên nữa. Cứ mỗi mùa Đông và mùa Xuân, Wally nhìn thấy đàn của mình bay ngang qua trên trời, và chúng cũng vẫy gọi chú. Nhưng mọi nổ lực của Wally đều thất bại.
Cuối cùng, Wally không còn chú ý đến đàn vịt trời bay qua trên đầu mình nữa. Dần dần, chú hầu như không còn nhận ra chúng. Và kết quả cuối cùng là chú đã trở nên một con vịt nuôi.
Thỉnh thoảng chúng ta mệt mỏi để là những chú vịt trời…. những môn đồ của Chúa Jesus. Thật không dễ dàng để luôn vâng lời Chúa và kỷ luật bản thân mình trên hành trình dài theo Chúa. Khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi như vậy cũng chính là lúc Satan xúi giục chúng ta “rời khỏi đàn” và tham gia vào bầy vịt nuôi… chính là thế gian…
Nhưng hãy nhìn những gì đã xảy ra cho Wally. Chú vịt nghĩ chỉ là “tìm hiểu cho biết” một chút thôi, và sẽ rời khỏi nó khi mình muốn. Nhưng chú đã không làm được điều đó. Tôi lỗi cũng giống như vậy. Tội lỗi là cái bẫy, và nó có cách để làm chúng ta ngày càng đi xuống.
Cuối cùng, chúng ta chẳng còn nhận ra mình thật sự là ai nữa… Con trai và con gái của Đấng Tối Cao; chúng ta bắt đầu sống như những con vịt nuôi, trái ngược với cương vị là con cái Chúa.
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn hãy dành một phút và suy nghĩ xem, mình đang là “một chú vịt trời” hay đã trở nên “một con vịt nuôi trong sân” mà không hay biết?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 26:41
Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối.
**
Tha thứ mãi mãi
Lisa ngồi trên sàn với chiếc hộp trước mặt. Cái hộp cũ kĩ đựng một tờ giấy kẻ ô vuông. Và đây là câu chuyện đằng sau những ô vuông…
“Các con phải tha thứ cho anh chị em mình bao nhiêu lần?” Cô giáo trường Chúa Nhật đọc to luôn câu trả lời cho cả lớp nghe,” 70 nhân 7 lần! “
Lisa kéo tay Brent – em trai cô, “Thế là bao nhiêu lần?”
Brent viết số 490 lên góc vở Lisa. Brent nhỏ bé, vai hẹp, tay ngắn, đeo cặp kính quá khổ và tóc rối bù. Nhưng năng khiếu âm nhạc của cậu làm bạn bè ai cũng phải phục. Cậu học Piano từ năm lên 4, kèn Darinet năm lên 7 và giờ đây cậu đang chinh phục cây đèn Oboa. Lisa chỉ giỏi hơn em trai mình mỗi một thứ: bóng rổ! Và hai chị em cô thường chơi bóng rổ sau giờ học. Brent thấp bé lại yếu, nhưng nó không nỡ từ chối chị vì đó là thú vui duy nhất của Lisa giữa những bảng điểm chỉ toàn yếu với kém của cô.
Sau giờ học, hai chị em lại chạy ra sân bóng rổ. Khi Lisa tấn công, Brent bị khuỷu tay Lisa huých vào cằm. Lisa dễ dàng ghi điểm. Cô hả hê với bàn thắng cho đến khi nhìn thấy Brent ôm cằm.
“Em ổn cả chứ? Chị lỡ tay thôi mà! “
“Không sao, em tha lỗi cho chị”, cậu bé cười, “phải tha thứ 490 lần và lần này là 1, vậy chỉ còn 489 lần nữa thôi nhé!”
Lisa cười. Nếu nhớ đến những gì Lisa đã làm với Brent thì hẳn 490 lần đã hết từ lâu lắm.
Hôm sau, 2 chị em chơi bắn tàu trên giấy. Sợ thua, Lisa nhìn trộm giấy của Brent và dễ dàng “chiến thắng”.
“Chị ăn gian!”, Brent nhìn Lisa nghi ngờ.
Lisa đỏ mặt, ” Chị xin lỗi!”
“Ðược rồi, em tha lỗi”, Brent cười khẽ, “thế là chỉ còn 488 lần thôi, phải không?”
Sự độ lượng của Brent làm Lisa cảm động. Tối đó, Lisa kẻ một biểu đồ với 490 hình vuông.”Chúng ta dùng cái này để theo dõi những lần chị sai và em tha lỗi. Mỗi lần như vậy, chị sẽ gạch chéo 1 ô”, miệng nói, tay Lisa đánh dấu 2 ô. Rồi cô bé dán tờ biểu đồ lên tường.
Lisa có rất nhiều cơ hội đánh dấu vào biểu đồ. Mỗi khi nhận ra mình sai, Lisa xin lỗi rất chân thành. Và cứ thế… Ô thứ 211: Lisa giấu sách Tiếng Anh của Brent và cậu bé bị điểm 0. Ô thứ 394: Lisa làm mất chìa khoá phòng Brent… Ô thứ 417: Lisa dùng thuốc tẩy quá nhiều làm hỏng áo Brent… Ô thứ 489: Lisa mượn xe đạp của Brent và đâm vào gốc cây. Ô 490: Lisa làm vỡ chiếc cốc hình quả dưa mà Brent rất thích. Cuối cùng, Lisa tuyên bố, “Thế là hết! Chị sẽ không có lỗi gì với em nữa đâu.”
Brent chỉ cười, “Phải, đúng rồi.”
Nhưng rồi vẫn có lần thứ 491. Lúc đó Brent là sinh viên trường nhạc và cậu được cử đi biểu diễn tại đại nhạc hội New York. Niềm mơ ước thành hiện thực.
Người ta gọi điện đến thông báo lịch biểu diễn nhưng Brent không có nhà, Lisa nghe điện :” 2h chiều ngày mùng 10 nhé!” Lisa nghĩ mình có thể nhớ được nên cô đã không ghi lại.
“Brent này, khi nào con biểu diễn?” Mẹ hỏi.
“Con không biết, họ chưa gọi điện báo ạ!” Brent trả lời.
Lisa lặng người, mãi mới lắp bắp, “Ôi! …. hôm nay ngày mấy rồi?”
“Mười hai, có chuyện gì thế? “
Lisa, bưng mặt khóc nức lên, “Biểu diễn… 2 giờ…. mùng 10…. người ta gọi điện…..tuần trước…. “
Brent ngồi yên, vẻ mặt nghi ngờ, cậu không dám tin vào nhữnng gì Lisa nói. Sau cùng cậu cũng hỏi được “Có nghĩa là… buổi biểu diễn đã qua rồi???”
Lisa gật đầu. Brent ra khỏi phòng, không nói thêm lời nào. Lisa về phòng, ngậm ngùi khóc. Cô đã huỷ hoại giấc mơ của em cô, và làm cả gia đình thất vọng. Rồi cô quyết định thu xếp đồ đạc, lén bỏ nhà đi ngay đêm hôm đó, để lại một mảnh giấy dặn mọi người yên tâm.
Lisa đến Boston và thuê nhà sống ở đó. Cha mẹ nhiều lần viết thư khuyên nhủ nhưng Lisa không trả lời. Cô nghĩ, “mình đã làm hại Brent, mình sẽ không bao giờ về nữa”. Ðó là ý nghĩ trẻ con của cô gái 19 tuổi.
Rất lâu sau, có lần gặp lại người láng giềng cũ: bà Nelson.
“Tôi rất tiếc về chuyện của Brent… “, bà ta mở lời.
Lisa ngạc nhiên, ” Sao ạ?”
Bà Nelson nhanh chóng hiểu rằng Lisa không biết gì. Bà kể cho cô nghe tất cả: xe chạy với tốc độ quá cao, Brent đi cấp cứu, các bác sĩ tận tâm nhưng Brent không qua khỏi.
Ngay trưa hôm đó, Lisa quay về nhà. Cô ngồi lặng yên trước chiếc hộp. Cô không thấy tờ biểu đồ ngày xưa kín đặc các gạch chéo mà lại có một tờ giấy lớn:
” Lisa yêu quý,
Em không muốn đếm những lần mình tha thứ, nhưng chị lại cứ muốn làm điều đó. Nếu chị muốn tiếp tục đếm, hãy dùng tấm bản đồ mới em làm cho chị.
Yêu chị,
Brent “
Mặt sau là 1 tờ biểu đồ giống như Lisa đã làm hồi bé, với rất nhiều ô vuông. Nhưng chỉ có 1 ô vuông đầu tiên có đánh dấu và bên cạnh là dòng chú thích bằng bút đỏ : ” Lần thứ 491: Tha thứ, mãi mãi! “
Câu hỏi suy gẫm
+ Trong lúc này, có lỗi lầm nào của người khác mà bạn vẫn giữ trong lòng, không thể tha thứ không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Co 3:13
nếu một người trong anh em có sự gì phàn nàn với kẻ khác thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau: như Chúa đã tha thứ anh em thể nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy.
**
Hãy giữ lại chiếc nĩa
Có một cô gái trẻ nọ vừa được chẩn đoán là mang một căn bệnh nan y và chỉ còn sống được ba tháng nữa mà thôi. Vì thế, cô gái chuẩn bị mọi thứ ” sẵn sàng” cho mình, cô liên lạc với ông mục sư và mời ông đến để bàn về những ước muốn sau cùng của mình. Cô nói với ông bài hát nào cô thích được hát trong tang lễ, đoạn Kinh Thánh nào sẽ được đọc, và cô sẽ được an táng như thế nào.
Mọi việc đã được bàn bạc rõ, và khi vị mục sư chuẩn bị ra về thì cô gái bất ngờ nhớ ra một điều rất quan trọng. “À, còn một điều này nữa,” cô gái nói giọng rất xúc động.
“Điều gì vậy?” Mục sư hỏi.
“Điều này rất quan trọng,” cô gái nói tiếp. “Tôi muốn được chôn cất với một cái nĩa trong tay phải.”
Vị mục sư đứng sững nhìn cô gái, ông không biết mình nên nói điều gì nữa.
“Điều đó kỳ cục lắm, phải không mục sư?” Cô gái trẻ hỏi.
“Vâng, thật tình thì cái yêu cầu này của cô làm tôi bối rối đấy.” Ông mục sư đáp.
Cô gái giải thích ” Một lần nọ, bà nội tôi đã kể cho tôi nghe một câu chuyện, và từ lúc đó trở đi, tôi cố gắng chuyển cái thông điệp này đến với những người tôi yêu mến và những người cần được nâng đỡ.
Bà nội tôi kể rằng trong suốt thời gian bà nhóm lại với Hội Thánh, trong những buổi thông công, cả Hội Thánh thường cùng ăn tối với nhau. Bà vẫn nhớ như in rằng khi các món ăn chính đã dùng xong và được dọn xuống, thì sẽ có một người đứng lên và nói “Xin mọi người giữ lại chiếc nĩa của mình.” Đó là lúc bà thích nhất, vì bà biết rằng sẽ có một món gì rất ngon chuẩn bị được dọn ra… Có thể đó là chiếc bánh sô-cô-la mềm hấp dẫn hoặc là chiếc bánh táo thơm phức. Sẽ là một món gì rất tuyệt vời và rất giá trị!
Vậy nên tôi chỉ muốn mọi người nhìn thấy tôi trong chiếc quan tài với cái nĩa trên tay, tôi muốn họ sẽ phải thắc mắc: “Chiếc nĩa kia để làm gì vậy?”. Và lúc đó, tôi muốn nhờ ông mục sư giải thích cho họ rằng, “Hãy giữ lại chiếc nĩa… vì điều tuyệt vời nhất vẫn chưa đến.”
Nước mắt vị mục sư tuôn ra vì cảm động, lòng đầy vui mừng. Ông ôm cô gái trẻ vào lòng và tạm biệt.
Ông mục sư biết rằng đây có thể là lần cuối cùng ông gặp cô gái trước khi cô qua đời. Nhưng ông cũng biết rằng cô gái trẻ đã có niềm tin vào sự sống đời đời mãnh liệt hơn cả chính ông, hơn cả những người gấp đôi tuổi đời với cô, những người gấp đôi kinh nghiệm sống và sự hiểu biết với cô. Vì cô BIẾT rõ có những điều tốt đẹp hơn đang đến trên đời sống mình.
Trong buổi lễ tang, mọi người đi vòng quanh quan tài để tạm biệt cô gái, họ thấy cô mặc chiếc váy rất đẹp và trên tay cô cầm một chiếc nĩa.
Hết người này đến người khác đi qua, ông mục sư đều nghe một câu hỏi, “Cô ấy cầm cái nĩa làm gì thế?”
Mỗi lần nghe câu hỏi, ông mục sư lại mỉm cười.
Và trong bài giảng, ông mục sư kể cho mọi người nghe về cuộc trò chuyện của mình với cô gái trước khi cô qua đời. Ông cũng giải thích với họ về chiếc nĩa và thông điệp mà cô gái muốn gửi đến mọi người.
Ông mục sư nói rằng bản thân ông không thể ngừng suy nghĩ về chiếc nĩa, và ông khuyên mời mọi người cũng hãy đừng quên nghĩ về nó.
Và ông đã đúng! Mọi người chẳng thể nào quên được!
Vì thế, nếu lần tới bạn dùng nĩa trong bữa ăn, hãy nhớ điều này: Điều tuyệt vời nhất của cuộc đời theo Chúa của chúng ta vẫn chưa đến!
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có tin rằng thiên đàng thực sự hiện hữu hay không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 14:2-3
2 “…Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. 3 Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.”
**
Lời hứa của một người cha
Vào năm 1989, một trận động đất kinh hoàng dường như san bằng Armenia, giết chết hơn 30,000 người chỉ trong vòng hơn bốn phút đồng hồ.
Giữa lúc hoảng loạn đó, một người cha sau khi để vợ mình trú an toàn trong nhà, ông chạy vội đến trường học, nơi đứa con trai của ông đang ở đó, để rồi chỉ nhận ra rằng ngôi trường đã bị san bằng tất cả.
Sau một phút chấn động trong tâm trí, người cha nhớ lại lời hứa của mình với con trai: “Bất cứ chuyện gì xảy ra, ba cũng sẽ luôn đứng ở đây chờ con!” Nước mắt người cha chan hòa trên má. Khi người đàn ông nhìn vào đống đổ nát mà trước đó nó là ngôi trường, tất cả hy vọng đều tiêu tan, nhưng ông vẫn nhớ đến lời cam kết với con trai mình.
Ông bắt đầu tập trung tìm xem chỗ mà ông thường đưa con trai đến lớp học vào mỗi buổi sáng. Ông nhớ lại lớp học của con mình ở phía cuối dãy phòng học ngay góc bên phải của tòa nhà, ông vội chạy nhanh đến đó và bắt đầu đào những mảnh vụn của toà nhà lên.
Khi ông đang đào, những vị phụ huynh đau khổ khác cũng vừa đến, họ đau khổ thốt lên: “Con trai tôi!” “Ôi, con gái của tôi!” Một số người tỉnh táo khác thì cố gắng kéo người đàn ông nọ ra khỏi đống gạch vụn của ngôi trường và nói rằng:
“Trễ quá rồi, anh ạ!”
“Chúng nó chết rồi!”
“Ông chẳng làm được gì nữa mà!”
“Hãy về nhà đi!”
“Nào anh, chúng ta hãy đối diện với sự thật, anh không thể làm được gì nữa!”
“Anh chỉ làm cho mọi việc thêm tồi tệ thôi!”
Mỗi lần có người nào nói điều gì, người đàn ông đều trả lời bằng một câu hỏi: “Bây giờ anh có định giúp tôi không?” Và rồi ông lại tiếp tục công việc đào bới để tìm con trai của mình, cứ từng hòn đá một được ông đào lên.
Người lính cứu hỏa đến và cố gắng kéo người đàn ông nọ ra khỏi đống gạch vụn kia, ông ta bảo, “Lửa đang bắt đầu cháy, nó sẽ bùng cháy khắp nơi. Ông đang trong nguy hiểm. Chúng tôi sẽ giải quyết việc này. Ông về nhà đi.” Đáp lại, người cha đầy tình thương này hỏi lại, “Ông có định giúp tôi một tay không?”
Rồi một người cảnh sát đến và nói, “Ông đang điên khùng và quẩn trí, mọi chuyện đã kết thúc rồi. Bây giờ ông đang làm nguy hiểm đến những người khác. Hãy về nhà đi. Chúng tôi sẽ giải quyết việc ở đây mà!” Người cha khốn khổ kia trả lời, “Ông có định sẽ giúp tôi một tay không, ông cảnh sát?” Nhưng không ai giúp ông cả.
Người đàn ông nọ can đảm tiếp tục công việc một mình, bởi vì chính bản thân ông cần biết một điều: “Con trai ta còn sống hãy thật sự đã chết rồi?”
Ông tiếp tục đào tám giờ đồng hồ… mười hai giờ… hai mươi bốn giờ… ba mươi sáu giờ… rồi, đến giờ thứ ba mươi tám, khi ông kéo tảng đá ra, ông nghe tiếng con trai mình… Ông thét gọi tên đứa con trai yêu dấu “ARMAND!” Ông nghe tiếng trả lời, “Ba hở!?! Con đây, ba! Con đã nói với mấy bạn là đừng có lo lắng. Con nói là nếu ba còn sống, thế nào ba cũng đến cứu con, và khi ba đến cứu con thì mấy bạn cũng sẽ được cứu ra nữa. Ba đã hứa với con là, “Bất cứ chuyện gì xảy ra, ba cũng sẽ luôn đứng ở đây chờ con!” Ba đã làm như vậy, ba ơi…”
Người cha mừng rỡ hỏi, “Con như thế nào? Ở đó thế nào rồi?”
“Ba ơi, ở đây có mười bốn đứa tụi con trong số ba mươi ba bạn trong lớp. Tụi con sợ lắm, vừa đói, vừa khát, may quá ba đã ở đây. Khi toà nhà sụp xuống, may mắn nó tạo khoảng trống này, tạo thành cái góc tam giác, nên tụi con được an toàn trong này.”
“Chui ra đây, con trai!”
“Không, ba! Để mấy bạn khác ra trước đi, vì con biết ba sẽ đem con ra! Bất cứ chuyện gì xảy ra, ba cũng sẽ ở đây với con!”
Trong đời sống theo Chúa của chúng ta, có lúc chúng ta tưởng Chúa ngủ quên, hoặc Ngài không quan tâm đến chúng ta, nhưng Chúa là Đấng Thành Tín, Ngài chẳng bao giờ thay đổi, Ngài chẳng lìa chúng ta, chẳng bỏ chúng ta. Dẫu rằng người đàn bà có quên cho con mình bú đi chăng nữa, Chúa sẽ chẵng bao giờ quên con cái Ngài.
Câu hỏi suy gẫm
+ Trong những hoàn cảnh khốn cùng, bạn có còn nhớ lời hứa “Chúa sẽ luôn ở cùng” và vững tin, trông cậy hoàn toàn nơi Ngài không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Phuc 31:6
Hãy vững lòng bền chí; chớ sợ chi và chớ kinh khủng trước mặt các dân đó; vì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời ngươi đi cùng ngươi; Ngài chẳng lìa khỏi ngươi, chẳng từ bỏ ngươi đâu
**
Sao Chúa bỏ rơi con?
Dòng sông Mississippi đang trong mùa lũ. Hai bên bờ, nước bắt đầu dâng lên cao. Dần dần, nước tràn vào khu vực nhà của Clem. Nước dâng lên ngập vỉa hè nơi Clem đang đứng. Từ xa, có một người đàn ông đang chèo trên một chiếc thuyền đang tiến về phía Clem “Nhảy lên đây và tôi sẽ đưa anh đến nơi cao hơn”.
“Không cần đâu, Chúa của tôi sẽ cứu tôi” Clem trả lời.
Nước sông vẫn tiếp tục dâng lên đến cửa sổ tầng hai ngôi nhà của Clem. Clem nhìn ra ngoài, thấy một chiếc xuồng máy đang tiến về phía mình.
“Nhảy lên đây, tôi sẽ đưa anh đến nơi cao hơn,” người đàn ông trên thuyền kêu to.
“Không đâu, Chúa của tôi sẽ cứu tôi” Clem lại trả lời.
Nước sông càng ngày càng dâng cao. Nước đã dâng lên tới mái nhà của Clem rồi. Bây giờ, Clem đã phải leo lên và ngồi trên nóc nhà để tránh bị dòng nước cuốn trôi. Dòng nước rất mạnh, đang xoáy cuồn cuộn quanh chân Clem. Bất ngờ, Clem thấy một chiếc trực thăng đang lượn trên đầu mình. Những người trên chiếc trực thăng đang có gắng gào thật to bằng một chiếc loa “Nắm sợi dây thừng và leo lên trên đây, chúng tôi sẽ đưa anh đến nơi cao hơn.
“Không cần đâu, Chúa của tôi sẽ cứu tôi” Clem vẫn trả lời.
Nước sông ngày một dâng cao và cuối cùng nó đã nhận chìm ngôi nhà cùng với Clem trong đó.
Và rồi Clem nhận ra là anh ta đang đứng trước mặt Chúa. Clem giận dữ hỏi Chúa “Con đã đặt trọn niềm tin của mình vào Chúa, tại sao Chúa lại bỏ rơi con?”
Và Chúa đã trả lời “Vậy thì con muốn ta làm gì cho con? Ta đã đem một chiếc thuyền, chiếc xuồng máy và cả chiếc trực thăng đên cứu con đó.”
Trong cuộc sống theo Chúa đôi lúc chúng ta đặt niềm tin của mình nơi Chúa, nhưng vẫn mong Chúa trả lời theo cách chúng ta nghĩ.
Câu hỏi suy gẫm
+ Có khi nào bạn để ý riêng của mình ngăn trở ý Chúa thực thi trên đời sống của bạn hay không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gia 4:3
Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình.
**
Những hạt ngọc trai
Câu chuyện kể về một cô bé tóc vàng rất dễ thương, cô bé chỉ khoảng năm tuổi. Trong lúc cùng mẹ đứng chờ tính tiền tại quầy thu ngân, cô bé nhìn thấy một chuỗi ngọc trai lấp lánh đựng trong một chiếc hộp màu hồng làm bằng kim loại.
“Ô, mẹ ơi, mẹ mua cho con chuỗi hạt đó đi, mẹ mua nó cho con đi.”
Người mẹ nhìn bảng giá được gắn trên đáy chiếc hộp, rồi bà quay lại nhìn cô con gái mình – lúc đó đang ngước mắt lên nhìn mẹ mong chờ được đồng ý. “Một đồng 95 cent, gần hai đồng lận con à. Nếu con thật sự thích nó, mẹ sẽ có một vài việc lặt vặt cho con làm và con sẽ nhanh chóng để dành đủ tiền để tự mua nó. Chỉ còn có một tuần nữa là đến sinh nhật con rồi, và bà ngoại có thể cho con một ít tiền lẻ nữa đấy.”
Vừa về đến nhà, Jenny đổ hết đóng tiền lẻ để dành bấy lâu và đếm: chỉ được có 17 cent thôi. Sau bữa ăn tối, cô bé cố gắng làm thêm nhiều việc lặt vặt trong nhà hơn nhiệm vụ hàng ngày của mình. Rồi cô bé còn sang nhà người hàng xóm và hỏi bà McJames có muốn cô giúp bà nhổ cỏ trong vườn không, và bà chỉ cần trả cho cô bé 10 cent mà thôi. Vào ngày sinh nhật của cô bé, bà ngoại lại cho thêm được 1 đồng nữa, vậy là cuối cùng Jenny cũng đã kiếm được đủ tiền để mua chuỗi ngọc trai đó.
Jenny quí chuỗi ngọc trai vô cùng. Nó làm cho cô bé thấy mình lớn lên và xinh đẹp hẳn ra. Đi đâu cô bé cũng đeo nó bên mình: đi học trường Chúa nhật, đến trường mẫu giáo, thậm chí khi đi ngủ nữa. Jenny chỉ cởi nó ra khi cô bé đi bơi hoặc là khi tắm mà thôi. Bởi vì mẹ Jenny bảo rằng, nếu chuỗi ngọc trai này bị ướt, nó sẽ ra teng và làm bẩn trên cổ cô bé.
Ba Jenny rất thương cô bé. Mỗi đêm khi Jenny chuẩn bị đi ngủ, ông thường dừng tất cả công việc đang làm, đến bên giường Jenny và kể chuyện cho cô bé nghe.
Vào một buổi tối nọ, khi ba Jenny kết thúc câu chuyện buổi tối, ông hỏi con gái, “Con có thương ba không, Jenny?”
“Dạ có chứ, ba cũng biết là con rất thương ba mà.”
“Vậy thì con có thể cho ba chuỗi hạt ngọc trai của con được không?”
“Ôi ba ơi, thôi ba đừng lấy chuỗi ngọc của con. Nhưng mà ba có thể lấy con ngựa trắng trong số các đồ chơi của con. Nó có cái đuôi màu hồng đó , ba nhớ không? Ba đã tặng con con ngựa đó. Con rất thích nó.”
“Cũng được, con yêu, ba thương con lắm, con ngủ ngon nhé.” Và người ba cuối xuống hôn nhẹ trên má Jenny trước khi rời đi.
Một tuần sau, khi kể xong câu chuyện, ba của Jenny lại hỏi:
“Con có thương ba không?”
“Ba ơi, ba biết là con thương ba nhiều lắm mà.'”
“Vậy thì con cho ba cái chuỗi ngọc trai của con đi.”
“Ôi, ba đừng lấy chuỗi ngọc trai của con. Nhưng mà ba có thể lấy con búp bê của con. Con búp bê mới toanh mà con được tặng trong ngày sinh nhật đó. Nó đẹp lắm, và ba cũng có thể lấy luôn chiếc mền màu vàng với cái giường ngủ của con búp bê nữa.”
“Thôi cũng được. Con ngủ ngon nhé. Chúa ban phước cho con,con gái cưng. Ba yêu con lắm.” Và như thường lệ, ông lại hôn nhẹ lên má Jenny trước khi rời khỏi giường cô bé.
Vài hôm sau, khi ba Jenny đến bên giường thấy Jenny đang ngồi xếp bằng trên giường. Khi ông đến, ông thấy chiếc cằm của Jenny run run, một giọt nước mắt đang chảy dài xuống má cô con gái bé bỏng.
“Sao thế con? Chuyện gì xảy ra với con vậy, Jenny?”
Jenny không nói gì, cô bé đưa bàn tay bé nhỏ của mình về phía cha. Và khi cô mở bàn tay của mình ra, bên trong là chuỗi ngọc trai bé xíu mà cô iu quí. Với một giọng run run, cô nói “Nó đây nè ba, con giao nó cho ba”.
Người ba Jenny nhìn con gái vô cùng cảm động. Ông đưa tay ra nhận chuổi ngọc trai rẻ tiền từ tay con và ông thò vào túi mình lấy ra một chiếc hộp bọc nhung màu xanh, bên trong là một chuỗi ngọc trai tinh khiết. Ông trao nó cho đứa con gái yêu quý của mình, Jenny. Ông đã giữ nó từ lâu lắm rồi. Ông chỉ chờ cho Jenny sẵn lòng từ bỏ chuỗi ngọc trai rẻ tiền kia thì ông sẽ trao chuỗi ngọc thật này cho con gái mình.
Cha Jenny cũng giống Cha chúng ta trên trời. Chúa đang chờ đợi chúng ta từ bỏ những thứ tạm bợ ở thế gian này và tìm kiếm Ngài trước. Ngài sẽ mở các cửa trên Thiên Đàng và đổ phước xuống cho chúng ta đến nỗi không có chỗ chứa.
Câu hỏi suy gẫm
Bạn có vui lòng dâng thời gian, tiền bạc, sức lực và khả năng của mình để Chúa sử dụng không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Malachi 3:10
Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!
**
Chiếc ghế trống
Vào một ngày nọ, cô con gái của một ông lão đến gặp vị mục sư và mời ông ta đến cầu nguyện cho người cha của cô ta. Khi ông mục sư đến nhà, ông thấy một người đàn ông đang nằm trên giường, đầu được kê trên hai chiếc gối và kế bên giường ông ta là chiếc ghế trống. Vị mục sư nghĩ rằng chắc có lẽ ông biết trước sự viếng thăm của mình, nên hỏi “Tôi nghĩ chắc ông biết tôi sẽ đến thăm ông hôm nay phải không?”
“Không, ông là ai vậy?” ông lão trả lời.
“Tôi là người phụ tá mới cho mục sư tại Hội Thánh nhà,” vị mục sư trả lời, “Tôi thấy chiếc ghế trống ông để đây, nên cứ nghĩ rằng ông biết tôi sẽ đến thăm ông.”
“Ồ, chiếc ghế này à,” ông lão vẫn nằm trên giường trả lời, “ông có thể làm ơn đóng cửa phòng lại giùm tôi được không?”
Mặc dù cảm thấy bối rối trước lời đề nghị của ông lão, nhưng ông mục sư vẫn khép cửa lại.
“Tôi chưa bao giờ kể cho ai nghe về việc này, kể cả đứa con gái của tôi” Ông lão nói “Thật tình, từ nhỏ đến lớn, tôi chưa bao giờ biết phải cầu nguyện như thế nào. Ở nhà thờ, tôi đã thường nghe vị mục sư nói rất nhiều về sự cầu nguyện, nhưng chưa bao giờ tôi hiểu nó như thế nào cả.”
“Dần dần, tôi cảm thấy chán nản khi phải cầu nguyện,” ông lão kể tiếp, “cho đến một ngày cách đây khoảng bốn năm, một người bạn thân nhất của tôi bảo tôi rằng, “Joe, cầu nguyện đơn giản chỉ là một cuộc trò chuyện với Chúa. Tôi đề nghị như vầy: anh ngồi trên một chiếc ghế, đặt một chiếc ghế trước mặt và tin rằng Chúa Jesus đang ngồi đối diện ở đó và nghe anh trò chuyện. Đừng sợ hãi gì cả, vì Chúa đã hứa là “ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế” (Mat Mt 28:20). Anh cứ thử trò chuyện với Chúa, đơn giản như cách mà anh và tôi đang nói chuyện với nhau như vầy.
“Thế là tôi đã thử làm theo cách anh bạn tôi đã chỉ, và tôi rất thích. Tôi đã thường cầu nguyện nhiều giờ mỗi ngày. Nhưng tôi phải cẩn thận. Nếu con gái tôi phát hiện tôi đang nói chuyện với một chiếc ghế trống, nó sẽ hoảng sợ, hoặc là sẽ đem gửi tôi vào nhà dưỡng lão ngay thôi.”
Ông mục sư rất cảm động về câu chuyện và khuyến khích ông lão tiếp tục bước đi trong niềm tin của mình. Sau đó mục sư cầu nguyện cho ông và trở về nhà thờ.
Hai ngày hôm sau, cô con gái của ông lão gọi điện báo cho vị mục sư biết rằng cha của cô ta đã qua đời vào buổi trưa hôm đó.
“Ông ra đi bình an không?” ông mục sư hỏi.
“Vâng, khi tôi chuẩn bị rời khỏi nhà lúc khoảng hai giờ chiều, ba tôi gọi tôi đến bên giường của ông, kể cho tôi nghe một câu chuyện vui cũ rích rồi, và hôn lên má tôi. Khi tôi trở về từ cửa hàng, tôi phát hiện ra rằng ba tôi đã qua đời. Nhưng có một điều rất lạ, thật là khó hiểu. Hình như trước khi qua đời, ba tôi cố gắng tựa đầu mình và yên nghỉ trên chiếc ghế bên cạnh giường.”
Ông mục sư rất xúc động. Ông lão với niềm tin rất đơn sơ đã sống trong sự tương giao rất mật thiết với Chúa. Và khi ông lìa đời, ông đã tin chắc mình được tựa đầu vào Chúa để nghỉ yên.
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có dành thời gian tương giao với Chúa mỗi ngày không?
+ Bạn có tìm được sự ngọt ngào trong lúc tương giao, trò chuyện với Chúa không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Ro 8:26
Cũng một lẽ ấy, Đức Thánh Linh giúp cho sự yếu đuối chúng ta. Vì chúng ta chẳng biết sự mình phải xin đặng cầu nguyện cho xứng đáng; nhưng chính Đức Thánh Linh lấy sự thở than không thể nói ra được mà cầu khẩn thay cho chúng ta.
**
Đóa hồng trắng và con búp bê
Tôi vội vã bước vào một khu buôn bán đồ nhỏ gần nhà, xem thử còn thứ gì sót lại mà tôi có thể mua làm quà cho mùa Giáng sinh này không. Tôi nhìn mọi người xung quanh và tự lằm bằm một mình, chắc lại phải tốn khá nhiều thời gian ở chỗ này, đúng là tôi còn quá nhiều thứ phải làm. Giáng sinh đang đến rất gần rồi. Bận rộn, mệt mỏi, tôi ước gì mình có thể ngủ suốt mùa Giáng sinh này.
Tôi cố gắng hết sức chen lấn giữa đám người đông nghẹt này để đi đến quầy hàng bán đồ chơi. Một lần nữa, tôi phải làu bàu với chính mình khi nhìn giá của các món đồ chơi ở đây. Tôi phân vân không biết mình có nên cho những đứa cháu nội chơi với những thứ đồ chơi mắc tiền như thế này không? Và tôi cứ đi qua đi lại, nhìn những con búp bê đang được trưng bày trên gian hàng.
Phía đằng kia, tôi bất chợt nhìn thấy một cậu bé khoảng năm tuổi, đang ôm trong tay một con búp bê rất dễ thương. Cậu bé cứ vuốt tóc nâng niu con búp bê mãi trong tay. Tôi không thể không nhìn cảnh đó. Tôi cứ liếc nhìn cậu và tự hỏi không biết cậu bé định mua con búp bê đó cho ai. Tôi thấy cậu quay sang nói chuyện với một người phụ nữ mà cậu gọi bằng dì, và hỏi “Dì có chắc rằng con không đủ tiền không?”
Người phụ nữ trả lời với vẻ như không còn đủ kiên nhẫn nữa, “Con cũng biết là con không đủ tiển để mua nó mà.” Người dì ấy bảo cậu bé cứ ở đó, đừng đi đâu, chờ cô ta đi mua thêm vài món đồ nữa và cô sẽ quay lại trong vài phút thôi. Nói rồi cô ta buớc đi.
Cậu bé vẫn tiếp tục ôm con búp bê trong tay mình. Thấy vậy, tôi đến bên cậu và hỏi xem con búp bê đó cậu định dành cho ai thế?
Cậu bé trả lời, ” Đây là con búp bé mà em gái cháu rất thích cho dịp Giáng sinh. Nó biết rằng thế nào ông già Noel cũng sẽ đem đến cho nó.”
Tôi bảo cậu rằng có thể ông già Noel sẽ tặng em gái cậu món quà đó đấy. Cậu bé trả lời, “Không, ông già Noel sẽ không thể nào đi đến được nơi em gái cháu đang ở đâu… Cháu sẽ gởi mẹ cháu để nhờ mang đến cho em gái thôi.” Tôi hỏi cậu thế em gái của cậu hiện nay đang ở đâu?
Cậu bé nhìn tôi với đôi mắt thật buồn và nói, “Em gái cháu đã về với Chúa Jesus. Ba cháu bảo rằng mẹ cháu cũng sắp phải đi đến nơi đó với em gái cháu.”
Trái tim tôi như ngừng đập.
Một lúc, cậu bé nhìn tôi và nói, “Cháu đã dặn với ba cháu là nói mẹ khoan hãy đi đã, ráng đợi cháu từ cửa hàng trở về.” Nói xong, cậu lại hỏi tôi có muốn xem tấm hình của cậu không?
Khi nghe tôi bảo rằng tôi rất thích, cậu lấy từ trong túi ra mấy tấm hình mà cậu vừa chụp ngay trước cửa tiệm đồ chơi này.
Cậu nói “Cháu muốn mẹ cháu đem những tấm hình này theo với mẹ, để mẹ không bao giờ quên cháu cả. Cháu yêu mẹ cháu nhiều lắm và ước ao rằng mẹ đừng rời bỏ cháu đi đâu cả. Nhưng ba cháu nói rằng mẹ cần đến với em gái cháu.”
Tôi thấy cậu bé cuối đầu xuống một lúc, rồi ngẩng lên trong im lặng. Trong lúc cậu bé không nhìn thấy, tôi vội thò tay vào ví tiền và rút ra một nắm tiền. Tôi đề nghị cậu bé, “Chúng ta sẽ cùng đếm lại số tiền của cháu một lần nữa nhé?”
Cậu trở nên rất háo hức và đồng ý, “Vâng, cháu tin rằng thế nào cũng đủ mà.”
Tôi lén bỏ số tiền mà tôi vừa rút ra vào số tiền của cậu, và chúng tôi cùng đếm với nhau. Đương nhiên rằng số tiền đó dư để mua một con búp bê.
Cậu bé nói nhỏ, ” Cám ơn Chúa Jesus, Ngài đã ban cho con đủ tiền rồi.” Rồi cậu bé nói “Cháu chỉ mới vừa xin Chúa Jesus cho cháu đủ tiền để mua con búp bê này, để gửi mẹ đem cho em gái cháu. Và Chúa đã nghe lời cầu xin của cháu. Cháu cũng muốn xin Ngài cho cháu tiền để mua tặng mẹ một bông hồng trắng, nhưng cháu chưa xin Ngài, thì Ngài đã cho cháu có đủ tiền để mua cả con búp bê và bông hồng trắng cho mẹ nữa. Mẹ cháu rất thích bông hồng màu trắng, thích lắm cơ.”
Một lúc sau, người dì của cậu bé trở lại. Tôi vội đẩy nhanh chiếc xe mua hàng đi. Và từ lúc đó trở đi, tôi không thể nào không nghĩ về cậu bé; tâm trạng của tôi cũng hoàn toàn khác với lúc đầu khi mới bước vào cửa hàng này.
Tôi nhớ lại một câu chuyện được đăng trên báo cách đây vài ngày, về một người tài xế say rượu đã tông vào một chiếc xe, làm chết một đứa bé gái và làm người mẹ bị thương rất trầm trọng. Gia đình họ đang trong quyết định có nên tiếp tục kéo dài cuộc sống của người mẹ bằng các biện pháp y học hay không. Tôi nghĩ chắc là cậu bé kia không liên quan gì đến câu chuyện trên báo đâu.
Hai ngày sau, tôi đọc trên báo và được biết gia đình nọ đã quyết định không tiếp tục kéo dài cuộc sống của người phụ nữ trẻ kia. Cô ta đã qua đời. Tôi vẫn không thể nào quên được cậu bé nhỏ, tôi tự hỏi không biết hai câu chuyện này có gì liên hệ với nhau không.
Cuối ngày hôm đó, không thể chịu đựng cảm giác khó chịu trong lòng được nữa, tôi quyết định đi ra ngoài, mua một bó bông hồng trắng đi đến nhà tang lễ, nơi có người phụ nữ xấu số kia. Và tại đó, tôi thấy một người phụ nữ đang nằm, tay để trên ngực giữ một chiếc bông hồng trắng, một con búp bê rất dễ thương và những tấm hình của cậu bé nhỏ mà tôi đã gặp ở tiệm đồ chơi hôm nọ.
Tôi rời nhà tang lễ trong nước mắt. Cuộc đời tôi đã thay đổi từ đó. Tình yêu thương mà cậu bé nhỏ dành cho đứa em gái và người mẹ của cậu thật tuyệt diệu biết bao.
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có tin rằng Chúa hiện đang dành sẳn một chổ cho bạn trên Thiên Đàng hay không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 14:2-3
2 “… Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ.
3 Khi ta đã đi, và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.”
**
Lời cầu nguyện yêu thương
Một chiếc tàu trên hành trình kéo dài nhiều ngày chẳng may bị trận bão lớn đánh vỡ, chỉ còn hai người đàn ông sống sót. Họ bị trôi dạt vào một hòn đảo hoang vắng giữa biển.
Cả hai người chẳng biết làm gì giữa hòn đảo hoang vắng này, nên họ thỏa thuận với nhau là sẽ cùng cầu nguyện xin Chúa giải cứu mình.
Tuy nhiên, để xem ai cầu nguyện có năng quyền hơn, họ đồng ý với nhau là sẽ phân chia lãnh thổ trên hòn đảo làm hai phần riêng biệt, mỗi người ở một bên và cầu nguyện.
Đầu tiên, họ cùng xin Chúa cho họ có thức ăn.
Sáng hôm sau, người đàn ông thứ nhất nhìn thấy một cây đang có trái có thể ăn được bên phần đất của mình. Anh ta hái những trái đó và ăn. Trong lúc đó, mảnh đất của người kia thì chẳng có gì cả.
Sau một tuần sống trên đảo hoang, người đàn ông thứ nhất cảm thấy cô đơn và quyết định cầu xin Chúa đưa đến cho mình một người nữ để làm vợ, để cùng tâm sự trong hoàn cảnh này. Ngày hôm sau, có một chiếc tàu chẳng may gặp nạn và chỉ có một người phụ nữ sống sót, trôi dạt lên trên hòn đảo phía phần đất của người thứ nhất. Phía phần đất bên kia vẫn chẳng có gì mới mẻ!
Tiếp sau đó, người đàn ông thứ nhất cầu xin Chúa cho mình nhà cửa, quần áo, và nhiều thức ăn. Hôm sau, như là một phép lạ, tất cả những điều anh cầu xin đều được đem đến bằng cách này hay cách khác. Trong lúc đó, người đàn ông thứ hai vẫn không có gì cả.
Cuối cùng, người đàn ông thứ nhất cầu xin Chúa cho một chiếc tàu đến để cứu ông và người vợ khỏi hòn đảo này. Sáng hôm sau, ông ta thấy một chiếc tàu đậu bên phần đất của mình. Ông vui mừng bước lên tàu cùng người vợ và quyết định sẽ không thông báo cho người thứ hai, để anh ta lại một mình trên đảo.
Người đàn ông thứ nhất nghĩ rằng người đàn ông kia không đáng để nhận những ơn phước của Chúa vì chẳng có lời cầu nguyện nào của anh ta được nhậm cả.
Khi chiếc tàu chuẩn bị rời hòn đảo, người đàn ông thứ nhất bỗng nghe có tiếng phán từ trời rằng “Sao con lại nỡ bỏ bạn mình lại trên đảo như thế?”
Người đàn ông thứ nhất trả lời “Những ơn phước đó là của riêng con, vì con là người đã cầu xin những điều này và được nhậm. Còn những lời cầu nguyện của anh ta đã không được nhậm và như vậy anh ta không đáng để được hưởng những ơn phước này của Chúa.”
Và anh nghe tiếng khiển trách “Con đã nhầm lẫn lớn rồi! Anh ta đã cầu xin chỉ một điều và đã được nhậm lời. Nếu không có lời cầu xin đó, thì con chẳng thể nhận được những ơn phước này của Ta đâu.”
“Xin cho con biết anh ta đã cầu xin điều gì mà con phải mắc nợ anh ta, thưa Chúa?”, người đàn ông thứ nhất hỏi.
“Anh ta đã cầu xin cho tất cả những điều con cầu xin đều được nhậm.”
Tất cả chúng ta biết rằng, những ơn phước mà chúng ta nhận lãnh không phải là kết quả của lời cầu nguyện của một mình chúng ta, mà còn nhờ những lời cầu thay của người khác.
Câu hỏi suy gẫm
+ Hôm nay, bạn có dành thời giờ cầu thay cho người khác không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IIIGi 1:2
Hỡi kẻ rất yêu dấu, tôi cầu nguyện cho anh được thạnh vượng trong mọi sự, và được khỏe mạnh phần xác anh cũng như đã được thạnh vượng về phần linh hồn anh vậy.
**
Chi thể quan trọng nhất
Mẹ thường hay hỏi tôi chi thể nào là quan trọng nhất trên cơ thể con người. Và nhiều năm trôi qua, tôi vẫn cố tìm kiếm câu trả lời đúng.
Khi còn nhỏ, tôi nghĩ rằng đối với mọi người, khả năng nghe chắc chắn chiếm một vai trò rất quan trọng, cho nên tôi nói ngay “Tai phải không mẹ?”
Nhưng mẹ tôi đã trả lời rằng “Không phải đâu con, có rất nhiều người bị điếc và họ vẫn sống vui vẻ đấy thôi. Nhưng không sao, con cứ tiếp tục suy nghĩ đi và sẽ có lúc mẹ hỏi lại con đấy.”
Vài năm sau đó, mẹ lại nhắc lại câu hỏi cũ.
Rút kinh nghiệm lần trước, tôi đã chuẩn bị một câu trả lời mà tôi nghĩ là đúng. Lần này tôi nói với mẹ “Mẹ à, nhìn thấy được là một khả năng rất quan trọng đối với mọi người, cho nên con nghĩ chắc chắn mắt phải là bộ phận quan trọng nhất.”
Mẹ âu yếm nhìn tôi và bảo “Con của mẹ học hỏi rất nhanh, nhưng câu trả lời lần này vẫn chưa đúng. Bởi vì thế giới này có rất nhiều người bị mù mà vẫn sống và họ vẫn làm được rất nhiều việc ích lợi.”
Do vẫn chưa trả lời được, tôi tiếp tục tìm kiếm câu trả lời nhiều năm sau đó. Mẹ tôi vẫn thỉnh thoảng nhắc lại câu hỏi và tôi luôn nhận được câu trả lời của mẹ sau lời đáp của tôi “Vẫn chưa đúng, con ạ. Nhưng con của mẹ càng ngày càng thông minh hơn đấy”.
Và rồi vào một năm nọ, ông nội tôi qua đời. Mọi người đều rất buồn bã. Mọi người đều khóc. Thậm chí ba tôi cũng khóc. Tôi nhớ đó là một sự kiện rất đặc biệt vì đó là lần thứ nhì tôi thấy ba tôi khóc.
Mẹ nhìn tôi khi chúng tôi đi qua quan tài của ông nội để chào tạm biệt ông lần cuối. Rồi mẹ hỏi tôi “Con có biết chi thể nào là quan trọng nhất chưa, con của mẹ?”
Tôi thật sự bất ngờ vì mẹ lại hỏi tôi câu hỏi đó vào lúc này. Tôi luôn nghĩ đó chỉ là một trò chơi giữa tôi và mẹ. Mẹ thấy nét bối rối trên gương mặt tôi, và người bảo tôi “Câu hỏi này rất quan trọng. Đây là điều chứng tỏ rằng con đã thật sự sống trong cuộc đời này một cách ý nghĩa. Mỗi lần con trả lời, mẹ đều bảo rằng chưa đúng và cho con một ví dụ để giải thích tại sao. Nhưng hôm nay là ngày mà con học bài học quan trọng này.”
Mẹ nhìn tôi trìu mến. Tôi thấy nước mắt trào ra trong mắt mẹ. Mẹ nói “Con biết không, chi thể quan trọng nhất chính là đôi vai của con.”
Tôi hỏi, “Có phải nó quan trọng vì nó giữ cái đầu của con không?”
Mẹ trả lời “Không phải đâu con, nhưng nó quan trọng vì nó có thể làm chỗ dựa cho đầu của một người bạn, một người thân của con khi họ khóc. Tất cả mọi người đều cần một bờ vai để khóc vào một lúc nào đó trong cuộc đời mình. Mẹ chỉ hy vọng rằng con có đủ tình thương và bạn bè để con luôn có một bờ vai để khóc khi con cần đến nó.”
Từ đó, tôi biết được rằng chi thể quan trong nhất không phải là cái có ích cho riêng tôi. Nó chính là điều thể hiện sự cảm thông với nỗi đau của người khác. Mọi người sẽ quên những gì bạn nói. Họ cũng sẽ quên những gì bạn làm, nhưng không ai có thể quên được tình cảm mà bạn đem đến cho họ.
Câu hỏi suy gẫm
+ Bờ vai của bạn có luôn sẳn sàng san sẻ những gánh nặng của người khác không ?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Galati 6:2
Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Đấng Christ.
**
Chiếc đinh nhỏ
Câu chuyện bắt đầu khi người ta xây dựng xong nhà thờ mới, và mọi người đứng ra xa xa để ngắm nhìn, chiêm ngưỡng. Họ hết lời ca ngợi về vẻ đẹp của ngôi nhà thờ. Từ trên mái nhà thờ, một chiếc đinh nhỏ nghe mọi người ca ngợi đủ thứ về kiến trúc ngôi nhà thờ, trừ ra nó!
Không một ai biết được rằng chiếc đinh nhỏ đang ở đó. Thế là nó giận dữ và đầy lòng ghen tị.
‘Nếu như thật sự ta không có ý nghĩa như vậy, thì dù ta có bỏ đi đâu cũng chẳng có ai nhớ đến ta!” Vì thế, chiếc đinh nhỏ tuột ra khỏi chỗ mình, trượt xuống mái nhà và rơi xuống bùn.
Đêm đó, trời mưa không dứt. Chẳng mấy chốc, tấm ván lợp, vì không có chiếc đinh giữ lại nên bay tốc lên, và mái nhà thờ bắt đầu bị dột. Nước chảy dọc xuống tường và làm hoen ố những bức tranh treo trên tường. Vữa bắt đầu tróc ra, thảm trong nhà thờ bị ướt và bẩn. Cuốn Kinh Thánh trên bục giảng bị nước làm cho hư hỏng.
Khi dùng mình để giữ tấm ván lợp, chiếc đinh nhỏ vô danh, nhưng nó thật sự ích lợi. Nhưng khi chôn mình trong bùn lầy, nó vẫn vô danh, nhưng giờ nó không còn có ích nữa và chẳng sớm thì muộn, nó sẽ bị teng rét trong bùn lầy!
Bạn có thể giống như chiếc đinh kia, nhiều lúc cảm thấy mình vô danh, không ai biết đến. Nhưng cũng giống như chiếc đinh, nếu bạn rời bỏ công việc mình đang làm, công việc Chúa chung sẽ bị ảnh hưởng. Và chính đời sống bạn cũng sẽ lui đi và trở nên vô ích trước mặt Ngài. Xin Chúa giúp chúng ta sẵn sàng vâng theo ý Chúa để làm ích lợi cho nhà Chúa và bản thân mình.
Câu hỏi suy gẫm
+ Mục tiêu của bạn trong sự hầu việc Chúa là gì: Danh Chúa được cả sáng hay chính bạn được tôn vinh?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ICorinhto 15:58
Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu.
**
Con kiến và chiếc kính áp tròng
Brenda được mời tham gia một cuộc leo núi. Vốn là một cô gái trẻ nhát gan, cô rất sợ chết khi tham gia trò chơi nguy hiểm này. Nhưng cuối cùng Brenda cũng quyết định sẽ tham gia cùng nhóm bạn leo lên vách núi rất cheo leo đầy thách thức. Bất chấp nỗi sợ hãi, cô buộc các móc an toàn vào người, tay nắm chặt các đoạn thắt của dây thừng, cô bám vào mặt vách núi đá và bắt đầu leo.
Và rồi Brenda leo lên đến một rìa của vách núi, cô dừng lại để thở. Khi cô đang bám trên rìa đá đó, sợi dây thừng trong tay bỗng nhiên đung đưa mạnh và quất vào mắt cô, làm văng chiếc kính áp tròng ra. Brenda cảm thấy thật sự hoảng sợ, lúc đó cô đang bám trên một rìa đá ở lưng chừng núi cách mặt đất hàng trăm mét. Và phía trên kia còn đến hàng trăm mét nữa mới tới đỉnh núi.
Brenda nhìn quanh tìm kiếm, mong sao chiếc kính áp tròng bị văng ra đang nằm đâu đó quanh rìa đá này. Nhưng sau một hồi tìm kiếm, cô vẫn chẳng thấy nó đâu cả.
Bây giờ, cô đang ở đây một mình, và nhìn mọi vật lờ mờ!
Brenda bắt đầu buồn bã và tuyệt vọng. Cô cầu xin Chúa giúp cô tìm lại được chiếc kính áp tròng của mình. Rồi cô cố gắng trèo nốt quãng đường còn lại, và cuối cùng cô cũng lên tới được đỉnh núi.
Brenda kể cho các bạn nghe mình bị mất chiếc kính thể nào; Một người bạn thử tìm lại trên mắt, trên quần áo cô xem chiếc kính có vướng ở đâu đó chăng, nhưng vẫn không thấy nó đâu cả. Brenda thất vọng, cô ngồi xuống với các bạn, chờ nhóm còn lại đang leo lên để tất cả cùng chuẩn bị cho việc xuống núi.
Khi ngồi trên đỉnh núi và ngắm nhìn những dãy núi hùng vĩ kế bên, Brenda thầm nghĩ về một câu Kinh Thánh “Vì con mắt của Đức Giê-hô-va soi xét khắp thế gian” (IISu 16:9). Cô thầm cầu nguyện, “Chúa ôi, Chúa có thể nhìn thấy tất cả những dãy núi này. Chúa biết từng tảng đá, từng chiếc lá và Chúa cũng biết chiếc kính áp tròng của con hiện giờ đang ở đâu. Xin Chúa giúp con”.
Nhóm người còn lại đã leo lên tới nơi. Cả nhóm bắt đầu bám vào vách núi leo xuống trở lại. Cuối cùng, họ cũng leo xuống được tới chân núi. Ở đó, họ gặp một nhóm khác đang chuẩn bị leo lên. Một trong số những người trong nhóm kia bỗng reo lên “Ê, có ai làm rớt chiếc kính áp tròng không?” Brenda vui mừng biết bao khi nhận lại được chiếc kính áp tròng của mình. Một con kiến to đã tha chiếc kính này, bò lê chậm chạp trên bề mặt một tảng đá và đã bị người bạn kia phát hiện ra.
Cha của Brenda là một họa sĩ chuyên vẽ tranh biếm họa. Khi nghe con gái mình kể câu chuyện kỳ diệu về con kiến, lời cầu nguyện và chiếc kính áp tròng, ông cầm cọ và vẽ một bức tranh, trên đó mô tả một con kiến đang kéo lê chiếc kính áp tròng với hàng chữ “Chúa ôi, con không biết tại sao Chúa lại muốn con mang cái vật này. Con không thể ăn nó được, và cái vật quái quỉ này nó nặng nề biết bao. Nhưng nếu đây là những gì Chúa muốn con làm, thì con sẽ vâng lời Chúa mà tiếp tục mang nó.”
Câu hỏi suy gẫm
+ Bạn có bao giờ hỏi Chúa rằng “Chúa ôi, Con không hiểu tại sao Chúa muốn con mang gánh nặng này? Con không thấy điều gì ích lợi cả, và nó nặng nề quá sức con!”.
+ Bạn có vui lòng mang gánh nặng đó không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Esai 6:8
“…Có tôi đây; xin hãy sai tôi.”
**
Chiếc cầu
Có một chiếc cầu bắc ngang qua một dòng sông rộng lớn. Hầu như suốt ngày hai nhịp cầu được mở ra, nằm song song với hai bờ để tàu bè qua lại được dễ dàng. Nhưng cũng có những lúc nhất định trong ngày, hai nhịp cầu được nối lại bắc ngang qua sông để cho những chuyến tàu lửa chạy qua.
Người gác cầu ngồi trong một căn nhà nhỏ bên bờ sông để điều khiển hoạt động của hai nhịp cầu. Vào một đêm nọ, khi ông đang chờ chuyến tàu cuối cùng trong ngày đi qua, ông nhìn vào màn đêm mờ tối và thấy từ xa ánh đèn của đoàn tàu đang tiến lại gần.
Ông bước về trạm điều khiển, chờ cho đến khi đoàn tàu đến đúng khoảng cách quy định thì ông sẽ xoay hai nhịp cầu lại bắc ngang qua sông. Và khi hai nhịp cầu đã vào vị trí, bất ngờ, ông hốt hoảng nhận ra cái khóa an toàn nối hai nhịp cầu với nhau không hoạt động được nữa. Nếu chiếc cầu không có thiết bị khóa an toàn này, nó sẽ lắc lư và làm đoàn tàu trượt khỏi đường ray và lao xuống sông. Đây là chuyến tàu chở khách, với rất nhiều hành khách trên toa.
Ông vội chạy thật nhanh qua bờ bên kia, ở đó có một đòn bẩy điều khiển bằng tay mà ông có thể dùng sức để giữ cái khóa an toàn. Ông sẽ phải giữ chặt cái đòn bẩy này cho đến khi đoàn tàu đi qua.
Từ đằng xa, ông có thể nghe thấy đoàn tàu đang tiến lại gần. Ông dùng hết sức của mình giữ thật chặt đòn bẩy. Ông đè cả thân mình lên trên nó, cố gắng giữ cái khóa an toàn của hai nhịp cầu khi đoàn tàu đi qua. Rất nhiều mạng sống trên tàu phụ thuộc hoàn toàn vào sức mạnh của ông lúc này!
Bất chợt, phía bên kia chiếc cầu từ hướng trạm điều khiển, ông nghe một tiếng gọi vang lên khiến cả người ông trở nên lạnh toát. “Ba ơi, ba ở đâu?” Đứa con trai 4 tuổi của ông đang vượt qua chiếc cầu để tìm ông. Phản ứng đầu tiên của ông là hét gọi con “Con ơi chạy nhanh lên, chạy nhanh lên”.
Nhưng đoàn tàu đã đến rất gần. Đôi chân bé nhỏ sẽ không thể nào giúp con ông tự mình vượt qua chiếc cầu trước khi đoàn tàu tới. Ông muốn rời khỏi chiếc đòn bẩy, chạy thật nhanh đến để bồng đứa con yêu dấu của mình chạy đi an toàn. Nhưng ông cũng nhận ra rằng ông không thể nào rời khỏi vị trí đó vào lúc này. Hoặc là tất cả mọi người trên đoàn tàu hoặc đứa con yêu dấu của ông sẽ phải chết.
Trong tích tắc, ông đã phải quyết định!
Đoàn tàu lướt nhanh qua trên chiếc cầu một cách an toàn. Không một ai trên đoàn tàu hay biết rằng có một cơ thể bé nhỏ đã bị hất tung xuống dòng sông một cách không thương tiếc bởi đoàn tàu mà họ đang ở trên đó. Cũng chẳng ai quan tâm đến hình ảnh một người đàn ông đau khổ tột cùng nhưng tay vẫn bám chặt chiếc đòn bẩy khi đoàn tàu chạy qua. Họ cũng không nhìn thấy được những bước đi thất thểu của ông trên đường trở về nhà để nói cho vợ nghe về cái chết đau thương của đứa con yêu dấu.
Nếu bạn hiểu được cái cảm xúc của người đàn ông này khi chứng kiến cái chết của con mình thì bạn cũng bắt đầu hiểu sự đau đớn của Cha chúng ta trên trời khi Ngài hi sinh Con độc sanh của Ngài để làm nhịp cầu kéo chúng ta đến sự sống đời đời.
Câu hỏi suy gẫm
+ Có bao giờ bạn tự hỏi rằng tại sao Đức Chúa Trời lại làm cho đất rún động, bầu trời trở nên tối tăm khi Chúa Giêxu chết trên thập tự giá? Đức Chúa Trời sẽ cảm thấy như thế nào khi chúng ta lướt qua trong đời này mà chẳng hề nghĩ về những gì mà Ngài đã làm cho chúng ta qua Đức Chúa Giêxu?
+ Lần cuối cùng mà bạn cảm tạ Chúa về sự hi sinh của Con Ngài là khi nào? Bạn sẽ làm gì đối với ơn cứu chuộc mà Chúa dành cho bạn?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 3:16
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời
**
Hai chiếc vé đến Indy
Sau những cuộc chẩn đoán bệnh không thành công, chúng tôi đã ngồi lại và bàn bạc rất nhiều về những khả năng có thể xảy ra cho bệnh tình của John. Nhưng bây giờ, khi cùng ngồi trong văn phòng của mình, cả hai chúng tôi đều tiêu tan hết hy vọng khi biết được một sự thật phũ phàng: John mắc phải chứng bệnh ALS – Một căn bệnh làm thoái hóa các dây thần kinh chức năng, làm cạn kiệt dần sức lực trong con người khiến bệnh nhân bị liệt dần và chết.
John đã là đối tác làm ăn, là người bạn và người thầy của tôi trong nhiều năm qua. Anh ấy là một người bạn rất tích cực, luôn luôn tìm mọi cách để giúp bạn làm được điều tốt hơn những gì mà bạn nghĩ mình có thể làm. John luôn luôn có cái nhìn lạc quan về con người bạn và không bao giờ chấp nhận để bạn cảm thấy bi quan trong cuộc đời mình. John đã từng bảo tôi “Tôi sẽ không phải là người bạn thật sự của anh nếu như tôi để cho anh hài lòng với những gì mà anh nghĩ là tốt nhất của anh rồi.”
Chúng tôi ngồi bên nhau, khóc và cầm chặt tay nhau như hai đứa trẻ vì cả hai cùng nhận ra rằng căn bệnh ác nghiệt kia sẽ không cho phép John sống thêm được quá 2 năm nữa. Tôi hỏi John về một mơ ước mà anh ta ấp ủ những vẫn chưa thực hiện được. Có sự kiện nào mà anh ước ao được tham dự không? Xem đấu bò tót tại Tây Ban Nha? Cùng với Bonnie, người yêu của mình, đi thăm Vạn Lý Trường Thành tại Trung Quốc?
Câu trả lời của John cũng không làm tôi ngạc nhiên cho lắm. Vốn là người hâm mộ các cuộc đua xe hơi trong suốt cuộc đời mình, John luôn ước ao được xem trực tiếp giải đua xe hơi Indianapolis 500 tổ chức hàng năm. Thật không may mắn khi mà vé xem chương trình này thường nằm trong tay những người giàu có hoặc được phân phát cho ban lãnh đạo các công ty lớn.
Tuy nhiên tôi vẫn tự tin hứa với John rằng việc đó không thành vấn đề, tôi sẽ tìm vé cho John. Nhiều khách hàng của tôi làm việc trong ngành công nghiệp sản xuất xe hơi từ việc sản xuất vỏ xe đến các bộ phận của chiếc xe, có thể những người đó có khả năng nhận được vé. Nhưng tôi đã sai lầm. Mặc dù lời thỉnh cầu của tôi thật đáng trân trọng, nhưng vé đã được phân phát trước đó nhiều năm. Thế rồi cuộc đua xe năm 1996 diễn ra, nhưng tôi vẫn không thể nào kiếm được vé cho John và Bonnie.
Suốt mười lăm tháng trôi qua, tôi đã hỏi thăm hàng trăm thính giả đến nghe tôi diễn thuyết về những chiếc vé. Nhưng niềm hi vọng của tôi cạn kiệt dần khi thời gian cứ trôi qua và cái ngày tổ chức cho cuộc đua vào năm 1997 đang tới gần. Trong lúc đó, niềm tin vững vàng và những hi vọng của John đã giúp anh sống một cuộc sống bình thường tuy cơ thể ngày càng suy yếu. John thường nói ” Căn bệnh này nghĩ rằng nó làm chủ tôi, nhưng nó có biết đâu là tôi đang nắm lấy nó, có lẽ rồi đến lúc nó sẽ nhận ra nó chưa từng gặp một người nào giống như tôi.”
Trong lúc John vẫn lạc quan về cuộc sống thì trong thâm tâm tôi biết rằng, cuộc đua xe năm nay sẽ là cơ hội cuối cùng mà John có thể xem. Dần dần tôi trở nên tuyệt vọng trong việc tìm kiếm những chiếc vé cho John, ngay cả những người chuyên đầu cơ loại vé này và bán vé chợ đen cũng hết vé. Sau nhiều tuần buồn bã tự trách mình sao không làm việc này sớm hơn, tôi mới dám đến thăm John và Bonnie để nói với họ rằng tôi đã không thể làm cho điều ước của John thành sự thật. John khẳng định với tôi rằng anh rất trân trọng những cố gắng của tôi và cũng nói thêm rằng ” Anh sẽ chết vì lo lắng cho những chiếc vé đó trước khi tôi chết vì căn bệnh quái ác này.”
Vào một đêm trước khi cuộc đua diễn ra hai tuần, chuông điện thoại nhà tôi vang lên và Peggy Zomack, một người bạn làm việc cho công ty Cooper Power tại Pittsburgh, đã hỏi một câu hỏi khiến tôi bàng hoàng xúc động.
“Rick,” cô ta hỏi, “anh có còn muốn những chiếc vé đi xem cuộc đua năm nay không? Rick, anh có nghe tôi nói không?”
Tôi không thể thốt nên lời. Cổ họng tôi nghẹn ngào, nó như bị tê liệt đi. Cuối cùng tôi cũng lên tiếng được và trong khi nước mắt cứ trào ra, tôi nói với Peggy Zomack rằng có lẽ chính Chúa đã sai cô xuất hiện trong lúc này. Tối hôm đó, Peggy Zomack đã lập tức gửi cho tôi những chiếc vé mà tôi tìm bấy lâu. Ngay sau đó, tôi gọi điện thoại cho Bonnie.
“Bonnie,” tôi nói, “ngày mai, trước mười giờ sáng, tôi sẽ có những chiếc vé cho cuộc đua xe hơi Indianapolis 500 tổ chức vào năm này.”
Tôi và Bonnie đã có những giây phút vui sướng làm sao. Nhưng bất chợt một dòng suy nghĩ xuất hiện trong đầu khiến tôi hoảng hốt, “Bonnie, tôi không biết cô có thể kiếm được phòng để ở trong những ngày cuộc đua diễn ra hay không, vì chỉ còn có một vài tuần nữa thôi.”
“Đừng lo lắng, Rick” Bonnie trả lời “Tôi đã đặt phòng trước cách đây một năm. Tôi biết rằng nếu tôi có đức tin thì Chúa sẽ đem những chiếc vé này đến cho tôi bằng một cách kỳ diệu nào đó.”
Câu hỏi suy gẫm
+ Là con cái Chúa, bạn có sống đời sống lạc quan, tích cực như John hay không?
+ Khi bạn cầu nguyện, bạn có tin chắc rằng mình sẽ nhận được sự trả lời của
Chúa không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ITe 5:16-18
16 Hãy vui mừng mãi mãi,
17 cầu nguyện không thôi,
18 phàm làm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ đối với anh em là như vậy.
**
Trái tim của một đứa trẻ
“Ngày mai, tôi sẽ phẫu thuật tim cho cậu…”, bác sĩ nhẹ nhàng nói với cậu bé.
“Ông sẽ thấy Chúa Giêxu ở đó.”, cậu bé cắt ngang.
Bác sĩ ngẩng đầu lên, khó chịu “Tôi sẽ mổ tim của cậu,” ông nói tiếp “để biết được trái tim của cậu đã bị tổn thương như thế nào…”
“Nhưng khi ông mổ tim cháu, ông sẽ thấy Chúa Giêxu ở đó đó”, cậu bé nhắc lại.
Vị bác sĩ nhìn cha mẹ cậu bé, họ vẫn đang im lặng trong hồi hộp, lo âu. “Sau khi tôi biết được trái tim cậu bị tổn thương ra sao, tôi sẽ may tim và lồng ngực cậu lại, và tôi biết sẽ làm gì tiếp theo.”
“Nhưng chắc chắn ông sẽ thấy Chúa Giêxu trong trái tim cháu mà. Kinh Thánh nói rằng Ngài sống ở đó. Cả những bài Thánh ca cũng nói vậy nữa. Ông sẽ tìm thấy Chúa trong trái tim của cháu đấy.”
Bác sĩ cảm thấy bực mình với bệnh nhân cứng đầu của mình “Tôi sẽ cho cậu biết tôi thấy gì trong tim của cậu. Tôi sẽ thấy phần cơ bị hư, lượng máu cung cấp không đủ và những mạch máu đang yếu dần. Và tôi sẽ tìm cách chữa trị để cậu có thể bình phục lại.”
“Và ông cũng sẽ thấy Chúa Giêxu ở đó. Ngài đang sống ở đó.” Cậu bé khẳng định lần nữa.
Bác sĩ rời khỏi phòng bệnh. Ông về văn phòng và ngồi ghi chép lại những ghi chú cho ca mổ, “tổn thương động mạch chủ, tổn thương tĩnh mạch phổi, thoái hóa cơ lan rộng. Không có hy vọng cấy ghép, không còn hy vọng cứu chữa. Cách điều trị: uống thuốc giảm đau và nghỉ ngơi. Tiên lượng bệnh: ông dừng lại một chút rồi tiếp “tử vong trong vòng một năm.”
Ông dừng ghi chép, một luồng suy nghĩ xuất hiện trong ông. “Tại sao vậy?”, ông nói một mình, “Tại sao Ngài lại làm thế? Ngài đặt để cậu bé vào thế giới này, Ngài đặt để cậu ta trong bệnh tật đau đớn, Ngài để cho cậu bé chết khi cậu ta còn quá nhỏ. Tại sao thế?”
Chúa Giêxu đã trả lời ông, “Đứa trẻ, con chiên nhỏ của Ta, không thuộc về đàn của ngươi, nhưng là một phần trong đàn của Ta, và sẽ mãi mãi thuộc về đàn ấy. Ở đó, nó sẽ chẳng bị đau đớn, nó sẽ nhận được sự yên ủi mà ngươi chẳng thể hình dung được. Cha mẹ của nó một ngày kia rồi cũng sẽ gặp lại con trai mình, họ sẽ kinh nghiệm được sự bình an thật, và đàn của Ta sẽ vẫn tiếp tục lớn mạnh thêm lên.”
Những giọt nước mắt nóng hổi trào ra từ khoé mắt vị bác sĩ, nhưng cơn giận dữ của ông có lẽ còn nóng hơn, ” Ngài tạo ra cậu bé này, và Ngài cũng đã tạo ra môt trái tim bệnh hoạn cho cậu ấy. Cậu bé rồi sẽ chết trong nay mai. Tại sao lại như vậy?”
Chúa Giêxu trả lời, ” Đứa trẻ, con chiên bé nhỏ của ta, sẽ trở về cùng bầy chiên của Ta. Nó đã làm xong những việc mình cần làm: Ta không để chiên ta lạc vào bầy của ngươi, nhưng sẽ tìm kiếm và đem về những con chiên bị lạc mất.”
Vị bác sĩ nghẹn ngào … ông khóc!
…Vị Bác sĩ ngồi bên giường bệnh của cậu bé, phía bên kia giường là ba mẹ của cậu bé. Câu bé thức dậy và nói một cách yếu ớt, “Ông đã mổ tim cho cháu chưa?” “Đã mổ rồi”, vị bác sĩ trả lời. “Ông thấy gì trong đó?” cậu bé hỏi. ” Tôi đã thấy Chúa Giêxu ở đó”, vị bác sĩ trả lời.
Câu hỏi suy gẫm
Người khác có nhìn thấy Chúa trong đời sống của bạn hay không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 5:16
Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời.
**
Sự nhầm lẫn hoàn hảo
Ông ngoại Nybakken của tôi rất yêu đời – đặc biệt là khi ông lừa được ai đó. Những lúc như vậy, ông cười to hòa với cái giọng ồm ồm gốc Na-uy, ông giả vờ ngây thơ và ngạc nhiên kêu lên “Ồ, lại nữa rồi!” Nhưng có một ngày thứ bảy lạnh lẽo ở thành phố Chicago, ông ngoại cảm thấy Chúa đã “lừa” mình, và lần này ông không thể nào cười nổi.
Ông ngoại tôi làm nghề thợ mộc. Vào cái ngày đáng nhớ ấy, ông đang đóng một số thùng để đựng số quần áo mà Hội Thánh ông chuẩn bị gửi đến một cô nhi viện ở Trung Quốc. Trên đường từ nhà thờ về nhà, ông rờ lên túi áo tìm cặp kính, nhưng nó đã biến mất lúc nào không hay. Ông nhớ là hồi sáng mình đã cất nó vô túi áo, thế là ông lái xe quay lại nhà thờ để tìm, nhưng cuối cùng vẫn không tìm thấy.
Khi ông nhẩm nhớ lại xem quá trình làm việc từ sáng đến giờ, ông hình dung được chuyện gì đã xảy ra. Cặp kính đã tuột khỏi túi áo lúc nào không hay biết, và rơi vào một trong những cái thùng đựng quần áo mà ông vừa mới niêm phong lại. Vậy là cặp kính mới toanh của ông đang trên đường đến Trung Quốc!
Sự chán nản của ông ngoại lên tới tột độ. Ông nghĩ tới sáu đứa con mà mình còn đang phải lo lắng, nuôi nấng ở nhà. Ông vừa mới mua cặp kính này ngay buổi sáng hôm đó với giá hai mươi đô-la!
“Thật là không công bằng,” ông nói với Chúa một cách bực dọc khi đang lái xe về nhà. “Con đã trung tín dâng thời gian và tiền bạc để hầu việc Chúa, và bây giờ thì Chúa để cho chuyện như vầy xảy ra với con.”
Nhiều tháng sau đó, ông giám đốc của cô nhi viện nọ có một kỳ nghỉ phép ở Hoa Kỳ. Ông muốn thăm hết tất cả những Hội Thánh đã giúp đỡ công việc Chúa ở Trung Quốc. Vào một buổi tối Chúa nhật, ông đến thăm và nói chuyện tại Hội Thánh nhỏ của ông ngoại tại Chicago. Hôm đó, ông ngoại và cả nhà vẫn ngồi ở hàng ghế quen thuộc, giữa hội chúng thưa thớt.
“Nhưng điều quan trọng hơn hết,” ông nói, “tôi phải cảm ơn về cặp kính mà quý vị đã gửi cho chúng tôi năm ngoái. Quý vị thấy đó, chính quyền đã lục soát cô nhi viện, phá hủy mọi thứ, kể cả cặp kính của tôi. Lúc đó tôi thật sự tuyệt vọng.”
“Thậm chí nếu như tôi có tiền, lúc đó cũng chẳng thể nào mua được cặp kính như vậy. Vì không thể nhìn rõ ràng, nên tôi cứ bị chứng nhức đầu hành hạ suốt ngày. Các cộng sự của tôi và tôi đã cầu nguyện rất nhiều về việc này. Rồi thì những thùng đồ của quý vị gửi đến. Khi nhân viên của tôi mở ra, họ thấy cặp kính nằm ngay phía trên.”
Vị giáo sĩ ngừng lại ở đó khá lâu, đủ để lời nói của ông thấm vào lòng mọi người. Rồi vẫn với cái giọng rất lôi cuốn về điều kỳ diệu đó, ông nói tiếp: “Thưa quí ông bà anh chị em, khi tôi thử cặp kính đó, cứ như là nó được làm dành riêng cho tôi vậy! Tôi muốn cảm ơn quý vị thật nhiều về điều này!”
Mọi người lắng nghe, ai nấy đều cảm thấy rất hạnh phúc về cặp kính kỳ diệu đó. Nhưng mọi người nghĩ có lẽ vị giáo sĩ đã nhầm lẫn Hội Thánh của họ với một Hội Thánh nào khác. Vì thật ra chẳng có cặp kính nào nằm trong danh sách những đồ cứu trợ được gửi ra nước ngoài cả.
Ngồi im lặng ở phía sau, với dòng nước mắt chảy dài trên má, ông ngoại tôi – một người thợ mộc bình thường – nhận ra được Người Thợ Cả đã sử dụng cuộc đời ông một cách lớn lạ thể nào.
Câu hỏi suy gẫm
Bạn có bằng lòng để Chúa sử dụng cuộc đời mình theo ý Ngài muốn không?
Bạn có bao giờ kinh nghiệm được sự trả lời mầu nhiệm của Chúa trên đời sống bạn chưa? Xin hãy chia sẻ kinh nghiệm đó để khích lệ anh em chúng ta trong Chúa.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Esai 64:8
Hỡi Đức Giê-hô-va, dầu vậy, bây giờ Ngài là Cha chúng tôi! Chúng tôi là đất sét, Ngài là thợ gốm chúng tôi; chúng tôi thảy là việc của tay Ngài.
**
Câu chuyện về một gia đình giàu có
Tôi không bao giờ quên được mùa Phục Sinh năm 1946. Lúc đó tôi 14 tuổi, em gái tôi – Ocy thì 12, và chị Darlene thì 16. Chúng tôi sống với mẹ và phải thường xuyên sống trong sự thiếu thốn. Cha tôi qua đời năm năm về trước, chẳng để lại gì cho mẹ tôi ngoài bảy đứa con đang tuổi đến trường.
Vào khoảng năm 1946, hai chị lớn của tôi đi lấy chồng. Rồi hai người anh lớn cũng rời gia đình. Khoảng trước lễ Phục Sinh một tháng, ông mục sư của nhà thờ chúng tôi đã thông báo với Hội Thánh rằng sẽ có một buổi dâng hiến đặc biệt trong mùa lễ năm nay, và tất cả số tiền đó sẽ dùng để giúp một gia đình nghèo khó trong Hội Thánh. Ông kêu gọi mọi người hãy để dành và rộng lòng dâng hiến.
Sau lời kêu gọi của ông mục sư, chúng tôi về nhà và bàn bạc rất sôi nổi xem mình nên làm gì cho việc này. Chúng tôi quyết định sẽ mua năm mươi pao (pound) khoai tây để cả nhà ăn trong một tháng. Làm như vậy, chúng tôi có thể tiết kiệm được hai mươi đô-la trong tiền mua thực phẩm. Rồi chúng tôi còn quyết định là sẽ hạn chế tối đa việc sử dụng đèn điện trong nhà, cũng không nghe radio nữa, như vậy lại có thể để dành thêm một khoảng từ cái hóa đơn tiền điện. Chị Darlene thì cố gắng nhận thêm việc giúp việc nhà, dọn dẹp vườn… Còn hai đứa tôi thì nhận giữ trẻ cho mọi người bất cứ lúc nào có thể. Với mỗi mười lăm xen (cent), chúng tôi có thể mua đủ chỉ cotton để đan thành ba miếng lót bình trà và bán với giá một đô-la. Chúng tôi kiếm được hai mươi đô-la nữa trong công việc này. Tháng đó thật sự là một tháng tuyệt vời nhất trong cuộc đời chúng tôi.
Mỗi ngày chúng tôi đếm xem mình đã để dành được bao nhiêu tiền. Buổi tối, chúng tôi ngồi trong bóng tối và nói chuyện với nhau về gia đình nghèo khó kia, họ sẽ vui mừng như thế nào khi nhận được số tiền mà Hội Thánh giúp đỡ. Hội Thánh chúng tôi có khoảng tám mươi thành viên, chúng tôi nhẩm tính xem số tiền mà Hội Thánh sẽ giúp gia đình kia, có lẽ nó phải gấp hai mươi lần số tiền của chúng tôi.
Trong lúc đó, mỗi sáng Chúa nhật, ông mục sư của chúng tôi đều nhắc nhở mọi người để dành cho việc dâng hiến sắp tới.
Đêm truớc lễ Phục Sinh, cả nhà chúng tôi rất háo hức trong lòng nên rất khó ngủ. Chúng tôi cũng chẳng quan tâm đến việc mình sẽ không có quần áo mới cho dịp lễ Phục Sinh năm nay; Chúng tôi đã có bảy mươi đô-la để dâng hiến. Cả nhà ai cũng sốt ruột chờ đến giờ đi nhóm. Vào sáng Chúa nhật, mưa như trút nước. Chúng tôi cũng không có một cây dù nào, và nhà thờ thì cách xa chỗ chúng tôi khoảng hơn một dặm, nhưng dường như điều đó chẳng có ý nghĩa gì với chúng tôi lúc này cả. Chị Darlene nhét một miếng giấy carton vô giày để che các lỗ thủng lại. Đi được một lúc, tấm giấy thấm nước và rách ra, thế là chân chị ấy ướt nhẹp.
Ở trong nhà thờ hôm đó, chúng tôi ngồi một cách rất hãnh diện. Tôi nghe một vài thiếu niên đang bàn luận về những bộ quần áo cũ của chúng tôi đang mặc. Tôi nhìn họ trong những bộ quần áo mới, và tôi vẫn cảm thấy mình giàu có.
Khi hộp tiền dâng được đưa đến, chúng tôi đang ngồi ở hàng ghế thứ hai trong nhà thờ. Mẹ tôi bỏ tờ mười đô-la vào hộp, và mỗi đứa chúng tôi thì bỏ tờ hai mươi đô-la.
Chúng tôi đã hát suốt trên đường từ nhà thờ về nhà. Buổi trưa hôm đó, mẹ tôi tạo một sự ngạc nhiên cho chúng tôi, bà mua một chục trứng và thế là chúng tôi luộc trứng Phục Sinh để ăn với khoai tây chiên! Vào lúc xế chiều, ông mục sư lái xe đến thăm chúng tôi. Mẹ ra mở cửa, nói chuyện với ông một lúc, và trở vào với một cái phong bì trên tay. Chúng tôi hỏi mẹ cái gì thế, nhưng mẹ chẳng nói tiếng nào. Khi mẹ tôi mở phong bì, một xấp tiền rơi ra: ba tờ hai mươi đô-la mới toanh, một tờ mười đô-la và mười bảy tờ một đô-la.
Mẹ tôi cất số tiền vào lại phong bì. Chúng tôi không nói tiếng nào, chỉ ngồi và nhìn xuống sàn nhà. Chúng tôi đã rơi từ cảm giác mình là triệu phú xuống thành người nghèo nhất. Những đứa trẻ chúng tôi đã có một đời sống quá hạnh phúc đến nỗi chúng tôi cảm thấy tội nghiệp cho những người không có mẹ và ba như chúng tôi, không có ngôi nhà với đầy đủ anh chị em và những đứa trẻ khác thường xuyên thăm viếng. Tôi biết rằng gia đình tôi không có nhiều thứ như những gia đình khác, nhưng thật tình tôi không bao giờ nghĩ rằng chúng tôi nghèo!
Chính ngày Phục Sinh hôm đó, tôi đã biết rằng chúng tôi là những người nghèo. Ông mục sư đã đem tiền đến tặng chúng tôi, vì thế chắc chắn chúng tôi phải là người nghèo rồi, tôi nghĩ. Tôi không thích mình là người nghèo! Tôi nhìn lại bộ quần áo đang mặc, rồi cởi đôi giày ra – và tôi cảm thấy xấu hổ -thậm chí tôi không muốn đi nhà thờ nữa. Mọi người có thể đều đã biết chúng tôi là người nghèo nhất Hội Thánh rồi!
Tôi nghĩ về việc đến trường. Tôi đang học lớp chín và luôn đứng đầu lớp học với hơn một trăm học sinh. Tôi tự hỏi không biết bọn trẻ trong trường có biết chúng tôi là người nghèo không? Tôi quyết định có thể mình sẽ nghỉ học bởi vì tôi đã học xong lớp tám. Lúc đó, nhà trường cho phép làm vậy.
Chúng tôi ngồi trong im lặng rất lâu. Rồi trời tối dần, và chúng tôi lên giường ngủ. Cả tuần đó, mấy đứa chúng tôi chỉ đi học rồi về nhà, và ai cũng ít nói hẳn đi. Cuối cùng, ngày thứ bảy đến, mẹ hỏi rằng chúng tôi muốn làm gì với số tiền đó? Những người nghèo làm gì với số tiền như thế? Chúng tôi chẳng biết nữa. Chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ là mình nghèo cả.
Cả ba đứa chúng tôi đều không muốn đi nhà thờ vào Chúa nhật hôm đó, nhưng mẹ tôi bảo phải đi nhà thờ. Dù trời hôm đó nắng ấm áp, chúng tôi đi mà chẳng ai nói với ai câu nào. Thế rồi mẹ bắt đầu cất giọng hát, nhưng chẳng có ai hát chung theo cả, mà mẹ tôi cũng chỉ hát được có mỗi một câu.
Hôm đó có một vị giáo sĩ đến giảng ở nhà thờ chúng tôi. Ông kể rằng ở Châu Phi có nhiều nhà thờ đang được xây dựng bằng gạch, nhưng họ đang thiếu tiền để mua vật liệu cho mái nhà thờ. Ông nói rằng một trăm đô-la là số tiền đủ để làm một cái mái cho nhà thờ. Ông giáo sĩ nói thêm, ” Chẳng lẽ chúng ta không thể hy sinh để giúp đỡ những người nghèo ở đó hay sao?” Chúng tôi nhìn nhau và mỉm cười lần đầu tiên suốt một tuần qua.
Mẹ lấy ví tiền, rồi rút hết tiền trong cái phong bì ra. Mẹ chuyền cho chị Darlene, chị Darlene đưa cho tôi, và tôi đưa nó cho Ocy. Ocy bỏ vào trong hộp tiền dâng.
Và khi kiểm tra số tiền dâng, vị giáo sĩ thông báo rằng đã thu được “hơn một trăm đô-la một chút”. Và ông tỏ ra rất vui. Ông không mong đợi một số tiền lớn như vậy ở một nhà thờ nhỏ như nhà thờ của chúng tôi. Ông nói, “chắc hẳn trong nhà thờ quý vị phải có những người giàu có.” Câu nói bất ngờ đã đánh trúng vào sự mặc cảm của chúng tôi! Chúng tôi đã dâng tám mươi bảy đô-la trong số “hơn một trăm đô-la một chút” kia. Chúng tôi là mộ gia đình giàu có trong Hội Thánh! Có phải chính vị giáo sĩ kia đã chẳng nói thế là gì?
Từ ngày hôm ấy, tôi không bao giờ nghèo nữa.
Câu hỏi suy gẫm
Bạn đang giàu có hay nghèo nàn trong Chúa? Bạn nghĩ sao về cuộc sống hiện tại mà Chúa ban cho bạn?
Tinh thần đáp ứng của bạn như thế nào trước lời mời gọi làm một việc gì đó cho nhà Chúa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 12:26
“…nếu ai hầu việc ta, thì Cha ta ắt tôn quí người “
**
Sự hoàn hảo
Chush là một trường nuôi dạy trẻ khuyết tật nằm tại Brooklyn, New York. Tại đây, một vài đứa trẻ phải ở trong trường suốt cuộc đời, trong lúc một số khác có thể sẽ được đi học tại những trường bên ngoài.
Vào một buổi tối nọ, trong chương trình gây quỹ cho trường, cha của một đứa trẻ khuyết tật đã có một bài phát biểu làm cho mọi người tham dự hôm đó không thể nào quên được.
Sau khi cám ơn trường và các thầy cô đã tận tình dạy dỗ, chăm sóc các em khuyết tật, ông đã khóc khi nói rằng “Tôi đã thường hỏi đâu là sự hoàn hảo cho Shay, con trai tôi? Mọi điều Chúa đã dựng nên đều hoàn hảo cả. Tuy nhiên, con trai tôi không thể nào hiểu nỗi ngay cả những vấn đề rất bình thường mà những đứa trẻ khác dễ dàng tiếp thu; Nó chẳng làm được những việc đơn giản mà ai cũng có thể làm; Nó chẳng thể nhớ nỗi những sự việc, sự vật bình thường như những đứa trẻ khác. Vậy thì sự hoàn hảo của Chúa trên đời sống nó ở đâu?”
Tất cả mọi người thật sự bị bàng hoàng vì câu hỏi, họ cảm thấy đau đớn với nỗi đau của người cha. Tất cả đều lặng yên.
“Nhưng tôi tin rằng”, ông nói tiếp “khi Chúa đặt để một đứa trẻ như con của tôi vào thế gian này, thì sự hoàn hảo mà nó tìm được chính là trong cách mọi người đối xử với nó.”
Và ông đã làm chứng câu chuyện sau về đứa con mình:
Vào một buổi chiều, Shay và cha mình đi ngang qua một công viên – nơi những cậu con trai đang chơi bóng chày. Đây là những đứa trẻ quen biết, cùng sống chung khu phố với Shay.
Shay hỏi cha, “Ba có nghĩ rằng họ sẽ cho con chơi chung không?”
Người cha hiểu rằng con mình không phải là một đứa trẻ khỏe mạnh và những đứa trẻ kia sẽ chẳng muốn nó tham gia vào đội của chúng. Nhưng ông cũng hiểu rằng nếu như Shay được chọn vào chơi, nó sẽ là cảm thấy mình được chấp nhận và rất hạnh phúc vì được hoà nhập vào đám bạn.
Người cha đến gần một trong những đứa trẻ trên sân và xin cho Shay vào chơi chung.
Cậu bé đưa mắt nhìn các thành viên để xem ý kiến mọi người thế nào. Không thấy ai có ý kiến gì, cậu tự quyết định “Chúng cháu đã thua sáu điểm rồi và trận đấu đang ở lượt thứ tám. Cháu nghĩ rằng Shay có thể tham gia với tụi cháu, và tụi cháu sẽ cố gắng để cậu ấy vào ở lượt đấu thứ chín.”
Cha của Shay thật hạnh phúc khi nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên mặt cậu con trai mình. Shay được bảo mang găng tay và vào cái sân nhỏ kế bên để tập dượt trước.
Vào cuối lượt đấu thứ tám, đội của Shay đã ghi được thêm vài điểm nữa, nhưng vẫn còn thua ba điểm.Vào cuối lượt đấu thứ chín, đội của Shay lại tiếp tục ghi được hai điểm và như vậy, bây giờ đội có hy vọng chiến thắng.
Và Shay được cho vào sân. Có thực sự đội của Shay sẽ cho nó cơ hội đánh bóng vào giờ phút quyết định này và từ bỏ cơ hội chiến thắng không?
Bất ngờ, Shay được đưa chiếc gậy đánh bóng. Mọi nguời biết rằng đây là điều không thể được vì Shay thậm chí không biết làm sao để cầm cái gậy đánh bóng đúng cách, cũng không thể tự mình đánh bóng được. Tuy nhiên, khi Shay bước vào vòng đánh bóng, người ném bóng tiến tới vài bước và ném bóng thật nhẹ để Shay có thể đánh được trái bóng.
Lần đầu tiên, Shay vung gậy lên một cách vụng về và để hụt bóng. Một trong những đồng đội của nó chạy lên và giúp nó giữ cây gậy đánh bóng, hướng về phía người ném bóng và chờ đến lượt ném kế tiếp. Người ném bóng lại tiếp tục bước tới và ném trái bóng nhẹ nhàng về phía Shay. Khi trái bóng bay đến, cậu bé giữ chặt tay Shay và vung gậy đánh bóng. Trái bóng lăn chậm về phía người ném bóng.
Người ném bóng nhặt bóng lên và có thể dễ dàng ném quả bóng về phía đồng đội đang đứng tại trạm thứ nhất. Shay có lẽ đã phải rời khỏi sân vì kết thúc cuộc chơi. Nhưng thay vào đó, người ném bóng lại cầm bóng lên và ném thật xa về phía bên phải của sân bóng, vượt ngoài tầm bắt của đồng đội đang đứng tại trạm thứ nhất.
Mọi người cùng gào to, “Shay, chạy nhanh lên! Chạy nhanh về trạm thứ nhất đi!”
Chưa bao giờ trong cuộc đời nó, Shay chạy nhanh đến như vậy. Nó chạy dọc đường biên hướng về trạm thứ nhất, mắt mở to và hoảng hốt. Ngay khi nó đến được trạm thứ nhất, người chặn bóng bên phải sân đã chụp được bóng. Cậu bé có thể quăng bóng đến người đứng tại trạm thứ hai. Nhưng cậu ta hiểu được ý của người ném bóng, thế là cậu lại ném trái bóng thật cao và xa, đến nỗi vượt qua đầu người đứng tại trạm thứ ba.
Mọi người lại la to, “Chạy về phía trạm thứ hai! Trạm thứ hai!”
Shay cố sức chạy về trạm thứ hai trong khi những người khác đang chạy phía trước cậu ta đã vòng qua các trạm và đang tiến về trạm gốc.
Khi Shay đến được trạm thứ hai, cậu bé đứng ở vị trí chặn bóng chạy tới chỗ Shay, và hướng cho nó chạy về trạm thứ ba, cậu hét to, “Chạy về trạm thứ ba đi! Nhanh lên!” Khi Shay vòng qua trạm thứ ba, những cậu bé của cả hai đội đang chạy phía sau Shay hét to lên, “Shay, chạy về trạm gốc nhanh lên!”
Shay lại chạy về trạm gốc. Khi nó bước vào vòng ném bóng, cả mười tám cậu bé của hai đội đã kông kênh Shay trên vai chúng, tung hô nó như một anh hùng vì Shay đã ghi “một điểm quyết định” và đem lại chiến thắng cho đội của cậu.
“Ngày đó”, người cha nói trong nước mắt, “mười tám cậu bé của cả hai đội bóng đã làm thành sự hoàn hảo của Đức Chúa Trời trên cuộc đời của Shay!”
Câu hỏi suy gẫm
Bạn có bao giờ làm điều gì để góp phần vào sự hoàn hảo của Chúa trên đời sống người khác chưa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 13:35
Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta.
**
Chiếc khăn trải bàn tiệc
Một mục sư trẻ được kêu gọi để hầu việc Chúa tại một ngôi nhà thờ cổ xưa trong một thành phố nọ. Ngôi nhà thờ này trước kia từng là một ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ nằm trong khu vực giàu có của thành phố. Nhưng bây giờ, nó ngày càng xuống cấp trầm trọng. Tuy nhiên, vị mục sư và vợ ông được cảm động với công việc Chúa tại đây và tin rằng họ có thể phục hồi ngôi nhà thờ trở về vẻ đẹp tráng lệ ngày xưa của nó.
Khi nhậm chức vào đầu tháng 10 nãm 1948, vị mục sư cùng vợ mình lập tức bắt tay vào sơn sửa, lau chùi ngôi nhà thờ, cố gắng để phục hồi nó lại. Mục tiêu của họ là chuẩn bị một ngôi nhà thờ khang trang hơn cho ngày lễ Noel sắp tới.
Tuy nhiên, khi chỉ còn hai ngày nữa là đến ngày lễ Noel, một trận bão lớn quét qua thành phố, trút những cơn mưa dữ dội xuống vùng này. Mái ngôi nhà thờ cũ kỹ đã rạn nứt một khe lớn phía trên toà giảng. Bức tường phía sau toà giảng làm bằng vôi bị thấm nhũng nước và vỡ vụn, để lại một lỗ lớn.
Vị mục sư cùng vợ mình buồn bã và rất thất vọng khi nhìn thấy bức tường nham nhở tróc những lớp vôi. Rõ ràng là không còn cơ hội nào nữa để sửa chữa lại phần bị hư hỏng trước khi mùa Noel đến. Toàn bộ các công việc ông bà cố gắng trong 3 tháng qua đã tan thành mây khói. Ông bà cuối đầu chấp nhận sự hư hại này như là ý Chúa, và bắt tay vào dọn dẹp những mảnh vỡ.
Chiều hôm đó, vợ chồng vị mục sư tham dự một cuộc bán đấu giá nhằm gây quỹ cho thanh niên trong nhà thờ. Một trong những vật mà người ta đem rao bán là một chiếc khăn trải bàn tiệc viền đăng ten đã ngả vàng, dài gần 5 m. Chợt nghĩ ra một điều, ông mục sư liền mua chiếc khăn này với giá 6.5 đô la. Ông nghĩ rằng có thể treo chiếc khăn này phía sau toà giảng, nhằm che lấp lỗ hổng trên bức tường.
Vào một ngày trước đêm Noel, tuyết rơi nhiều và gió rít từng cơn lạnh buốt. Khi mở cửa nhà thờ, ông mục sư nhìn thấy một một người phụ nữ đứng tuổi đang đứng chờ xe bus bên ngoài. Ông mục sư biết là còn khoảng nửa tiếng xe bus mới tới. Ông mời bà vào bên trong nhà thờ cho đỡ lạnh.
Bà không phải là người trong vùng này. Bà đến đây để phỏng vấn làm người giữ trẻ cho một gia đình giàu có và nổi tiếng trong vùng. Bà ta vốn là một người tị nạn chiến tranh. Tiếng Anh của bà không được tốt, chính vì vậy, bà không được nhận vào làm.
Người phụ nữ ngồi ở hàng ghế cuối nhà thờ và cuối đầu cầu nguyện. Bà không để ý đến ông mục sư đang cố gắng treo tấm khăn trải bàn tiệc lên bức tường để che lỗ hổng. Khi ngước lên và nhìn thấy tấm khăn, bà vội vàng chạy đến bên ông mục sư:
“Chiếc khăn này là của tôi – bà giải thích – Ðó chính là chiếc khăn trải bàn tiệc của tôi”.
Quá xúc động, bà kể cho ông mục sư về lai lịch chiếc khăn và chỉ cho ông thấy chữ ký của mình thêu trên một góc của chiếc khăn.
Trước đây, bà cùng chồng sống tại Vienna, thủ đô nước Áo, và đã chống đối lại chế độ Nazis trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ 2. Hai ông bà quyết định trốn sang Thụy sĩ. Nhưng chồng bà bảo rằng để bảo đảm an toàn, họ nên trốn đi riêng rẻ. Sau này, bà nghe tin chồng mình đã chết trong một trại tập trung.
Cảm động bởi câu chuyện của bà, ông mục sư nài nỉ bà hãy giữ lại chiếc khăn. Bà suy nghĩ một lúc và từ chối. Bà không cần đến nó nữa, và bà nghĩ rằng nó sẽ trông xinh đẹp hơn nếu được treo phía sau toà giảng. Bà chào tạm biệt ông mục sư và bước ra ngoài.
Đêm giáng sinh!
Trong ánh đèn lung linh của đêm Noel, chiếc khăn có vẻ như rực rỡ hơn. Những đường viền màu trắng dường như lấp lánh dưới ánh sáng của những ngọn nến, các viền vàng trên chiếc khăn phản chiếu những tia sáng như những tia nắng lúc bình minh.
Và khi buổi thờ phượng kết thúc, các tín đồ đến khen ngợi ông mục sư về bài giảng cũng như cách trang hoàng lộng lẫy của ngôi nhà thờ đêm hôm đó.
Trong lúc đó, có một người đàn ông đứng mân mê trước tấm khăn. Khi rời nhà thờ, ông nói với vị mục sư:
“Thật là ngạc nhiên. Cách đây nhiều năm, vợ tôi – xin Chúa ban cho bà sự yên nghỉ – và tôi cũng có một tấm khăn giống như tấm khăn này. Vợ tôi chỉ sử dụng nó trong những dịp thật đặc biệt mà thôi. Lúc đó, chúng tôi còn sống tại Vienna.”
Ông mục sư giật mình và cảm thấy kinh ngạc. Thế rồi vị mục sư từ tốn kể lại cho ông câu chuyện về người phụ nữ trong nhà thờ hồi chiều.
“Không thể tin được”, người đàn ông xúc động run rẩy, nước mắt lăn dài trên má ” Vợ tôi còn sống thật sao? Làm sao tôi có thể tìm gặp bà ấy?”
Vị mục sư nhớ lại tên của gia đình mà người phụ nữ đến xin việc. Ông gọi điện thoại cho họ, hỏi thăm tên và địa chỉ của bà.
Trên chiếc xe cũ kỹ của mình, ông mục sư chở người đàn ông đó đến nhà bà ở bên kia thành phố. Họ cùng gõ cửa. Khi cánh cửa mở ra, ông mục sư đã chứng kiến một cuộc đoàn tụ vợ chồng đầy nước mắt, niềm vui và hạnh phúc.
Một vài người có thể gọi câu chuyện này là một điều gì đó cực kỳ may mắn: kết quả của lỗ hổng trên bức tường phía sau toà giảng, chiếc khăn trải bàn tiệc cũ kỹ, sự khéo léo của ông mục sư trong việc giải quyết vấn đề … Nhưng sự xảy ra trùng hợp của tất cả các sự kiện đó là một điều hiếm gặp.
Nếu như một mắc xích nào trong chuỗi sự kiện này bị thiếu đi: nếu không có mưa, nếu mái nhà thờ không bị nứt, nếu ông mục sư không quyết định tham dự buổi đấu giá, nếu người phụ nữ kia không đi tìm công việc trong thành phố này … thì người chồng và người vợ có thể chẳng bao giờ gặp lại nhau.
Và nói một cách đơn giản, tất cả chỉ là bởi ý Chúa. Và Ngài luôn làm việc kỳ diệu theo cách của Ngài.
Câu hỏi suy gẫm
Bạn có bao giờ kinh nghiệm đýợc sự diệu kỳ trong chương trình của Chúa trên đời sống bạn chưa?
Bạn có dám giao phó mọi kế hoạch của mình cho Chúa không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Esai 55:8-9
8 Đức Giê-hô-va phán: Ý tưởng ta chẳng phải ý tưởng các ngươi, đường lối các ngươi chẳng phải đường lối ta. 9 Vì các từng trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối ta cao hơn đường lối các ngươi, ý tưởng ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu.
**
Gặp Chúa
Một lần nọ, có một cậu bé thiết tha muốn được gặp Chúa. Cậu ta nghĩ rằng để gặp được Chúa phải trải qua một chặng đường rất dài. Thế là cậu ta sắp xếp đồ đạc vào một chiếc túi xách nhỏ. Cậu cũng không quên bỏ vào đấy lương thực đi đường: một ít bánh, 6 lon nước ngọt, và cậu bé bắt đầu cuộc hành trình của mình.
Khi cậu bé đã đi được qua 3 dãy nhà, cậu bé nhìn thấy một bà cụ đang ngồi trong công viên ngắm nhìn những chú bồ câu nhởn nhơ quanh đó. Thế là cậu bé bèn đến gần và ngồi bên bà cụ. Cậu bé mở túi xách ra, định sẽ lấy nước để uống, cậu chợt nhìn và nhận thấy bà cụ cũng có vẻ đang đói bụng. Cậu nhanh nhẩu lấy một ít bánh của mình mang theo mời bà cụ.
Bà cụ từ tốn cầm lấy chiếc bánh và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà thật rạng rỡ đến nổi khiến cậu bé muốn nhìn thấy nụ cười ấy một lần nữa. Thế là cậu lấy nước mình mang theo và mời bà cụ. Một lần nữa, bà cụ lại mỉm cười với cậu. Cậu bé cảm thấy mình thật hạnh phúc! Họ ngồi đó suốt cả buổi chiều, vừa ăn vừa mỉm cười với nhau nhưng chẳng ai nói với ai một lời nào. Khi trời bắt đầu tối, cậu bé bắt đầu thấm mệt vì cả ngày đi ở ngoài đường. Cậu đứng dậy bước đi. Nhưng khi vừa bước được vài bước, và không biết nghĩ gì, bất ngờ cậu quay lại ôm chầm lấy bà cụ và hôn tạm biệt. Và lần này, bà cụ đã mỉm cười với cậu, một nụ cười rạng rỡ nhất.
Khi cậu bé quay về nhà và mở cửa bước vào, mẹ cậu cảm thấy ngạc nhiên vì nét mặt cậu bé thật vui mừng. Bà hỏi con mình, “ Chuyện gì đã xảy ra với con hôm nay mà khiến con vui vẻ thế?” Cậu bé trả lời, “Hôm nay, con đã ăn bữa trưa với Chúa đấy mẹ.” Và không để cho mẹ mình kịp nói tiếng nào, cậu bé kể tiếp với giọng hào hứng, “ Mẹ biết không, Chúa có một nụ cười thật tươi mà con chưa được thấy bao giờ.”
Cùng lúc đó, bà cụ cũng trở về nhà mình với nét mặt thật hạnh phúc. Anh con trai của bà rất ngạc nhiên khi thấy một sự bình an và vui thỏa hiện trên khuôn mặt mẹ mình. Anh bèn lên tiếng hỏi, “Hôm nay có chuyện gì mà mẹ trông có vẻ vui thế?” Bà cụ trả lời, “Mẹ vừa ăn chung bánh ngọt với Chúa trong công viên,” và bà cụ bàn thêm, “Con biết không, Chúa trông trẻ hơn nhiều so với mẹ nghĩ.”
Suy gẫm
Nhiều lần trong cuộc sống, ta đã xem nhẹ tác dụng của những lời nói nhân từ, một nụ cười trên môi, một lời khen chân tình, hay là một sự chăm sóc nhỏ nhặt dành cho người khác. Nhưng chính những điều nhỏ nhặt đó đã giúp ta thể hiện tình yêu của Chúa trong đời sống mình cho người khác. Những điều nhỏ nhặt ấy biết đâu, có thể làm thay đổi một cuộc đời của một ai đó, đem đến cho họ niềm vui và ý nghĩa sống.
Hãy thể hiện tình yêu Chúa qua cách sống, cách cư xử của chúng ta mỗi ngày.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 5:16
Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời.
**
Sự nhơn từ
Sống tha thứ và nhơn từ chẳng bao giờ phí cả. Nó cũng chẳng bao giờ trở nên luống công vô ích.
Tôi xin kể câu chuyện về người bạn của tôi, Martha Johnson, một người đã gặp rất nhiều khó khăn về tiền bạc trong cuộc sống. Mặc dù đã 95 tuổi, bà trông có vẻ khỏe mạnh hơn những cụ già ở độ tuổi đó, tuy nhiên bà vẫn phải dùng gậy khi đi lại. Giống như những người già khác, bà sống một mình, và bây giờ bà đã sống đến độ tuổi mà người ta không còn có thể trợ cấp hưu trí cho bà nữa.
Vào một buổi chiều nọ, chúng tôi ngồi uống cà phê với nhau, bà cho biết bà vừa đến nhà băng để thế chấp giấy tờ nhà đất của mình để vay mượn một ít tiền. Bà không muốn làm điều này, bà mong ước để lại ngôi nhà cho đứa cháu tật nguyền của bà đang sống ở một nơi khác.
Khi tôi nói chuyện với bà hôm ấy, tôi biết rằng bà đang gặp khó khăn rất lớn. Tôi biết mình không thể giúp bà về tài chính, nhưng tôi có thể cầu nguyện cho bà. Và tôi đã cầu nguyện rất nhiều, xin Chúa mở đường cho bà.
Một tuần sau bà gọi điện cho tôi. Bà báo cho tôi biết bà không phải thế chấp giấy tờ nhà đất nữa. Một người đàn ông tên Billy Hendrick đã đến thăm bà và cho bà 300 dollar, ông cũng hứa sẽ chu cấp cho bà mỗi tháng 300 dollar trong suốt quãng đời còn lại của bà.
“Ông ta là ai thế, làm thế nào mà chuyện lại xảy ra như thế?” Tôi hỏi bà. Và thế là bà Martha kể cho tôi nghe hết mọi chuyện.
Cách đây 60 năm, khi bà còn là một phụ nữ trẻ sống với chồng trong một căn nhà nghèo nàn tại Chicago. Trong những người láng giềng, có một gia đình rất tử tế. Họ có một người con trai khoảng 14 tuổi tên Billy.
Vào một ngày nọ, khi trở về nhà, bà cùng chồng phát hiện thấy căn nhà của họ bị lục lọi tung tóe. Quần áo và các đồ dùng trong nhà bị vất vương vãi khắp nơi. Các đồ dùng trong nhà cũng bị xê dịch. Chiếc radio nhỏ của họ đã bị đánh cắp. Ngoài ra còn bị mất hũ đựng những đồng tiền xu, đèn pin, chiếc áo khoác, và bộ sưu tập tem.
Không có gì bị hư hại cả. Chỉ có bị đánh cắp một vài vật trị giá khoảng gần 100 dollar. Họ đã gọi cảnh sát, rồi bắt đầu sắp xếp mọi vật lại chỗ cũ.
Sau đó vài ngày, một cảnh sát đến gặp và cho biết họ đã tóm được thủ phạm vụ đánh cắp hôm nọ. Và trước sự sửng sốt của hai vợ chồng Martha, đó chính là cậu bé hàng xóm Billy.
Mặc dù hai vợ chồng Martha không muốn đền bù gì cả, nhưng phía tòa án vẫn có quyết định gửi Billy vào trung tâm giáo dục thiếu niên trong vòng một năm.
Martha đã rất buồn. Bà mua một hộp sô cô la Fannie Mae và gửi nhờ mẹ Billy mang đến cho cậu hộ khi có dịp thăm viếng cậu. Vào dịp lễ Giáng sinh, Martha đã gửi cuốn sách “Cuộc đời Chúa Jêsus” cho Billy nữa.
Khi Billy được trở về, cả gia đình họ đã dời đi nơi khác ở.
Nhiều năm trôi qua. Đến nay đã 60 năm rồi.
Cách đây một tuần, Martha, bây giờ đã 95 tuổi, ra mở cửa và tiếp chuyện một người đàn ông tóc hoa râm. “Cô Johnson, không biết cô còn nhớ cháu không ạ? Cháu Billy đây.”
Bà nhìn chằm chằm vào người đàn ông đứng tuổi nọ, ráng hình dung mơ hồ một chút gì đó của cậu hàng xóm tinh nghịch ngày xưa, bà mời ông vào nhà.
“Billy, có phải thật là cháu đấy không?” Martha hỏi khi bà dẫn ông đến ghế xô pha cũ kỹ.
“Vâng, cháu đây.”
Nước mắt chảy dài trên má, hai cô cháu cùng ngồi ôn lại những kỷ niệm ngày xưa, về chuyện xảy ra để cậu phải rời quê hương.
“Cháu vẫn luôn vui mừng vì cô vẫn nghĩ tốt về cháu, ngay cả khi cô biết cháu đánh cắp đồ của cô. Cháu rất quý cuốn sách mà cô gửi cho cháu vào mùa Giáng sinh năm ấy. Năm ấy đúng là một năm cháu được rèn giũa. Khi được về, cháu quyết định đi học và bắt đầu cuộc sống mới.”
Billy kể cho bà nghe ngày ấy, ông đã vào trường trung học ngay sau khi được tha ra. Rồi ông trở thành người học việc cho một tiệm chuyên về máy móc. Ông rất tiến bộ ở đó, và bắt đầu đăng ký học những lớp về kinh doanh. Ông đã lập gia đình nhưng không có con cái. Cách đây vài năm, vợ ông đã qua đời vì bệnh ung thư. Ông sống một mình từ lúc đó. Gần đây ông mới được tăng chức và trở thành phó chủ tịch một công ty thép và dây kim loại ở Detroit.
“Cháu đã từng ở Chicago, và cháu tự hỏi không biết cô có còn ở chỗ cũ không. Rồi cháu thấy tên cô trong niêm giám điện thoại, vậy là cháu đến đây tìm lại cô.”
Lau nước mắt, ông hỏi, “Thế cuộc sống cô thế nào? Về kinh tế ra sao?”
Bà hơi ngại, rồi nói, “Cũng khó khăn. Cô sống quá lâu rồi. Mỗi đêm cầu nguyện, cô chỉ xin Chúa đem cô về với Ngài.”
“Ồ không, Chúa sẽ đem cô về với Ngài vào thời điểm Ngài muốn.”
Ông lấy cuốn séc và ghi vào một tờ séc trị giá 300 dollar.
“Cô Johnson, mỗi tháng cháu sẽ gửi cho cô một tờ séc 300 dollar. Và nếu có gì cần đặc biệt, cô hãy cho cháu biết, cháu sẽ gọi ai đó gần đây đến giúp cô. Cháu sẽ đi ngang qua đây vào tháng 12, lúc đó cháu sẽ ghé đến thăm cô.”
Martha nói với tôi, “Bà thấy không, tôi không cần phải thế chấp ngôi nhà mình nữa.”
Chúng tôi cùng cầu nguyện cám ơn Chúa về món quà của Billy. Chúng tôi cầu nguyện xin Chúa chúc phước cho Billy thật dư dật càng thêm. Một cậu bé cần được tha thứ và đối xử một cách nhân từ, Martha đã ở đó để cho cậu điều cậu cần. Và khi một bà cụ cần giúp đỡ, Billy đã xuất hiện.
Suy gẫm
Tha thứ và nhân từ không bao giờ là dư hay phung phí cả, nhưng chính nó sẽ mang lại cho chúng ta gấp nhiều lần hơn.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Eph 4:32
Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.
**
Chiếc mền và chiếc gối
Chuyện kể rằng cách đây đã lâu, có một cô bé con nhà giàu có đang chuẩn bị đi ngủ. Cô đang cầu nguyện, bỗng chợt nghe có tiếng khóc thút thít nghẹn ngào đâu đó ngoài cửa sổ. Tuy hơi sợ hãi một chút, cô cũng đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.
Ngoài kia, một cô bé khác lang thang không nhà, có lẽ cùng độ tuổi với cô, đang đứng núp mình dưới hành lang nhà. Trái tim cô cảm thương cho cô bé nhà nghèo không nhà, có thể cô ấy sẽ chết cóng ngoài trời đông lạnh giá, vì ngay cả cái mền cô ấy cũng không có, chỉ che đỡ bằng tờ báo cũ mà người ta vứt đi.
Cô bé nhà giàu chợ nghĩ ra một ý tưởng thật tuyệt vời. Cô gọi cô bé nghèo khó và nói, “Này, hãy đến cửa chính nhà tôi nhé.”
Cô bé nghèo giật mình hoảng hốt đến nỗi quên cả gật đầu đáp lại.
Cố gắng thật nhanh, cô bé nhà giàu chạy xuống nhà và vào tủ của mẹ mình, cô lấy ra một cái mền bông cũ và tìm thêm một cái gối. Cô đi từ từ ra cửa chính nhà mình, cố gắng không đạp lên cái mền quá khổ. Cuối cùng, khi cô mở cánh cửa, cả hai thứ đều rơi cả xuống đất. Ngoài kia, cô bé nghèo khổ đang đứng đó, nhìn có vẻ hơi sợ sệt.
Cô bé nhà giàu mỉm cười thân thiện, và đưa cả chiếc mền lẫn gối cho cô bé nghèo. Nụ cười của cô càng tươi hơn khi cô nhìn thấy vẻ mặt thảng thốt ngạc nhiên và vui mừng lộ rõ ra trên khuôn mặt cô bé nghèo. Cô trở vào nhà, lên giường ngủ với niềm vui và thật sự thỏa lòng.
Buổi sáng hôm sau, có tiếng gõ cửa. Cô bé nhà giàu chạy như bay xuống mở cửa, hy vọng rằng đó là cô bé nhà nghèo hôm qua. Quả đúng như vậy, cô bé kia đang đứng đó. Khuôn mặt cô bé nhìn hạnh phúc lắm, cô ta mỉm cười. “Tôi nghĩ chắc bạn muốn tôi trả những thứ này lại.”
Cô bé nhà giàu định mở miệng bảo rằng cô bé kia cứ việc giữ những thứ ấy, nhưng một ý nghĩ khác chợt đến khiến cô nói, “Đúng vậy, tôi muốn bạn trả chúng cho tôi.”
Gương mặt cô bé nghèo lộ vẻ thất vọng. Đây rõ ràng là một câu trả lời không được mong đợi. Cô bé miễn cưỡng đặt chiếc mền và gối xuống, định quay bước đi, nhưng cô bé nhà giàu chợt nói lớn, “Đợi đã! Bạn đứng đó chờ chút nhé.”
Cô bé nghèo quay lại thì thấy người bạn giàu có đã chạy lên cầu thang và đi xuống một hành lang rộng. Nghĩ rằng cũng chẳng có ý nghĩa gì khi đứng đây chờ, cô quay bước định đi. Khi cô vừa bước ra đến bậc cửa, cô thấy có ai đó vỗ vào vai mình. Quay lại, thì ra là cô nhà giàu. Cô ta đẩy một chiếc mền và gối mới về phía cô bé nghèo.
Cô ta nói, “Cầm lấy cái này đi.”
Đây là những thứ của cô đang dùng, làm bằng lụa và bên trong được độn bằng lông ngỗng.
Khi cả hai đều lớn lên, họ không có dịp để gặp nhau nhiều, nhưng họ luôn nhớ đến nhau. Vào một ngày nọ, cô bé nhà giàu thuở xưa, nay đã là một quý bà giàu có, nhận được một cuộc điện thoại. Đó là cuộc gọi của một luật sư, ông ta nói cần gặp bà có việc.
Khi bà đến văn phòng luật sư, ông kể cho bà những việc đã xảy ra. Cách đây bốn mươi năm, khi đó bà mới 9 tuổi, bà đã từng giúp một cô bé nghèo khó trong lúc cần thiết. Cô bé nghèo ấy đã lớn lên, và trở thành một người phụ nữ trung lưu, có chồng và hai con. Bà ấy vừa qua đời cách đây không lâu, và trong di chúc, bà ấy để lại cho người đàn bà giàu có này một thứ.
Ông luật sư nói, “Và, đây là vật thật khác thường. Bà ta để lại cho bà một chiếc mền và một chiếc gối.”
Suy gẫm
Trong cuộc sống có những tình yêu thương mà chúng ta khi nghe đến thật sự cảm động. Nhưng có một tình yêu lớn hơn tất cả những tình yêu đó: Đó là tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta, Ngài luôn muốn ban cho chúng ta mọi điều tốt nhất, thậm chí Ngài sẵn sàng ban Con một của Ngài, chết trên cây thập tự giá để chuộc tội cho chúng ta.
Chúng ta đã chia sẻ tình yêu thương ấy như thế nào giữa cộng đồng mà chúng ta đang sống?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 13:34
Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy.
**
Tảng đá trong hố cát
Vào một buổi sáng thứ bảy nọ, có một cậu bé đang ngồi đùa nghịch với hố cát của cậu. Cậu cũng đem theo với mình những chiếc hộp khác đựng các món đồ chơi như xe hơi và xe tải, chiếc xô bằng nhựa, và một cái xẻng cũng bằng nhựa màu đỏ mới tinh. Trong lúc đang cố gắng tạo các đường bộ và đường hầm cho xe chạy, cậu bé phát hiện ra một tảng đá lớn nằm giữa hố cát.
Cậu bé đào bới chung quanh tảng đá, cố gắng làm sao đem nó ra khỏi hố cát. Rồi khi đào xong, không chút do dự, cậu bé đẩy tảng đá, dùng chân mình đẩy nó lên khỏi hố cát (cậu bé thì nhỏ, còn tảng đá thì lại quá lớn so với cậu). Tuy nhiên, khi nâng được tảng đá lên đến miệng hố thì cậu bé nhận ra rằng cậu không thể lăn nó ra khỏi hố được.
Không chịu thua, cậu bé tiếp tục tìm cách xô đẩy tảng đá, mỗi lần đẩy ra được một chút, cậu bé hi vọng rằng lần này sẽ khá hơn lần trước, thì y như rằng tảng đá lại lật nghiêng và rơi trở lại hố cát.
Cậu bé càu nhàu, cố gắng hết sức để đẩy tảng đá ra khỏi hố cát. Nhưng kết quả cho những cố gắng của cậu là tảng đá lăn trở lại hố cát, và đập vào những ngón tay nhỏ xíu, mũm mĩm của cậu. Cuối cùng cậu bé òa khóc.
Đương lúc đó, từ trong phòng khách, cha của cậu bé đã quan sát hết đầu đuôi mọi việc cậu con trai mình làm. Khi cậu bé òa khóc, thì bỗng có một cái bóng lớn đổ dài, che phủ cậu bé và chiếc hố cát. Đó chính là cha của cậu.
Nhẹ nhàng nhưng nghiêm nghị, người cha hỏi con trai mình, “Con ơi, tại sao con không dùng tất cả sức mạnh mà con có?”
Với vẻ thất bại, cậu bé vừa quay lại nhìn cha vừa khóc nức nở, “Con đã làm hết sức rồi đó chứ, con đã làm rồi mà ba. Con đã dùng hết tất cả sức mạnh mà con có!”
“Không phải đâu con,” người cha từ tốn trả lời, “con chưa dùng hết tất cả sức mạnh mà con có đâu. Con chưa có nhờ ba làm việc này giúp con mà.”
Và người cha cuối xuống, khiêng tảng đá và nhẹ nhàng đem nó lên khỏi hố cát.
Suy gẫm
Trong cuộc sống của mỗi người, có rất nhiều những tảng đá: những khó khăn về việc làm, thiếu thốn về kinh tế, bệnh tật, vấn đề tình cảm, sự mất mát những người thân…Đó là những tảng đá, những gánh nặng mà chúng ta nhiều lần tự mình cố gắng vượt qua, cố gắng đẩy ra khỏi đời sống mình. Và cũng nhiều lần chúng ta đã thất bại, bế tắc, tuyệt vọng và nghĩ rằng đã hết cách. Nhưng chúng ta quên rằng mình còn có một nguồn sức mạnh vô biên: Cha chúng ta là Đấng luôn nhìn thấy và chờ đợi những đứa con đến nhờ cậy Ngài.
Bạn đã nhờ cậy nguồn sức mạnh vô biên từ Cha mình chưa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Thi 28:7
Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là cái khiên của tôi; Lòng tôi đã nhờ cậy nơi Ngài, và tôi được cứu tiếp; Vì vậy, lòng tôi rất mừng rỡ, Tôi sẽ lấy bài ca mà ngợi khen Ngài.
**
Đứa trẻ lớp ba giải thích về Đức Chúa Trời
Đây là bài viết bởi cậu bé Danny Dutton, 8 tuổi, sống ở Chula Vista, California, là bài tập về nhà của cậu bé khi đang học lớp 3 với chủ đề “Hãy giải thích em hiểu thế nào về Đức Chúa Trời”.
“Một trong những nghề nghiệp chính của Đức Chúa Trời là tạo dựng nên con người. Chúa tạo nên con người mới để thay thế cho những người qua đời, vì thế mới có đủ người để chăm sóc và quản trị hết mọi việc trên trái đất này. Chúa không tạo ra những người lớn ngay, nhưng Ngài tạo ra con nít trước. Em nghĩ có thể con nít nhỏ hơn nên dễ dàng tạo ra hơn. Bằng cách đó, Chúa không cần phải dành thời gian quý báu của Ngài để dạy chúng nói chuyện và tập đi. Chúa chỉ cần giao con nít cho những bố mẹ của chúng mà thôi.
Công việc quan trọng thứ hai của Chúa là lắng nghe lời cầu nguyện. Một số lượng lời cầu nguyện lớn kinh khủng vẫn liên tục gửi đi, vì có rất nhiều người cầu nguyện, ví dụ như có rất nhiều người cầu nguyện vào trước giờ đi ngủ. Chính vì vậy mà Chúa chẳng có thời gian để nghe radio hay xem tivi. Bởi vì khi Ngài nghe hết mọi thứ, chắc rằng Chúa nghe ồn ào kinh khủng, trừ khi Ngài nghĩ ra cách nào để tắt nó đi thôi. Chúa nhìn thấy mọi việc, nghe thấy mọi sự và Ngài ở khắp mọi nơi, vì thế Ngài bận rộn lắm. Do đó, bạn không nên làm tốn thời gian của Ngài, bằng cách bạn không nên đến và đòi ba mẹ những gì mà ba mẹ bảo là họ không thể có.
Những người vô thần thì không tin vào Chúa. Em không nghĩ rằng có người vô thần nào ở Chula Vista đâu. Ít nhất là không có ai vô thần ở nhà thờ của em. Chúa Jesus là Con của Đức Chúa Trời. Hồi trước, Ngài vẫn hay làm những việc rất khó khăn, giống như đi trên mặt nước, làm phép lạ và cố gắng dạy dỗ những người không muốn học về Đức Chúa Trời. Cuối cùng, họ thấy bắt mệt về những bài giảng của Chúa Jesus, và thế là họ đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Nhưng Chúa Jesus cũng tốt và tử tế y như Cha của Ngài, và Ngài nói với Cha rằng mấy người đó chẳng biết họ đang làm gì đâu, xin hãy tha thứ cho họ, và Đức Chúa Trời nói là OK.
Cha của Chúa Jesus rất vui lòng về Ngài, về tất cả những công việc khó nhọc mà Chúa Jesus làm trên đất, cho nên Cha Ngài nói với Chúa Jesus rằng Ngài không cần phải xuống trần gian nữa, Ngài có thể ở trên Thiên Đàng với Cha. Vậy nên Ngài vâng lời. Bây giờ, Ngài đang giúp Cha nghe những lời cầu nguyện, rồi xem xét xem việc nào quan trọng thì để Cha Ngài giải quyết, còn việc nào Ngài có thể giải quyết một mình thì Ngài sẽ phụ Cha mình. Chúa Jesus giống như thư ký, nhưng chỉ có điều Ngài quan trọng hơn nhiều. Bạn có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào bạn muốn, chắc chắn Đức Chúa Trời và Chúa Jesus sẽ nghe, bởi vì bây giờ Chúa Jesus và Cha của Ngài đã phân chia công việc, nên khi nào cũng có người sẵn sàng ở đó nghe lời cầu nguyện cả.
Bạn nên luôn luôn đến nhà thờ vào ngày Chúa nhật, bởi vì điều đó làm cho Chúa vui lòng, và người đầu tiên mà bạn nên đem đến niềm vui vẻ hạnh phúc, chính là Chúa. Đừng bỏ đi nhà thờ để làm những việc khác mà bạn nghĩ la sẽ vui hơn, giống như đi biển chơi. Điều này là sai đấy! Và, dù sao thì ngoài biển, mặt trời cũng không lên cao cho đến buổi trưa, bạn có thể đi biển sau giờ nhóm mà.
Nếu bạn không tin vào Đức Chúa Trời, ngoài việc bạn là một người vô thần, bạn sẽ còn cảm thấy cô đơn, bởi vì ba mẹ bạn không thể đi với bạn ở khắp mọi nơi, chẳng hạn như khi đi cắm trại, nhưng mà Chúa thì có thể ở với bạn mọi lúc mọi nơi. Thật tốt khi mình biết rằng Chúa đang ở với mình, nhất là khi bạn sợ bóng tối, hay khi bạn không thể bơi giỏi và bạn sợ bị chìm khi bị mấy đứa con nít bự con hơn kéo ra chỗ sâu. Nhưng bạn không nên luôn luôn nghĩ về những việc Chúa sẽ làm gì cho mình, nhưng mình phải vâng lời Chúa nữa.
Em hình dung rằng Chúa đặt em ở đây, nhưng Ngài cũng có quyền đem em đi bất cứ lúc nào Ngài muốn.
Và vì thế nên em tin cậy hoàn toàn nơi Chúa.”
Suy gẫm
Trẻ em có đức tin rất đơn sơ. Tuy rằng sự hiểu biết của trẻ còn đơn giản và nhiều giới hạn, nhưng Chúa Jesus đã phán rằng nước Thiên đàng sẽ thuộc về những kẻ có niềm tin đơn sơ như con trẻ vậy.
Ngày nay, sống trong một xã hội tội lỗi và nhiều cạm bẫy, Lời Chúa sẽ gìn giữ con trẻ, nuôi chúng lớn lên và bước đi trong đường lối thánh khiết của Ngài. Hãy dạy dỗ con trẻ Lời Chúa và cầu thay cho chúng luôn.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Châm-ngôn 22:6
Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; Dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó.
**
Huyết của Chúa Jesus
Một đêm nọ, trong buổi truyền giảng tại nhà thờ, có một phụ nữ trẻ được sự cảm động của Chúa và đã bằng lòng tin nhận Ngài. Người phụ nữ đó có một quá khứ thật xấu xa. Cô đã từng nghiện rượu, ma túy và làm nghề mãi dâm. Nhưng nay, đời sống cô đã có những thay đổi rất rõ rệt.
Thời gian trôi qua, cô trở nên một tín đồ rất mạnh mẽ trong hội thánh. Cô tham gia vào công việc hầu việc Chúa, dạy dỗ lời Chúa cho các em nhi đồng. Không lâu sau đó, cô được người con trai của vị mục sư chủ tọa hội thánh để ý. Mối quan hệ của họ dần dần phát triển, và rồi đến lúc họ chuẩn bị để làm lễ cưới. Và đây chính là lúc nhiều vấn đề nảy sinh. Một nửa hội thánh không đồng ý cho một cô gái có quá khứ đen tối như cô trở thành vợ của con trai một mục sư. Hội thánh bắt đầu nảy sinh nhiều bất đồng quan điểm và tranh cãi về việc này.
Cuối cùng, họ quyết định họp nhau lại để bàn về vấn đề này.
Vì mọi người cứ tranh cãi và không khí càng lúc càng căng thẳng, cuộc họp dường như chẳng đi đến đâu. Cô gái nọ buồn quá đỗi khi mọi chuyện xấu xa trong quá khứ của mình bị mọi người đem ra bàn bạc.
Cô bật khóc. Người con trai của vị mục sư đứng lên, anh bắt đầu nói chuyện với mọi người. Anh không thể chịu đựng được sự đau đớn mà vợ chưa cưới của mình đang phải chịu đựng. Anh nói “Thưa quý ông bà anh chị em, thật ra quá khứ của cô ấy không phải là việc mà quí vị đang xem xét và bàn luận ở đây, mà bây giờ quý vị đang tranh cãi và bàn luận trên khả năng bôi xóa tội lỗi của huyết Chúa Jesus. Ngày hôm nay, quý vị đã nghi ngờ quyền năng tha tội của huyết báu mà Chúa Jesus đã đổ ra vì chúng ta. Vậy thì, huyết của Ngài có quyền bôi xóa hết tội lỗi chúng ta hay không?”
Cả hội thánh bắt đầu khóc khi họ nhận ra họ đang chối bỏ quyền năng huyết báu của Chúa Jesus, con Đức Chúa Trời.
Và ngày nay, các con cái Chúa cũng thường đem những quá khứ của anh em mình để chống lại họ.
Suy gẫm
Tha thứ là một nền tảng quan trọng trong Phúc Âm mà Chúa Jesus đã ban cho chúng ta. Nếu huyết Ngài không thể xóa sạch mọi tội lỗi của người khác, thì huyết ấy cũng không thể nào xóa sạch tội lỗi của chúng ta. Nếu như đây là sự thật, thì tất cả chúng ta đang ở trong sự hoạn nạn lớn.
Điều gì có thể xóa sạch mọi tội lỗi của chúng ta? Không có gì khác hơn, chỉ do huyết của Chúa Jesus mà thôi. Bạn có tin điều ấy không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IGi 1:7
huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta.
**
Trạm cứu sinh
Ở một vùng biển nọ, tàu thuyền thường xuyên bị đắm do địa hình vùng biển này rất nguy hiểm. Do đó, trên bờ biển, người ta dựng lên một trạm cứu sinh nhỏ. Trạm được dựng rất thô sơ, chỉ là một túp lều nhỏ với duy nhất một chiếc thuyền; tuy nhiên, có một số người tình nguyện tận tâm tham gia đội cứu nạn, họ thường xuyên theo dõi tàu bè ngoài biển để kịp thời cứu cấp khi cần. Những người này rất can đảm, họ làm việc ngày đêm không hề mệt mỏi, cố tìm kiếm những người bị đắm tàu, thậm chí họ liều mạng sống mình để cứu người.
Một số người được cứu rất cảm kích, và những người chung quanh vùng đó cũng thấy được ích lợi và ý nghĩa của trạm cứu sinh, họ mới suy nghĩ và muốn lập nên một đội cứu nạn có tổ chức hơn. Thế là họ cùng nhau bỏ thời gian, tiền bạc, và công sức để cộng tác trong công việc. Họ mua thêm nhiều tàu cứu nạn mới, và những thành viên trong đội cứu nạn được đào tạo chuyên nghiệp hơn. Bây giờ, một trạm cứu nạn nhỏ thật sự đã được thành lập.
Một vài thành viên mới trong đội cứu nạn cảm thấy không hài lòng lắm với căn nhà nhỏ bé và thiết bị nghèo nàn. Họ cảm thấy cần phải xây một cơ sở tốt và tiện nghi hơn, nhằm làm nơi trú thân cho những nạn nhân vừa được cứu khỏi chết đuối từ biển. Họ thay thế những cái võng cấp cứu thô sơ bằng giường thật tươm tất, và đồ đạc tiện nghi hơn được trang bị cho cơ sở mới — vốn đã được mở rộng hơn. Giờ đây, trạm cứu sinh trở nên một địa điểm quen thuộc cho mọi thành viên trong đội cùng hội họp lại với nhau, và họ trang trí chỗ này nên thật đẹp mắt, thanh nhã, và bây giờ, nơi đây gần giống với một câu lạc bộ vậy.
Một số thành viên của đội cứu sinh không còn hứng thú với việc ra biển để cứu người chết đuối nữa, cho nên họ giấu bớt những chiếc thuyền cứu sinh đi. Tuy nhiên mục đích cứu người gặp nạn trên biển vẫn được mọi người nhớ đến, vì thế, trong phòng họp của trạm cứu sinh, một chiếc thuyền cứu nạn được đặt trang trọng như một kỷ niệm.
Vào thời điểm này, một chiếc tàu lớn gặp nạn và bị đắm ở vùng biển này, thủy thủ đoàn được cứu lên khi tất cả bọn họ vừa lạnh run, vừa ướt nhẹp và gần chết đuối tới nơi. Họ dơ bẩn và rất yếu, trong số họ có một số người nước ngoài nữa. Câu lạc bộ đẹp đẽ, mới xây dựng của trạm cứu nạn lúc này trở nên vô cùng hỗn loạn. Ngay lập tức, hội đồng cứu nạn liền thuê người để dựng ngay một nhà tắm tạm ở bên ngoài cơ sở, và thủy thủ đoàn của chiếc tàu gặp nạn nọ được yêu cầu tắm sạch sẽ trước khi được chuyển vào bên trong trạm cứu nạn.
Trong buổi họp sau đó, thành viên của câu lạc bộ chia thành hai phe. Đa số thành viên của hội muốn chấm dứt những hoạt động cứu nạn của hội, bởi vì họ cảm thấy rất khó chịu, nó như một cản trở cho sinh hoạt cũng như cuộc sống thường nhật của câu lạc bộ. Một số nhỏ thành viên thì nhất định phải duy trì hoạt động cứu nạn vì đó chính là mục đích ban đầu của câu lạc bộ, và họ chỉ ra rằng họ được kêu gọi để dựng một trạm cứu nạn chứ không phải một câu lạc bộ. Cuối cùng, mọi người quyết định bỏ phiếu để thống nhất ý kiến. Nhóm nhỏ các thành viên muốn duy trì việc cứu nạn bị thất thế, những người khác bảo rằng nếu nhóm này muốn cứu nạn nhân đắm tàu, họ có thể bắt đầu dựng một trạm cứu sinh một nơi khác gần bờ biển.
Họ đã làm như vậy.
Tuy nhiên, sau nhiều năm trôi qua, trạm cứu sinh mới này cũng bị xảy ra trường hợp thay đổi tương tự như đã từng trước đây. Trạm này bắt đầu thành lập một câu lạc bộ, rồi trở thành một câu lạc bộ, và rồi một trạm cứu sinh khác xuất hiện. Lịch sử được lặp lại nhiều lần… và hôm nay, nếu bạn đến thăm bờ biển đó, bạn sẽ thấy hàng dãy câu lạc bộ dọc bờ biển.
Tàu thuyền vẫn thường xuyên bị đắm ở vùng biển đó, nhưng đa số hành khách đều chết đuối cả.
Suy gẫm
Là những môn đồ của Chúa Jêsus, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là ra đi và đem người khác trở về với Chúa, biến đổi họ trở nên môn đồ Ngài. Nói cách khác, chúng ta phải ra đi và cứu người. Tuy vậy, nhiều lúc chúng ta bận rộn với những công việc tổ chức, với các chương trình, kế hoạch tự đề ra, hay có khi chúng ta tự thỏa lòng với cuộc sống bình yên hiện tại, để quên mất mục đích chính mà Chúa đặt để trên cuộc đời mình.
Bạn có đang bận rộn quá đến nỗi quên mất mục đích và những hứa nguyện của mình chăng?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 28:19-20
19 Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhơn danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp tem cho họ, 20 và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.
**
Tôi yêu người thu lượm rác nầy biết bao!
Tôi đã làm công việc này quá lâu rồi. Và tôi đoán mọi chuyện càng ngày càng xấu đi… Tôi không dám nói rằng mình làm công việc gì khó khăn cho lắm, nhưng việc đại diện cho chính phủ liên bang, đi từ nhà này sang nhà khác để hỏi những câu hỏi thì rõ ràng không phải là công việc đáng để thỏa lòng rồi.
Lúc này đang là tháng tám. Trời nóng nực vô cùng. Và tôi lại phải đeo cà-vạt.
“Xin chào, tôi là Bob Perks, chúng tôi hiện đang làm một cuộc thăm dò trong vùng này…”
“Xin lỗi, tôi không có thời gian! Chào ông!” … Và “rầm”, cửa đóng lại ngay trước mặt tôi, theo sau là tiếng khóa cửa lách cách.
Bạn không thể tưởng tượng được bao nhiêu lần tôi nghe câu trả lời đó, và được đón tiếp theo cách đó. Cuối cùng, tôi hiểu ra vấn đề, và lần này, tôi thay đổi câu chào như vầy, “Trước khi cô đóng cửa, tôi xin giới thiệu, tôi không đến để bán thứ gì cả, mà tôi chỉ muốn hỏi một vài câu hỏi về bản thân cô và cộng đồng quanh đây mà thôi.”
Một phụ nữ trẻ đứng trước cửa, dừng lại một chút, nhướng mắt lên có vẻ bối rối khi nghe tôi giới thiệu như vậy.
“Chắc chắn rồi, mời ông vào. Xin lỗi vì nhà hơi bừa bộn… Ông biết đó, với đám trẻ nhà tôi thì ít khi nào mà nhà cửa gọn gàng cho được.”
Đây là một căn nhà cũ hơn so với nhà cửa trong vùng thung lũng này, nơi này là khu vực mà những người có thu nhập không cao có thể kiếm được một nơi trú thân tàm tạm. Với một vài vật dụng đơn sơ, căn nhà này có vẻ ấm cúng và thoải mái.
“Tôi chỉ muốn hỏi thăm một vài câu hỏi ngắn về bản thân cô và gia đình. Mặc dù câu hỏi có vẻ hơi riêng tư một chút, nhưng tôi sẽ không đề cập đến tên của cô. Những thông tin này được dùng để…”
Cô ta cắt ngang lời tôi, “Ông dùng một cốc nước lạnh nhé? Có vẻ như ông đã trải qua một ngày nhọc nhằn.”
“Ồ vâng, cám ơn cô.” Tôi trả lời vồn vã.
Vừa khi cô trở lại phòng khách với ly nước, một người đàn ông bước vào nhà. Đó là người chồng của cô.
“Joe à, ông đây đến để làm một cuộc thăm dò.”
Tôi đứng dậy và lịch sự giới thiệu mình.
Joe cao và gầy còm. Khuôn mặt anh lộ vẻ khắc khổ và từng trải, mặc dù tôi đoán anh chắc đang trong độ tuổi hai mươi mấy mà thôi. Bàn tay anh chai sần, đó là bàn tay của người lao động chứ không phải người cầm bút viết nơi bàn giấy.
Cô vợ nghiêng người và hôn nhẹ vào má anh. Khi họ nhìn nhau, bạn có thể nhìn thấy tình yêu đầy tràn đã gắn kết họ với nhau. Cô vợ mỉm cười, nghiêng đầu dựa vào vai chồng. Anh vuốt má vợ yêu thương và nói nhỏ, “Anh yêu em!”
Họ có thể không có một cuộc sống giàu có, nhưng hai vợ chồng này giàu có hơn hầu hết những người tôi từng biết. Họ đang sở hữu một tình yêu mạnh mẽ. Loại tình yêu này có thể giúp bạn đứng vững vàng trước những thử thách làm chao đảo cuộc đời.
“Joe đang làm việc cho thị trấn này.” Cô vợ nói với tôi.
“Anh đang làm gì vậy?” Tôi hỏi.
Cô vợ trả lời ngay mà không để Joe nói, “Joe thu lượm rác trong thị trấn này. Ông biết không, tôi tự hào về anh ấy lắm.”
“Em à, anh chắc rằng ông đây không muốn nghe về điều đó đâu,” Joe nói.
“Ồ không, tôi thật sự rất muốn nghe,” tôi nói.
“Ông biết không Bob, Joe là người thu rác giỏi nhất trong thị trấn này. Anh ấy có thể thu rác vào đầy xe tải, nhiều hơn bất cứ người nào khác đấy. Anh ấy có thể nén rác vào xe tải rất nhiều, để người ta khỏi phải chạy xe nhiều vòng để thu rác.” Cô nói những điều đó với tất cả niềm say mê.
“Trong những chuyến xe rác đường dài, làm như vậy tôi đã có thể tiết kiệm tiền cho thị trấn. Tiền nhân công sẽ giảm bớt, và tiền xăng xe tải cũng giảm nữa.” Joe nói tiếp lời vợ.
Có một khoảng lặng giữa chúng tôi. Tôi không biết phải nói gì cả. Tôi gật gật đầu và cố tìm ra từ nào để nói cho phải nhất.
“Thật tuyệt vời! Đa số người ta phàn nàn về công việc như vậy. Đây chắc chắn là một công việc không hề dễ dàng. Nhưng thái độ của anh đối với công việc thật đáng khâm phục.” Tôi nói.
Vợ Joe đi đến chiếc kệ bên cạnh đi-văng. Khi trở lại, trên tay cô cầm một mảnh giấy nhỏ được lộng trong khung.
“Khi chúng tôi có đứa con thứ ba thì Joe bị mất việc. Chúng tôi sống trong hoàn cảnh thất nghiệp một thời gian, cuối cùng thì phải nhận trợ cấp thất nghiệp. Anh Joe không thể kiếm được việc ở bất kỳ đâu. Rồi một ngày kia, anh được giới thiệu đi phỏng vấn ở khu phố này. Họ đề nghị công việc mà anh đang làm hiện tại đây. Hôm đó, ảnh về nhà buồn bã và xấu hổ lắm. Ảnh kể cho tôi nghe, và nói rằng đây là điều tốt nhất mà ảnh có thể làm được. Thật ra, lương ở đây còn ít hơn cả tiền trợ cấp thất nghiệp của chúng tôi nữa.”
Cô dừng lại một chút, và đi đến bên Joe.
“Tôi đã luôn luôn tự hào về ảnh, và sẽ luôn luôn như vậy. Ông thấy đó, tôi không nghĩ nghề nghiệp tạo nên con người. Tôi tin rằng chính con người tạo nên công việc.”
Joe nói, “Chúng tôi cần sống trong thị trấn này để làm việc ở đây, vậy nên chúng tôi thuê căn nhà này.”
“Khi chúng tôi chuyển đến đây, câu này đã được treo trên tường, ngay bên trong cánh cửa chính. Nó đã thay đổi chúng tôi hoàn toàn, Bob ạ. Tôi biết rằng Joe đang làm một việc đúng.” Cô vợ tiếp lời chồng và đưa cho tôi cái khung nhỏ.
Nó viết như vầy: “Nếu một người được kêu gọi trở nên một người phu quét đường, anh ta nên quét đường như thể Michelangelo vẽ tranh hay Beethoven soạn nhạc, hoặc là Shakespeart sáng tác thơ vậy. Anh ta nên quét đường thật sạch đến nỗi Chúa của đất trời này sẽ dừng lại và nói, “Ở đây có một người phu quét đường vĩ đại, đã làm công việc mình thật tốt!” – Martin Luther King
“Tôi yêu anh ấy vì chính anh mà thôi. Bởi những gì anh làm, thì anh ấy làm tốt nhất có thể được. Tôi yêu người thu lượm rác này biết bao!”
Suy gẫm
Câu chuyện của Bob Perks đề cập đến tình yêu của người vợ một công nhân vệ sinh – cô vẫn luôn yêu thương, an ủi, khích lệ chồng mình, dù hoàn cảnh cuộc sống thay đổi tồi tệ thể nào. Thay vì cằn nhằn, trách móc, cay cú hay than thở vì chồng thất nghiệp, cô đã bày tỏ tình yêu, niềm tin và niềm tự hào về người chồng cách trọn vẹn. Đó chính là nguồn động viên, khích lệ lớn cho anh, và nó cũng cho thấy giá trị cuộc sống và tình yêu của cô không đặt trên nền tảng mà con người thường dựa vào.
Chúa muốn chúng ta sống, là nguồn gây dựng, khích lệ và ích lợi cho người khác, bày tỏ qua tình yêu thương mà Ngài đặt để trong mỗi chúng ta.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Galati 5:22
Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ.
**
Câu chuyện về con bướm
Có một người đàn ông nọ, trong một lần tình cờ, phát hiện ra được chiếc kén của một con bướm. Vào một ngày nọ, có một lỗ nhỏ vừa xuất hiện trên chiếc kén. Người đàn ông ngồi quan sát con bướm đang vẫy vùng, cố gắng đẩy cơ thể nó lọt ra khỏi cái lỗ bé tí nọ trên chiếc kén trong rất nhiều giờ đồng hồ. Sau đó anh thấy dường như con bướm dừng lại, không còn cố gắng chui ra khỏi chiếc kén nữa. Hình như con bướm đã cố gắng hết sức của nó rồi và nó không thể nào chui ra khỏi chiếc kén được.
Thấy vậy, người đàn ông quyết định giúp con bướm. Anh ta lấy một chiếc kéo và cắt phần còn lại của chiếc kén. Con bướm chui ra khỏi chiếc kén một cách dễ dàng. Nhưng nó chui ra khỏi chiếc kén với một thân hình phồng to và đôi cánh nhỏ tí, nhăn nheo.
Người đàn ông tiếp tục quan sát con bướm với hi vọng trong chốc lát, đôi cánh của con bướm sẽ to ra đủ sức để nâng cơ thể lên, lúc đó đã thu nhỏ lại. Và điều này chẳng bao giờ xảy ra! Thực tế, con bướm đã phải sống khoảng đời còn lại của nó bằng cách bò xung quanh với đôi cánh nhăn nheo. Nó chẳng bao giờ bay lên được.
Người đàn ông với tấm lòng nhân từ và một sự hấp tấp, đã không hiểu được rằng sự bó buộc bởi chiếc kén cũng như sự cố gắng mà con bướm cần phải có để chui ra khỏi kén qua một lỗ nhỏ trên chiếc kén là cách mà Chúa dùng để đẩy những chất lỏng từ cơ thể con bướm vào đôi cánh bé nhỏ của nó để nó có thể sẵn sàng bay lên một khi nó chui được ra khỏi chiếc kén.
Suy gẫm
Thỉnh thoảng, những thử thách là những điều mà chúng ta cần trong đời sống mình. Nếu Chúa cho phép bạn trải qua cuộc sống này mà không gặp phải khó khăn nào, thì có thể chính điều đó sẽ làm hư hại cuộc sống của chính bạn. Và có lẽ bạn sẽ không mạnh mẽ như là bạn của hiện tại. Và bạn cũng không thể nào bay trong cuộc đời được.
Bạn đang đối diện như thế nào với những thử thách trong cuộc đời của mình?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gia Gc 1:2-4
2 Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, 3 vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục. 4 Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào.
Sưu tầm
“Những khó khăn, thử thách mà bạn đối diện hoặc sẽ làm bạn thất bại, hoặc sẽ giúp bạn trưởng thành hơn, điều đó chỉ tùy thuộc vào cách bạn phản ứng với những thử thách đến với mình.
Nhưng thật đáng tiếc, hầu hết mọi người đều không nhận biết được mục đích tốt đẹp mà Chúa muốn dùng những thử thách đó để đem lại điều tốt đẹp cho cuộc sống của chúng ta….”
**
Một đồng xu
Vài năm về trước, một người bạn của tôi cùng chồng được mời đến nghỉ cuối tuần tại nhà người chủ chồng của cô. Bạn tôi, Arlene, thật sự bối rối về lời mời.
Người chủ của chồng cô rất giàu có, ông có một ngôi nhà rất đẹp ở gần biển, và những chiếc xe của ông thì đáng giá hơn cả căn nha của vợ chồng cô.
Ngày đầu tiên và buổi tối hôm đó trôi qua thật tuyệt vời. Arlene quá đỗi vui sướng vì hiếm khi cô mới được tận mắt chứng kiến cuộc sống giàu có là thế nào.
Người chủ có vẻ là người rất rộng rãi và hào phóng, ông dẫn họ đến những nhà hàng sang trọng vào bậc nhất trong vùng. Arlene biết là cô sẽ chẳng bao giờ có cơ hội để được kinh nghiệm cuộc sống thoải mái như vậy một lần nữa, thế nên cô tận hưởng từng phút giây ở đó.
Khi cả ba đang chuẩn bị bước vào một nhà hàng tiếng tăm vào tối đó, người chủ bước lên đi truớc Arlene và chồng cô một chút. Bỗng nhiên, ông dừng lại đột ngột và nhìn xuống đất một lúc lâu… Một khoảng thời gian im lặng trôi qua… Arlene tự hỏi trong lòng không biết cô có nên bước lên trước ông không. Thật ra thì chẳng có gì dưới đất ngoại trừ một đồng xu đen xì đã bị ai đó đánh rơi và một vài mẩu thuốc lá. Vẫn im lặng, người chủ cúi xuống và nhặt lấy đồng xu. Ông lật nó lên và mỉm cười, sau đó bỏ vào túi như thể ông vừa tìm thấy một kho báu thật quý giá.
Thật vô lý! Điều gì khiến người đàn ông này cần đến một đồng xu như vậy? Tại sao ông ta lại tốn thì giờ để dừng lại và nhặt nó lên?
Những gì vừa xảy ra đã chi phối Arlene suốt buổi tối hôm đó. Cuối cùng, không thể chịu đựng được nữa, nên tìm cách hỏi ông về điều đó. Cô nhã nhặn đề cập đến chuyện đứa con gái mình có một bộ sưu tập tiền xu và hỏi người chủ không biết có phải đồng xu ông nhặt được có phải là một đồng xu có giá trị không?
Một nụ cười hé mở trên khuôn mặt của người đàn ông, ông bỏ tay vào túi lấy đồng xu ra đưa cho cô xem. Arlene đã từng thấy rất nhiều đồng xu trước đó. Nhưng cái đồng xu nhỏ xíu này có cái gì đặc biệt đâu?
Ông nói: “Cô hãy nhìn nó. Đọc xem nó nói điều gì?”
Cô đọc từng chữ, “Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.”
” Không, không phải chữ đó! Cô đọc tiếp đi.”
” Một xu?”
“Không phải. Cô hãy đọc tiếp.”
“Trong Chúa, chúng ta trông cậy.” (In God We Trust)
“Đúng rồi đấy.”
“Vậy có nghĩa gì, thưa ông?”
“Và nếu tôi tin cậy Đức Chúa Trời, tên của Ngài là Thánh, và ngay cả trên một đồng tiền. Bất cứ khi nào tôi nhìn thấy một đồng xu, tôi đều nhìn câu khắc trên nó. Nó được ghi trên từng đồng xu của Mỹ, nhưng chúng ta dường như không bao giờ để ý nó. Chúa để một thông điệp ngay trước mặt tôi để nhắc nhở tôi phải tin cậy Ngài. Tôi là ai mà dám bỏ qua điều Chúa dạy?
Khi tôi nhìn thấy một đồng xu, tôi thầm nguyện với Chúa, tôi dừng lại để ngẫm xem, ngay lúc này, niềm trông cậy của tôi có ở nơi Chúa không? Rồi tôi nhặt đồng xu lên như một sự trả lời với Ngài rằng tôi thật sự tin cậy nơi Ngài. Trong một lúc ngắn ngủi, ít nhất, tôi cũng yêu mến nó như thể nó làm bằng vàng vậy.
Tôi nghĩ đó là cách Chúa dùng để bắt đầu trò chuyện với tôi. Thật may mắn cho tôi, Chúa vẫn nhẫn nại chờ đợi và những đồng xu thật có ý nghĩa.”
Khi tôi đi đến cửa hàng để mua sắm, tôi tìm thấy một đồng xu trên vỉa hè. Tôi đã dừng lại, nhặt nó lên và tôi nhận ra mình đã lo lắng và buồn phiền về những điều mà tôi không thể thay đổi được. Tôi đã đọc những chữ “Trong Chúa, chúng ta trông cậy” và đã bật cười. Vâng, Chúa ôi, con đã nhận được thông điệp của Ngài. Dường như tôi đã tìm thấy vô số những đồng xu thật tầm thường trong những tháng qua, nhưng cho đến bây giờ, những đồng xu vẫn nhiều vô số kể! Và Chúa vẫn nhẫn nại… vẫn dùng những đồng xu để nhắc nhở chúng ta.
Ghi chú: Ở Mỹ, trên mỗi đồng xu đều có câu “In God We Trust”. Chữ “Trust” có nghĩa là tin cậy, trông cậy, tin tưởng, nó cũng có nghĩa là phó thác, giao phó. Người Mỹ chọn câu này làm câu khẩu hiểu quốc gia mình.
Suy gẫm
Chúa dùng nhiều cách để nhắc nhở chúng ta về lòng trông cậy mình với Ngài và sự thành tín của Ngài trên đời sống chúng ta. Trong câu chuyện hôm nay, có những người được Chúa nhắc nhở chỉ bằng một đồng xu.
Hãy nhạy bén với những thông điệp Chúa gửi đến chúng ta, bằng cách gần gũi trong mối tương giao với Ngài mỗi ngày.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ISa 3:3-4
Sa-mu-ên nằm ngủ trong đền thờ của Đức Giê-hô-va, là nơi có cái hòm thánh.
Bấy giờ, Đức Giê-hô-va gọi Sa-mu-ên; người thưa rằng: Có tôi đây!
**
Cây lo lắng
Người thợ mộc mà tôi thuê để giúp tôi sửa lại nhà kho cũ kỹ của tôi vừa kết thức một ngày làm việc đầu tiên đầy khó nhọc. Chiếc lốp xe bị xẹp làm ông ta mất toi 1 giờ làm việc, chiếc cưa điện lại bị hư… và bây giờ thì chiếc xe tải nhỏ cũ rích của ông lại không thể nào nổ máy được.
Trong lúc tôi chở ông về nhà, ông ngồi im bất động. Khi vừa đến nhà, ông mời tôi vào thăm gia đình ông. Khi chúng tôi tiến về cửa trước ngôi nhà, ông ta dừng lại bên một cây nhỏ, lấy hai tay chạm vào ngọn của những chiếc cành trên cây.
Khi mở cửa bước vào nhà, ông ta dường như đã trải qua một cuộc biến đổi kỳ lạ. Khuôn mặt rám nắng của ông trở nên rạng rỡ với nụ cười và ông giang tay ôm hai đứa con bé nhỏ của mình, ông hôn vợ mình thắm thiết.
Sau đó ông tiễn tôi ra xe. Khi chúng tôi đi ngang qua cái cây lúc nãy thì sự tò mò của tôi càng tăng thêm. Tôi hỏi ông về những gì mà ông đã làm trước đó.
“Ồ, đó là cái cây lo lắng của tôi,” ông trả lời. “Tôi biết là tôi không có cách nào để tránh khỏi gặp những điều phiền toái trong công việc, nhưng một điều tôi chắc chắn là những phiền toái đó không được có mặt trong ngôi nhà mà vợ con tôi đang sống. Vì thế, vào mỗi tối khi tôi trở về nhà, tôi đã treo những phiền toái đó trên cái cây này. Và sáng hôm sau tôi lại lấy những phiền toái đó.”
“Nhưng có một điều rất lạ là, ” ông ta cười, “vào mỗi buổi sáng khi tôi bước ra để lấy những phiền toái mà tôi treo trên đó tối qua, dường như trên cây không còn nhiều những phiền toái mà tôi nhớ tối qua tôi đã treo trên đó.”
Suy gẫm
Chúng ta không thể nào tránh được những lo lắng, phiền toái trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta cũng có một cây lo lắng để treo những phiền toái, lo lắng của mình. Đó chính là Chúa yêu thương của chúng ta. Ngài sẵn sàng gánh lấy, giải quyết hết những lo lắng phiền toái trong cuộc đời chúng ta.
Bạn có bằng lòng trao những lo lắng của mình lên cho Chúa không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IPhi 5:7
lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em. vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục.
**
Đức Chúa Trời thật tốt lành
Trong hội thánh chúng tôi nhóm lại, có một ông lão tên John, ông quả là người yêu mến Chúa trọn cuộc đời mình. Ông John thường hay đi vòng vòng và nói với mọi người, “Đức Chúa Trời rất tốt lành.” Ông cứ nhắc đi nhắc lại điều này, bất cứ lúc nào và bất cứ ở nơi đâu.
Khi ông lập gia đình, ông nói, “Đức Chúa Trời thật tốt lành.”
Rồi khi John bị mất việc làm, ông cũng nói, “Đức Chúa Trời rất tốt lành.”
Và cả khi cha của ông mất, ông cũng vẫn nói, “Chúa là tốt lành lắm thay.”
Vậy chắc các bạn đã hiểu vấn đề ở đây, rằng bất cứ chuyện gì John làm, bất cứ việc gì xảy ra cho ông, chúng tôi đều luôn luôn nghe ông nói, “Đức Chúa Trời tốt lành.”
Cách đây vài tháng, ông John đi khám bệnh và được chẩn đoán là ông bị ung thư. Căn bệnh lan nhanh trong cơ thể ông, và bác sĩ bảo ông chỉ còn sống được vài tuần nữa mà thôi. Ngay cả khi nằm trên giường bệnh chờ chết, mọi người trong bệnh viện vẫn nghe ông lặp đi lặp lại cái câu cửa miệng của mình, “Đức Chúa Trời thật tốt lành.”
Ông mục sư Charles – chủ tọa của hội thánh chúng tôi và ông John là bạn thân của nhau. Mục sư Charles đến bệnh viện thăm ông John mỗi ngày. Và cứ mỗi tối, trước khi mục sư Charles ra về, ông John sẽ nói với ông rằng, “Chúa thật tốt lành.”
Cuối cùng, sau nhiều tuần lễ phải chứng kiến sự đau đớn của người bạn thân yêu khi ông chiến đấu với căn bệnh hiểm nghèo này, mục sư Charles không thể chịu đựng được thêm nữa. Ông hỏi John, “John này, ông là bạn thân của tôi, và tôi rất thương ông. Tôi cũng yêu mến Chúa nhiều như chính ông yêu mến Ngài vậy. Và tôi đã nghe ông nói “Đức Chúa Trời tốt lành” suốt cả cuộc đời ông. Qua những ngày tháng tươi đẹp, tôi có thể hiểu ông nói Chúa tốt lành như thế nào. Hoặc ngay cả khi trải qua những ngày tháng khó khăn, tôi cũng vẫn hiểu Chúa tốt lành vì đã giúp ông vượt qua những hoàn cảnh đó. Nhưng bây giờ, ngay lúc này, ông đang nằm trên giường bệnh chờ chết, sao ông vẫn tỏ ra lạc quan quá vậy? Làm sao mà ông có thể nói “Đức Chúa Trời thật tốt lành” mỗi ngày, khi ông biết rằng Ngài đang để cho ông phải chết?”
Ông John chỉ nhìn ông bạn mục sư của mình và mỉm cười.
“Bạn thân mến, chẳng lẽ ông không thấy tất cả những lúc tôi nói rằng Đức Chúa Trời tốt lành, chính là một cách đơn giản để tôi có thể tôn vinh Danh Chúa sao? Hãy nhìn phần thưởng của tôi cho sự trung tín với Chúa, tôi đang đi đến sự chết. Ông bảo “Đức Chúa Trời để cho tôi phải chết”, cứ như đó là điều tồi tệ cho tôi vậy. Charles ơi, chẳng lẽ ông quên mất đó chính là cái đích mà chúng ta hướng đến không? Mục đích cuộc đời chúng ta là gì? Có phải để sống một cuộc đời cho Chúa, và rồi một ngày nào đó, sẽ được gặp mặt Chúa trên thiên đàng chăng? Hãy xem, ĐỨC CHÚA TRỜI THẬT QUÁ TỐT LÀNH! Cuối cùng, Ngài đã gọi tôi về nhà Ngài, và vài giờ nữa thôi, tôi sẽ ở với Chúa. Tôi không thể tưởng tượng được điều gì tốt đẹp, hạnh phúc hơn nữa.”
Ông John đã qua đời vào tối hôm đó trong giấc ngủ. Trong tang lễ của ông John, mục sư Charles đứng lên và chỉ nói hai điều, “Tôi sẽ luôn nhớ người bạn thân yêu của mình, nhưng tôi biết rằng rồi một ngày gần đây, tôi sẽ lại được gặp ông, và ĐỨC CHÚA TRỜI THẬT TỐT LÀNH THAY!”
Suy gẫm
Không thể phủ nhận rằng mỗi ngày chúng ta vẫn luôn cảm tạ Chúa và tôn vinh danh Ngài. Nhưng có thể những lời cảm tạ và ngợi khen được thốt ra phần nhiều là trong những lúc ta được Chúa ban phước, được giải cứu, được bình an, hay khi được hanh thông thuận tiện… Nhưng trong nghịch cảnh, đau thương, khó khăn, có lẽ lời tạ ơn hay tôn vinh Chúa thật hạn chế, hiếm hoi.
Hãy học hỏi để biết tôn vinh Chúa về mọi điều xảy đến trong cuộc đời chúng ta, vì biết rằng mọi việc xảy đến cho cuộc đời mình đều nằm trong chương trình tốt đẹp của Chúa, và phần thưởng cuối cùng nơi thiên đàng là lớn lắm…
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Ro 8:28
Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định.
**
Hãy trừ tôi ra!
“Ồ, tôi xin lỗi. Tôi không có ý làm bà chậm trễ đâu,” Ông nói khi đang cố gắng thoát ra khỏi cái thang cuốn đông nghẹt người.
Tôi cũng phải công nhận điều này. Nhiều khi mình cũng bực bội không thể chịu được khi đi bộ hay lái xe phía sau những người già. Tôi cũng gắt gỏng hoặc phóng vù qua họ, bởi tôi đang vội vã mà bị chặn phía trước như vậy. Có lẽ lúc này tôi nhận thấy điều đó rõ hơn, bởi vì tôi thấy mình rồi sẽ cũng như vậy một ngày không xa. Hôm nay, tôi thấy bản thân mình qua những bước chân chậm chạp của một ông già, bởi vì nó khiến tôi phải chậm lại, dừng bên và hỏi xin ông thứ lỗi cho.
Ông đang đi trước, cách tôi khoảng 5 hay 6 người. Tôi đang vội, và tôi thấy ông như một vật cản đường. Tôi từng nhìn thấy người ta bước ra khỏi cầu thang cuốn và dừng lại, lo sắp xếp đồ đạc gọn vào tay để xách đi, và rồi bất ngờ sẽ có một chuỗi bực dọc của những người phía sau lưng họ. Bạn không thể làm tắt đường của cái thang cuốn đầy người vốn đang xếp hàng sau lưng bạn. Giống như cái con thỏ quảng cáo pin Energizer vậy, nó luôn luôn hoạt động “liên tục, liên tục.”
Ông lão này thấy rõ cái “thử thách” của mình. Ông cố gắng và liều lĩnh bước qua một bên. Lóng ngóng với những cái bịch nhỏ trong tay, khổ sở để giữ thăng bằng, bạn có thể thấy được ông đang gặp khó khăn trong lúc này. “Tôi xin lỗi, thứ lỗi cho tôi nhé! Tôi không có ý cản trở đường của bà,” ông nói vậy khi cố gắng đứng nép vào một bên của chiếc thang cuốn.
Tôi chợt nhìn điều này một cách mới lạ. Nó giống như tôi đang nhìn thấy mình trong tương lai vậy. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho ông lão. Tôi cảm thấy bực mình và giận sôi trong bụng, bởi ông lão thì cứ luôn miện nói xi
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Phi 2:15
hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian;
**
Người giàu có nhất
Có một người chủ đất giàu có nọ, ông ta tên là Carl. Carl thường cưỡi ngựa đi dạo quanh trang trại rộng lớn của mình để tự tán thưởng về số tài sản kếch xù mà ông ta đang sở hữu. Vào một ngày nọ, trong lúc cưỡi con ngựa yêu quí nhất của mình dạo chơi quanh trang trại, Carl thấy Hans, một người nông dân làm thuê già cả, đang ngồi hát dưới gốc cây.
Khi Carl cưỡi ngựa đi ngang qua, Hans bảo “Tôi đang tạ ơn Chúa về những thức ăn mà Ngài ban cho tôi.” Carl nhìn Hans và chế nhạo “Nếu như đó là tất cả những gì mà ta phải ăn, ta sẽ chẳng thấy gì để mà tạ ơn cả.” Hans trả lời “Chúa ban cho tôi mọi đều tôi cần, và tôi tạ ơn Chúa về đều đó.”
Người nông dân già tiếp lời “Có một điều rất lạ là ông lại đến chổ tôi hôm nay bởi vì tối hôm qua tôi có một giấc mơ. Trong giấc mơ có một tiếng nói phán với tôi “Người giàu có nhất thung lũng này sẽ chết tối nay.” Tôi không biết điều đó có nghĩa gì nữa nhưng tôi nghĩ tôi nên nói cho ông hay” Carl chế nhạo “Những giấc mơ là những thứ nhãm nhí” và cưỡi ngựa rời khỏi chổ của Hans.
Nhưng Carl không thể nào quên được những gì mà lão nông dân già nua kia nói “Người giàu có nhất thung lũng này sẽ chết tối nay.” Rỏ ràng ông là người giàu có nhất trong thung lũng này, vì thế Carl lo sợ và cho mời vị bác sĩ của ông đến nhà vào tối hôm đó. Ông chủ đất giàu có kể cho vị bác sĩ nghe mọi điều mà Hans đã nói với ông. Sau khi kiểm tra tổng quát sức khỏe của Carl, vị bác sĩ nói “Carl, ông giàu có và khỏe như voi thế này thì làm sao mà chết tối nay được.”
Tuy nhiên, để chắc ăn, vị bác sĩ đã ở lại với Carl và họ chơi bài với nhau suốt đêm đó. Sáng hôm sau, vị bác sĩ rời nhà Carl, Carl đã xin lỗi vì làm phiền bác sĩ vì giấc mơ vớ vẫn của lão nông dân già.
Vào lúc 9 giờ sáng hôm đó, một người đưa tin đã gỏ cửa nhà Carl.
“Chuyện gì vậy?” Carl quát hỏi
Người đưa tin giải thích “Ông già Hans ấy mà! Ông ta vừa qua đời tối qua khi ông đang ngủ”
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ISa 16:7
Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng.
**
Đôi bàn tay
Một người đàn ông có đến hơn 90 tuổi đang ngồi một cách yếu ớt trên băng ghế công viên. Ông không hề nhúc chích, chỉ ngồi cuối đầu xuống và nhìn chăm chú vào đôi bàn tay mình. Khi tôi đến bên và ngồi xuống cạnh bên, dường như ông không hề nhận ra sự hiện diện của tôi, càng ngồi lâu, tôi càng thắc mắc và lo lắng không biết ông có ổn không.
Cuối cùng, không hẳn là tôi muốn quấy rầy ông, nhưng vì muốn xem ông có khỏe không, nên tôi hỏi thăm ông một câu, rằng không biết ông có khỏe không, mọi việc có ổn không. Ông ngước đầu lên, nhìn tôi và mỉm cười.
“Ồ vâng, tôi khỏe, cảm ơn anh đã có lời hỏi thăm,” ông nói với một giọng rõ ràng.
“Thật sự cháu không có ý làm phiền ông, nhưng vì ông cứ ngồi đây mà nhìn hoài vào tay mình như thế, cháu không biết ông đang suy nghĩ gì, cháu muốn biết chắc rằng ông vẫn khỏe,” tôi giải thích với ông như vậy.
Ông hỏi lại tôi, “Thế anh có bao giờ nhìn vào đôi tay của mình chưa? Ta muốn hỏi anh có từng thật sự nhìn vào đôi tay ấy?”
Tôi từ từ mở bàn tay ra và nhìn chúng. Tôi lật đi lật lại đôi bàn tay mình, hết nhìn trong lòng bàn tay đến bên ngoài. Không, tôi đoán rằng chưa khi nào tôi thật sự nhìn vào bàn tay mình như lúc này — khi ông hỏi câu hỏi ấy với tôi.
Thế rồi ông mỉm cười và liên hệ đến câu chuyện này.
Hãy dừng lại và suy nghĩ một chút về đôi bàn tay của mình, chúng đã giúp đỡ, phục vụ anh như thế nào trong suốt những năm tháng qua.
Đôi tay nhăn nheo và yếu ớt này của ta đã là một công cụ hữu ích mà ta đã dùng suốt cả cuộc đời mình, để với tới, rồi nắm lấy và ôm trọn cả cuộc đời này.
Chúng đã nâng đỡ và giúp ta bám níu cho khỏi ngã khi ta còn là đứa bé bước đi không vững. Chúng đút thức ăn vào miệng ta và mặc áo quần cho ta. Khi còn là một đứa trẻ, mẹ đã dạy ta chắp đôi tay này để cầu nguyện với Chúa. Chúng cột giày cho ta và giúp ta mang ủng.
Chúng lau khô nước mắt những đứa con ta và âu yếm nâng niu tình yêu của cuộc đời ta. Chúng đã cầm vũ khí và lau nước mắt cho ta khi ta phải lên đường vào chiến trận. Chúng đã bị dơ bẩn, bị thương và trầy xước, bị sưng phồng lên và có khi bị bẻ cong nữa.
Chúng thật đã lúng túng và vụng về khi ta cố gắng bồng đứa con trai mới sanh. Được trang trí bằng chiếc nhẫn cưới, chúng đã tỏ cho cả thế giới biết rằng ta đã kết ước và yêu thương một ai đó rất đặc biệt.
Chúng đã viết những lá thư về nhà. Và chúng đã từng run rẩy khi ta chôn cất cha mẹ ta và vợ ta, và chúng cũng đã run run xúc động khi đưa con gái ta đi giữa hàng ghế nhà thờ trong lễ cưới của nó.
Tuy nhiên, chúng mạnh mẽ và rắn chắc lắm. Chúng đã nắm tay các con cái ta, an ủi những người hàng xóm láng giềng, và tung ra những nắm đấm của sự tức giận khi ta không hiểu được vấn đề.
Chúng che mặt ta, chải đầu ta, và tắm rửa cho cả thân thể ta. Có khi chúng trở nên nhớp nháp và ướt lạnh, bị bẻ cong và gãy, khô ráp và chảy máu.
Và cho đến một ngày, khi hầu hết các bộ phận trên cơ thể ta không còn hoạt động tốt như trước nữa, thì đôi bàn tay này lại giúp ta chống để đứng dậy, đở thân thể ta khi nằm xuống, và một lần nữa, chúng tiếp tục chắp lại trong khi ta cầu nguyện. Đôi bàn tay này đã đánh dấu những nơi ta đã đi qua và sự khó nhọc của cuộc đời ta.
Những điều quan trọng hơn, đó là Chúa sẽ với tới và nắm đôi tay này khi Ngài dẫn ta về nhà Cha. Và Ngài sẽ không quan tâm đến việc đôi tay này đã từng ở những đâu hay đã làm những gì. Những gì Ngài quan tâm là đôi tay này thuộc về ai và Ngài yêu thương bàn tay này như thế nào. Và với bàn tay này, Ngài sẽ đưa ta đến bên Ngài, và rồi ta sẽ dùng chúng để chạm đến khuôn mặt yêu thương của Đấng Christ. Ôi, ngày đó mới tuyệt vời làm sao!
Suy gẫm
Chúa đã ban cho mỗi chúng ta một cuộc sống, trang bị cho chúng ta một cơ thể để hoạt động. Đôi bàn tay là một bộ phận đặc biệt đa năng, giúp chúng ta làm rất nhiều việc khác nhau. Chúa yêu thương và ban tặng cho chúng ta những khả năng, Ngài chắc cũng ao uớc chúng ta sử dụng chúng cách ích lợi và kết quả.
Có thể đôi tay bạn dùng để giúp đỡ, bố thí, có thể chúng được dùng để làm những công việc nặng nhọc giúp đỡ cha mẹ, người thân yêu, cũng có khi chúng được bạn dùng để đánh đàn cho nhà thờ… Và cũng có thể lắm, chính đôi tay đó lại muốn gom tóm lợi ích cho riêng mình, muốn chạm vào tiền bạc của người khác, muốn chỉ vào ai đó để đổ lỗi chăng?
Bạn hãy nhìn vào đôi tay mình, và trả lời với Chúa rằng chúng đã và đang được sử dụng như thế nào? Và hãy sử dụng chúng với lòng biết ơn Chúa!
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Eph 5:16
Hãy lợi dụng thì giờ, vì những ngày là xấu.
**
Ban cho và nhận lãnh
Một lần nọ, có một sinh viên trẻ đi dạo với giáo sư của mình. Vị giáo sư này vẫn thường được các sinh viên gọi thân mật là “người bạn của sinh viên,” vì sự thân thiện và tốt bụng của ông đối với các học trò của mình.
Trên đường đi, hai người bỗng thấy một đôi giày cũ nằm giữa đường. Họ nghĩ chắc đấy là đôi giày của một nông dân nghèo nào đó đang làm việc trên cánh đồng cạnh bên, và có lẽ lúc này ông ta đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình.
Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư, “Thầy à, hay chúng ta hãy thử trêu chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu giày của ông ta rồi chúng ta sẽ cùng trốn vào phía sau những bụi cây kia để xem ông ta sẽ làm sao khi không tìm thấy đôi giày.”
Vị giáo sư già đáp, “Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem những người nghèo ra để trêu chọc hay mua vui cho bản thân. Nhưng em là một sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn hơn gấp bội nhờ vào người nông dân này đấy. Hãy thử đặt một đồng tiền vào mỗi chiếc giày của ông ta và chờ xem phản ứng ông ta ra sao.”
Người sinh viên làm như lời vị giáo sư đề nghị, rồi cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó.
Không lâu sau đó, người nông dân nọ xong công việc đồng áng, ông băng qua cánh đồng và đi đến nơi để giày và áo khoác của mình. Ông vừa mặc áo khoác vừa xỏ chân vào một chiếc giày thì cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong, ông cúi xuống xem đó là vật gì và tìm thấy một đồng tiền. Sự kinh ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai. Ông bỏ đồng tiền vào túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày còn lại. Sự ngạc nhiên của ông dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quì xuống, ngước mặt lên trời và cầu nguyện cảm tạ Chúa một cách chân thành tự đáy lòng mình. Ông cám ơn Chúa đã dùng bàn tay vô hình nhưng rất hào phóng của ai đó để đem lại một món quà thật đúng lúc, cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn, người vợ bệnh tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn.
Anh sinh viên lặng người vì xúc động, nước mắt giàn giụa trên má.
Vị giáo sư bấy giờ mới nói, “Bây giờ em có cảm thấy điều em vừa làm sẽ đem đến niềm vui gấp bội so với việc em đem ông ta ra làm trò đùa không?”
Người thanh niên trả lời, “Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà em sẽ không bao giờ quên. Đến bây giờ, em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu Kinh Thánh mà trước đây em không hiểu, “Ban cho có phước hơn nhận lãnh.”
Suy gẫm
Sống một cuộc đời theo cách của riêng mình thật dễ, song để sống một cuộc đời đẹp ý Chúa và ích lợi cho người khác thì không dễ chút nào.
Bản tính của con người thường là kiêu ngạo và ích kỷ, chúng ta thích nghĩ rằng mình quan trọng và phải được nhận chứ không cần phải cho đi: ngoài những món quà vật chất, chúng ta thích được nhận tình yêu thương mà không phải yêu thương, nhận sự kính trọng mà xem thường người khác, nhận sự tha thứ mà chẳng tha thứ cho ai, nhận lời khen ngợi mà luôn chê bai, chỉ trích người khác…
Hãy xét lại lòng mình và xin Chúa giúp cho chúng ta biết sống một cuộc đời ban cho theo ý muốn Ngài, và sẽ được phước hạnh bội phần hơn.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Cong 20:35
Tôi từ bảo luôn cho anh em rằng phải chịu khó làm việc như vậy, để giúp đỡ người yếu đuối, và nhớ lại lời chính Đức Chúa Jêsus có phán rằng: Ban cho thì có phước hơn nhận lãnh.
**
Ba người lạ mặt
Một người phụ nữ nhìn ra ngoài cửa nhà mình và thấy có ba ông già với râu tóc bạc phơ đang ngồi trong sân trước nhà mình. Bà không nhận ra ai quen trong số đó cả.
Tuy nhiên, bà vẫn mở cửa và mời họ, “tôi không nghĩ rằng tôi biết các bác, nhưng có vẻ như các bác đang đói lắm. Xin hãy vào nhà tôi và ăn chút gì đó…”
“Có chồng bà ở nhà không?”, họ hỏi lại.
“Thưa không, ông nhà tôi chưa về,” cô trả lời.
“Thế thì chúng ta không thể vào đâu,” ba ông già trả lời.
Vào buổi chiều tối, khi người chồng trở về nhà, bà vợ kể lại với ông chuyện đã xảy ra với mình.
“Vậy bà hãy ra nói với họ rằng tôi đã về nhà rồi, và hãy mời họ vào dùng chút gì!”
Người vợ ra và mời những ông già vào nhà.
“Chúng ta sẽ không cùng nhau vào một căn nhà đâu, chỉ một người vào mà thôi,” ba ông già trả lời.
“Tại sao vậy?” Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.
Một trong những ông già liền giải thích cho bà như vầy, ông lần lượt chỉ vào từng người bạn và nói, “Ông này tên là Thịnh Vượng, đây là ông Thành Công, còn ta là Tình Yêu.” Ông nói tiếp, “Bây giờ, bà hãy vào nhà và bàn bạc với chồng xem vợ chồng bà muốn mời ai trong chúng ta vào nhà.”
Người vợ vào nhà và kể cho chồng nghe những người ba ông già nói. Ông chồng vô cùng mừng rỡ. “Ồ, tuyệt quá. Nếu như thế thì mình hãy mời ông Thịnh Vượng vào đi. Hãy để ông ấy vào và làm cho nhà mình trở nên giàu có!”
Người vợ không đồng ý, “Ông à, tại sao ta không mời ông Thành Công?”
Cô con dâu của gia đình đang ngồi trong một góc phòng và lắng nghe câu chuyện của ba mẹ. Cô lên tiếng xen vào câu chuyện, “Chẳng lẽ mời Tình Yêu vào không tốt hơn hay sao? Gia đình ta sẽ được tràn đầy tình yêu!”
Nghe như vừa ý, người chồng bảo vợ, “Chúng ta hãy nghe lời con dâu đi, bà hãy ra ngoài và mời Tình Yêu vào nhà mình.”
Người vợ đi ra và hỏi ba ông già, “Xin hỏi ai trong các ông là Tình Yêu? Xin hãy vào nhà và là thượng khách của gia đình chúng tôi hôm nay.”
Tình Yêu đứng dậy và bước vào căn nhà nhỏ. Và hai người còn lại cũng đứng dậy bước theo.
“Trước kia các ông nói rằng chỉ có một người vào nhà chúng tôi, nhưng bây giờ, khi tôi chỉ mời Tình Yêu thôi, sao các ông lại cùng vào?” Người phụ nữ hỏi với chút ngạc nhiên.
Cả ba ông già đều trả lời, “Nếu gia đình bà chọn mời Thịnh Vượng hoặc Thành Công, thì hai người còn lại trong chúng tôi sẽ ở ngoài, nhưng vì gia đình bà đã mời Tình Yêu, mà bất cứ nơi nào ông ấy đến, chúng tôi sẽ đi theo. Bất cứ nơi nào có Tình Yêu, ở đó sẽ có Thịnh Vượng và Thành Công!”
Suy gẫm
Trong cuộc sống, chúng ta thường có nhiều mục đích để theo đuổi, có thể đó là tri thức, đạo đức, công danh, sự giàu có… nhưng tình yêu thương là điều có ý nghĩa thật sự và còn lại bền vững sau những đua chen của cuộc đời, chính tình yêu thương thật sẽ đem đến cho cuộc sống niềm vui và ý nghĩa.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu thương thật như Ngài, hầu cho mỗi người sẽ là một ống dẫn tình yêu đến người chung quanh và tha nhân, làm sáng danh Chúa qua cách sống yêu thương đó.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ICo 13:8
Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ.
**
Sự hiện diện của Chúa
Ngày 20 tháng 4 năm 1999 – một ngày đã làm thay đổi cuộc sống Sarah Dodrill mãi mãi. Bất cứ ai trong chúng ta khi xem lại cuốn video được quay tự động (dạng máy quay phim để nhân viên bảo vệ theo dõi) của căn tin trường trung học Columbine đều sẽ nhìn thấy Sarah. Một đám đông học sinh lao tới bậc thang, cố gắng thoát ra khỏi căn tin. Trong khi không có đứa trẻ nào đi vào căn tin đó nữa thì Sarah lại chạy ào vào. Cô mặc quần Jean và áo thun trắng, có một nút mở ra nơi cổ áo. Cái áo phồng lên khi cô chạy lại phía cầu thang. Khi cô bước xuống bậc đầu tiên, đầu cô như nổ tung khi nghe một tiếng nổ lớn sau lưng mình.
Chúng ta không thấy cảnh này trong đoạn băng, nhưng vào lúc đó thầy giáo Dave Sanders chạy lên cầu thang phía sau lưng cô. Và rồi ông bị bắn ngay sau đó. Tiếng gào hét của thầy Sanders hối tất cả các học sinh chạy trốn đã cứu thoát Sarah.
“Tôi đang ăn trưa trong căn tin thì vài đứa con trai chạy vào, hét lên, “Thầy Sanders đang gào hét mọi người hãy nằm xuống!”” Cô kể lại.
Sarah không biết chuyện gì xảy ra cả, chỉ nhanh chóng nghe theo hướng dẫn và chui xuống dưới gầm bàn, nhưng rồi cô nghe mọi người la hét và thấy họ bắt đầu chạy, cô cũng ra khỏi cho nấp dưới gầm bàn và chạy theo, trong khi tiếng súng đang vang rền sau lưng. Khi đến tầng hai, Sarah có hai lựa chọn: cô có thể chạy sang trái để vào phòng hợp xướng, hoặc rẽ phải và vào thư viện. Cô quẹo trái. Đây là một quyết định có thể cứu sống cô.
Điều mà Sarah không biết lúc đó là hai học sinh của trường Columbine, Eric Harris và Dylan Klebold đang tấn công trường học và bắn xối xả, một cảnh tượng chưa từng xảy ra ở đất nước này. Hai người đã làm bị thương rất nhiều người và giết chết 12 học sinh và giáo viên trước khi chĩa súng tự kết liễu đời mình vào ngày định mệnh đó.
Gần bốn tiếng đồng hồ, Sarah cùng một số bạn khác trốn trong căn phòng nhỏ kế phòng hợp xướng. Cô kể, “Có khoảng 60 người chen chúc nhau trong căn phòng nhỏ xíu. Tôi bị kẹt trong một góc, và lúc đó rất sợ hãi vì tiếng súng đâu đó ngoài bức tường mà thôi.”
Nếu là bạn, bạn sẽ làm sao trong hoàn cảnh khốn đốn như vậy? Còn Sarah, cô ấy cầu nguyện. “Đức tin luôn là một phần quan trọng trong đời sống tôi, và trong ngày đó, tôi cần đức tin hơn bao giờ hết. Tôi cảm thấy Chúa đang hiện diện và kiểm soát mọi việc, tôi cầu nguyện xin Ngài gìn giữ cho. Mặc dù tôi rất sợ, tôi biết rằng nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, thì tôi sẽ được về với Chúa khi tôi chết.” Ở tuổi 16, đức tin của Sarah còn mạnh mẽ hơn nhiều người lớn nữa.
Lúc đó, Sarah không chỉ chăm lo vào sự an toàn của bản thân cô không thôi. Nhưng hình ảnh một trong những người bạn của cô, cũng là học sinh trường Columbine, cứ xuất hiện trong trí của Sarah.
“Tôi đã cố gắng nói về Chúa cho cô ấy, nhưng tôi không biết cô ấy đã tin nhận Chúa vào lòng hay chưa nữa; Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho cô ấy sau khi cô ấy chết, nếu cô ấy bị bắn vào ngày hôm đó. Tôi cứ cầu nguyện rằng cô ấy sẽ an toàn và xin Chúa gìn giữ mọi người được an toàn.”
Sarah nhận ra một cô gái cũng đang đứng trong đám người đông đúc đến nghẹt thở này. “Tôi biết cô ấy trong một lớp học Kinh thánh. Cô ấy bảo, ‘chúng ta cùng cầu nguyện đi,’ nhưng bên ngoài tiếng súng vẫn còn, nên chúng tôi tiếp tục im lặng.”
Bốn tiếng sau, các học sinh nghe có tiếng đập thình thịch. Họ sợ hãi, bởi chẳng biết ai ở bên ngoài cả.
Một giọng nói vang lên, “Đây là cảnh sát. Mở cửa ra.”
Sarah thật sự bị sốc khi nhìn thấy quang cảnh hoang tàn khi cô được đưa ra khỏi toà nhà. “Chúng tôi bắt đầu bước ra, và điều kinh khiếp đã xảy ra cho ngôi trường này. Tất cả cửa sổ tôi đều thấy có vết đạn bắn, kính vỡ khắp nơi. Trần nhà thì đen đúa nham nhở.”
Khi Sarah và những học sinh khác ra khỏi toà nhà, họ không thể nào dừng mắt nhìn về hướng có thi thể một học sinh bị bắn chết vẫn còn nằm trên lối đi.
“Lúc đó tôi mới nhận biết tình hình thật sự đã tồi tệ như thế nào, “Sarah nói nhỏ.
Trong vòng năm năm sau đó, Sarah sống với một cuộc sống đầy những hình ảnh đau thương mà cô đã trải qua. Cô bị tác động rất đặc biệt bởi cái chết của Dave Sanders, người huấn luyện môn bóng chày, bóng rổ và chạy ngắn – tất cả những môn thể thao Sarah tham gia trong trường. “Thầy đã cứu rất nhiều người bởi vì thầy cố gắng ở lại đó và bảo đảm chắc rằng tất cả học sinh đều đã ra khỏi căn tin,” Sarah nói. “Thầy là một anh hùng, bởi vì thầy quan tâm đến sự an toàn cho tất cả các học sinh của thầy.”
Tại sao Harris và Klebold lại làm những hành động điên rồ như vậy? Sarah không thể hiểu được, nhưng Sarah biết chắc chắn một điều rằng khi cuộc sống không có Chúa chiếm ngự thì ma quỉ sẽ chiếm lấy đời sống của họ.
Những năm tháng sau đó thực sự khó khăn cho cuộc sống Sarah. Đối với Sarah, trường trung học Columbine giống như một nơi tội ác diễn ra hơn là một trường trung học. “Tôi rất sợ khi nghĩ đến một điều gì đó kinh khiếp sẽ tiếp tục xảy ra tại trường. Tôi luôn có nhiều cơn ác mộng trong suốt thời gian dài.”
Nhưng Sarah tin rằng chính Chúa đã dẫn dắt cô vượt qua những khó khăn đó, và niềm tin của cô với Chúa đã giữ gìn cô trong suốt những năm tháng khó khăn này. “Chúa đã làm rất nhiều điều kỳ diệu để làm lành vết thương trong lòng tôi,” Sarah nói. “Chúa đã đem đến cho tôi niềm vui và sự bình an. Tôi đã thấy nhiều điều kỳ diệu xảy ra sau sự kiện đó. Cô gái mà tôi nghĩ đến và câu nguyện vào ngày hôm đó đã tiếp nhận Chúa làm Cứu Chúa đời sống mình. Khi cái ngày kinh khiếp ấy xảy ra, cô ta đã nhận ra rằng cuộc sống cô thật sự không còn niềm hi vọng nào và cô ta đã bắt đầu đến tham gia vào các lớp học Kinh Thánh. Đức tin mới mẻ của cô thật là một điều kỳ diệu sau cái ngày bi kịch ấy.”
Và một điều kỳ diệu nữa mà Sarah đã trải qua là cô dễ dàng cảm thông và chia sẻ được với nhiều người cũng chịu sự đau khổ khi mất mát người thân, khi phải trải qua những hoàn cảnh kinh khiếp hay hãi hùng như chính cô đã từng trải qua. “Bởi vì điều đó xảy ra tại trường của tôi cho nên mọi người hỏi tôi nhiều câu hỏi và lắng nghe điều tôi nói. Và đó là cơ hội để tôi có thể nói về niềm hi vọng vững chắc mà tôi có, dù phải trải qua những lúc khó khăn thử thách như vậy.”
Trước ngày 20 tháng 4 năm 1999, Sarah đã muốn trở thành một nhà truyền giáo, và bây giờ cô vẫn ao ước như thế. Ngày hôm nay, cô đang là một sinh viên đại học, nhưng lời giới thiệu về kinh nghiệm và những việc làm của cô đã gần như khiến cô trở thành một nhà truyền giáo từ lâu.
“Tôi phải tận dụng hầu hết thời gian mình có để sống cho Đấng Christ khi tôi còn sống trên đất và có cơ hội để nói về Chúa, để bày tỏ tình yêu của Ngài cho người khác, bởi vì tôi không biết họ còn bao lâu để sống, và tôi cũng vậy.”
Sarah nhớ lại “Vào ngay sau khi cái ngày kinh khiếp ấy xảy ra, tôi đã hỏi mẹ rằng liệu tôi có còn được hạnh phúc lại không, bà trả lời rằng chắc chắn có… và bà đã đúng.”
Suy gẫm
Có thể bạn đang trải qua những giây phút bình an trong cuộc sống, hoặc cũng có thể bạn đang đối diện với những thử thách làm bạn nản lòng. Dù hoàn cảnh thế nào đi chăng nữa, Chúa vẫn ở đó và Ngài luôn nắm giữ đời sống bạn trong tay yêu thương của Ngài, giúp bạn vượt qua những khó khăn, hàn gắn những vết thương trong lòng bạn và đem đến cho bạn sự bình an.
Bạn có tin cậy Ngài không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Giô-suê 1:9
Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi.
**
Làm nụ hồng nở hoa
Vào một ngày nọ, có một vị mục sư trẻ đang dạo chơi trong một khu vườn cùng với vị mục sư lão thành. Vị mục sư trẻ cảm thấy hơi hoài nghi về sự kêu gọi của Chúa dành cho mình nên anh mới bày tỏ nỗi bâng khuâng cùng vị mục sư già đáng kính. Sau khi nghe xong, vị mục sư già tiến về phía một bụi hoa hồng ở phía trước, chỉ vào một nụ hồng và bảo mục sư trẻ nọ hãy làm cho nụ hồng này nở thành hoa mà không xé bất cứ cánh hoa nào ra.
Mục sư trẻ nhìn vị mục sư già với một thoáng nghi ngờ, anh không hiểu việc làm cho nụ hồng này nở thành hoa có liên quan gì đến việc mà mình muốn biết ý muốn Chúa trên đời sống và chức vụ của mình. Tuy nhiên, do sự kính trọng mà anh dành cho vị mục sư già, mục sư trẻ vẫn cố gắng làm nở nụ hồng thành hoa, anh cố gắng làm nở từng cánh hoa…. Và chẳng bao lâu sau, anh nhận ra rằng đây là một việc mà không thể nào thực hiện được.
Sau khi để cho vị mục sư trẻ cố gắng hồi lâu và nhận thấy anh ta không thể nào làm nở hoa một nụ hồng, vị mục sư già cất tiếng đọc một bài thơ như sau:
Đó chỉ là một nụ hồng bé nhỏ
Một đóa hoa mà Chúa đã tạo ra.
Nhưng tôi không thể nào làm hoa nở
Bằng đôi tay vụng về, yếu đuối của tôi.
Làm sao để nở một đóa hoa
Bản thân tôi không cách nào biết được.
Trong tay Chúa, từng cánh hoa hé nở
Trong tay tôi, chúng chỉ có héo tàn.
Nếu tôi không thể làm nở một nụ hồng,
Loài hoa xinh đẹp mà Chúa đã tạo ra.
Vậy làm sao tôi dám nghĩ mình đủ khôn sáng
Để thấy được cuộc đời ở phía trước mặt là gì.
Vì thế,
Tôi sẽ tin cậy vào sự dẫn dắt của Chúa
Trong mỗi phút giây, mỗi tháng ngày.
Tôi sẽ chăm xem sự dẫn dắt của Ngài,
Cho mỗi bước đi trong cuộc đời tôi.
Cuộc đời phía trước mắt tôi
Chỉ có Cha Thiên Thượng biết rõ
Tôi tin Ngài sẽ mở ra từng giây phút,
Như Ngài đã làm nở một đóa hoa…
Suy gẫm
Nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta, chúng ta tự mình họach định cho tương lai của mình
Nhưng ai có thể thấy được những điều ở phía trước mình, chỉ có Chúa là Đấng tạo dựng nên chúng ta mới có thể nắm giữ tương lai của mỗi chúng ta?
Cuộc đời của bạn hiện trong tay ai: trong bàn tay của chính bản thân bạn hay bàn tay quyền năng của Chúa?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Châm-ngôn 3:5-6
5 Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con;
6 Phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, Thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con.
**
Nasa và Kinh Thánh
Đây là một sự thật dành cho những nhà khoa học và cho tất cả những sinh viên nào đang gặp khó khăn trong việc thuyết phục người khác về mức độ xác thật của Kinh Thánh. Và đây cũng là một trong những điều đã tỏ ra Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo lạ lùng, và Ngài đã tể trị trên muôn vật.
Bạn có biết rằng có một chương trình không gian đang bận rộn chứng minh rằng điều được gọi là “hoang tưởng” trong Kinh thánh là sự thật không?
Ông Harold Hill, vốn là chủ tịch của công ty Curtis Engine ở Baltimore Maryland, và là một chuyên viên cố vấn trong chương trình không gian, kể rằng, “Tôi nghĩ một trong những điều kỳ diệu Chúa tỏ với chúng ta ngày hôm này đã xảy ra gần đây cho những nhà du hành vũ trụ và các nhà khoa học không giang ở Greenbelt, Maryland. Họ đã kiểm tra vị trí của mặt trời, mặt trăng, và các hành tinh ngoài không gian, nơi chúng có thể tọa lạc cách đây 100 năm và 1000 năm.
Chúng tôi phải biết điều này để không gửi một vệ tinh lên và làm nó va đập vào bất cứ thiên thể nào trong những quỹ đạo của nó. Chúng tôi phải bố trí những quỹ đạo sao cho vệ tinh có thể tồn tại lâu dài, và nơi có những hành tinh, để tất cả không bị sa lầy.
Những nhà khoa học cho loại máy tính đo lường chạy ngược thời gian nhiều thế kỷ, và nó đến một điểm dừng. Máy tính dừng lại và cho dấu hiệu đèn đỏ, điều đó có nghĩa là có cái gì đó sai trật, hoặc trong lượng thông tin được nạp vào, hoặc với kết quả khi so sánh với chuẩn.
Họ gọi cho bộ phận sửa chữa để kiểm tra, và họ hỏi nhau, “Có gì sai thế?”
Cuối cùng, họ tìm ra được rằng có một ngày bị mất đi trong quá khứ. Họ vò đầu bứt tóc… Không có câu trả lời. Cuối cùng, một nhà khoa học là cơ đốc nhân nói, “Các anh biết không, một lần tôi học trong trường Chúa nhật, họ có đề cập đến một thời điểm mặt trời dừng lại.” Dù rằng mọi người không tin lời anh ta nói, họ cũng không có câu trả lời nào khác, vì thế, họ đành bảo, “hãy chỉ ra xem nào.”
Anh ta lấy Kinh thánh và tìm trong sách Giô-suê, ở đó, họ đọc được một đoạn rất kỳ cục — kỳ cục đối với bất cứ người bình thường nào. Họ thấy Chúa nói với Giô-suê. “Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê rằng: Chớ sợ, vì ta đã phó chúng nó vào tay ngươi, chẳng còn một ai đứng nổi trước mặt ngươi được.” (Giô-suê 10:8). Giô-suê lo lắng vì ông đang bị kẻ thù bao quanh và nếu trời tối thì kẻ thù sẽ áp đảo dân Y-sơ-ra-ên. Vì thế Giô-suê cầu xin Chúa cho mặt trời dừng lại! Đúng vậy, “Ngày mà Đức Giê-hô-va phó dân A-mô-rít cho dân Y-sơ-ra-ên, thì Giô-suê thưa cùng Đức Giê-hô-va tại trước mặt Y-sơ-ra-ên, mà rằng: Hỡi mặt trời, hãy dừng lại trên Ga-ba-ôn; Hỡi mặt trăng, hãy ngừng lại trên trũng A-gia-lôn! Mặt trời bèn dừng, mặt trăng liền ngừng, Cho đến chừng dân sự đã báo thù quân nghịch mình. Điều đó há không có chép trong sách Gia-sa sao? Mặt trời dừng lại giữa trời, và không vội lặn ước một ngày trọn.” (Giô-suê 10:12-13)
Những phi hành gia và các nhà khoa học bảo, “Như vậy là có một ngày bị mất đi trong chuỗi thời gian!” Họ kiểm tra lại các máy tính và trở về thời điểm được viết trong Kinh thánh, và họ tìm thấy nó gần đúng, những không chính xác đủ. Thời gian bị mất trong giai đoạn của Giô-suê là 23 giờ và 20 phút đồng hồ – chứ không phải là 24 tiếng trọn vẹn.
Họ đọc lại Kinh thánh và trong đó chép “ước một ngày trọn.” Chỉ một hai từ trong Kinh thánh cũng rất quan trọng, bởi họ sẽ vẫn gặp rắc rối về 1000 năm trước nếu không tính 40 phút kia. Bốn mươi phút phải được tìm ra, bởi vì trong khoảng thời gian đó vệ tinh sẽ quay rất nhiều lần trong những quỹ đạo.
Khi nhà khoa học là tín đồ kia suy nghĩ về điều này, anh nhớ ra ở đâu đó trong Kinh thánh có nói về mặt trời ĐI NGƯỢC lại. Những nhà khoa học bảo anh ta chắc quẫn trí rồi, nhưng khi họ tìm lại trong Kinh thánh thì thấy câu chuyện này ở sách II Các vua:
Khi Ê-xê-chia bị bệnh nặng gần chết, người được tiên tri Ê-sai thăm viếng, và Ê-sai nói rằng vua sẽ chẳng chết đâu. Vua Ê-xê-chia muốn xin một dấu hiệu rằng mình sẽ được chữa lành và sống. Ê-sai đã nói rằng, “Này là dấu Đức Giê-hô-va ban cho ngươi, đặng làm chứng cho ngươi biết Ngài sẽ làm thành điều Ngài đã phán ra: Ngươi muốn bóng tới trước mười độ hay là lui lại mười độ chăng?” (IIVua 20:9) Ê-xê-chia trả lời, “Bóng tới trước mười độ thì chẳng khó gì; không! thà nó lui lại sau mười độ thì hơn.” (20:10) Tiên tri Ê-sai cầu khẩn với Đức Chúa Trời và Ngài đã đem bóng trở lui lại 10 độ.
Mười độ chính xác là 40 phút! 23 giờ và 20 phút trong đời Giô-suê, cộng với 40 phút được đề cập trong sách II Các vua đã làm mất đi một ngày trong vũ trụ!” Điều đó có phải kỳ diệu quá không?
Suy gẫm
Lời Chúa là sống và linh nghiệm, dù rằng thế gian tìm cách chối bỏ thì Kinh thánh vẫn tồn tại và bày tỏ chân lý cứu rỗi. Chúng ta tin Chúa, và tin Kinh Thánh là lời Ngài, chúng ta cũng phải làm theo để lời Chúa được sống trong mỗi chúng ta.
Bạn có đọc, suy gẫm, hầu làm theo ý muốn Chúa trên đời sống mình chăng?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Hê-bơ-rơ 4:12
Vì lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng.
**
Làm bánh kẹp
Một ngày kia, bé Brandon, 6 tuổi, quyết định làm một bữa bánh kẹp để chiêu đãi bố mẹ. Cậu lấy một cái tô lớn, một cái muỗng ra, rồi kéo chiếc ghế đến chạn tủ, leo lên, mở chạn tủ rồi lục lọi tìm túi bột mì… thế rồi cậu làm đổ bột ra cả sàn nhà bếp.
Tiếp theo, cậu bé múc một vài muỗng bột vào trong chiếc tô, dùng tay trộn bột với một cốc sữa, bỏ thêm đường vào, và bây giờ thì sàn bếp dơ bẩn với đầy bột, có thêm một vài dấu chân của con mèo dẫm lên lớp bột nữa.
Brandon lấm lem trong bột mì và bắt đầu bực mình. Cậu bé muốn làm một việc tốt tặng bố mẹ, những mong làm cho bố mẹ vui, nhưng bây giờ thì rõ ràng mọi chuyện thật tệ hại quá sức.
Cậu bé không biết tiếp theo phải làm gì, hoặc là bỏ bột nhồi vào lò nướng, hoặc đặt lên bếp nấu… Không biết cách nào đây? Mà nếu dùng bếp nấu thì cậu chẳng biết dùng nó ra làm sao. Đang suy nghĩ rất lung, đột nhiên, cậu nhìn thấy con mèo con đang liếm bột nhồi trong tô, cậu vội với tay đẩy cô mèo đi ra chỗ khác, nhưng sơ ý cậu đụng phải rổ trứng và làm rớt cả xuống đất. Cuống cuồng, cậu bé cố gắng lau dọn cái đống bừa bãi dơ hầy ấy. Nhưng trứng bể ra nhà làm sàn nhà trơn trợt, và cậu trợt chân, té rầm làm dơ hết cả bộ pi-ra-ma đang mặc.
Ngay lúc đó, cậu bất chợt nhận ra bố đang đứng trước cửa nhà bếp. Không còn biết làm gì, lại sợ bị la, thế là cậu bé òa khóc nứa nở. Tất cả cậu muốn là làm một điều tốt tặng cho bố mẹ, nhưng cậu bé đã bày ra một cảnh lộn xộn dơ bẩn kinh khủng nhất trong nhà bếp. Cậu chắc chắn rằng thế nào cũng sẽ bị la một trận tơi bời, có khi còn cả đánh đòn nữa chứ chẳng chơi… Nhưng bố cậu chỉ đứng nhìn cậu mà thôi.
Rồi sau đó, bố Brandon bước tới cái đống lộn xộn đó, bế cậu con trai đang khóc vì sợ hãi, ôm cậu vào lòng và yêu thương cậu. Bố thay một bộ pi-ra-ma mới và đem giặt bộ đồ dính đầy bột và trứng của đứa con trai.
Suy gẫm
Đây cũng là cách Chúa đối với chúng ta. Chúng ta cố gắng để làm điều tốt trong cuộc đời, nhưng rồi mọi sự có thể trở nên tệ hại. Hôn nhân của chúng ta khủng hoảng, chúng ta làm tổn thương bạn bè, chúng ta không chịu đựng nỗi công việc, hay sức khỏe chúng ta nên tệ hại.
Đôi khi, chúng ta chẳng còn biết làm gì, chỉ còn biết đứng đó khóc, vì chúng ta không thể nghĩ ra điều gì để làm cả. Đó chính là lúc Chúa nâng chúng ta dậy, và yêu thương chúng ta, tha thứ chúng ta, ngay cả khi những điều lộn xộn, dơ bẩn của chúng ta vấy cả lên Ngài.
Tuy nhiên, không phải vì chúng ta có thể dễ dàng làm mọi chuyện tệ hại, mà chúng ta dừng việc “làm bánh kẹp” cho Chúa và cho người khác. Sớm hay muộn, chúng ta sẽ biết cách làm “bánh kẹp” cho đúng thôi, và Chúa sẽ vui lòng bởi chúng ta đã cố gắng làm vì yêu mến Ngài.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ISa 16:7
Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng.
**
Cô giáo đặc biệt
Tên cô là Thompson. Khi cô đứng trước cửa lớp trong ngày đầu của niên học, cô đã nói dối với các học sinh của mình một điều. Cũng như tất cả các giáo viên khác, cô nhìn tất cả các học sinh và nói rằng cô yêu chúng đồng đều như nhau. Nhưng điều đó đã không xảy ra hoàn toàn đúng, bởi ngồi ở hàng ghế đầu là cậu bé có cái tên Teddy Stoddard.
Cô Thompson đã nhìn thấy Teddy từ năm trước, và chú ý rằng nó chẳng gần gũi và hoà đồng với các bạn, rằng quần áo nó lúc nào cũng xộc xệch, và mỗi khi cô nhìn thấy nó thì nghĩ nó cần phải đi tắm rửa sạch sẽ. Teddy có vẻ như không được vui vẻ. Những điều đó làm cho cô Thompson thật sự có hứng để phê vào tờ bài kiểm của Teddy một dấu X đỏ đậm, theo sau đó là một chữ “Kém” to tướng ở đầu trang giấy.
Ở trường cô Thompson dạy có một quy định là, các giáo viên chủ nhiệm phải đọc lại học bạ của tất cả học sinh trong lớp. Và khi cô đọc, cô đã cố ý xếp học bạ của Teddy để đọc cuối cùng.
Tuy nhiên, cô rất bất ngờ khi đọc học bạ của cậu bé. Giáo viên lớp một của cậu viết rằng, “Teddy là một cậu bé sáng dạ và vui vẻ. Cậu biết sắp xếp công việc rất gọn gàng và rất ngoan ngoãn… Cậu là niềm vui cho những người chung quanh.” Cô giáo lớp hai viết, “Teddy là học sinh xuất sắc, được các bạn trong lớp yêu mến, nhưng cậu bé đang gặp phải vấn đề lớn vì mẹ cậu đang ở trong giai đoạn cuối của một căn bệnh nan y, và cuộc sống ở nhà đang phải đối diện nhiều khó khăn.” Cô giáo lớp ba phê rằng, “Cái chết của mẹ là một nặng nề cho cậu bé. Cậu đã cố gắng rất nhiều, nhưng người cha dường như không quan tâm nhiều đến cậu, và nếu tình trạng này tiếp tục sẽ ảnh hưởng lớn đến cậu bé.”
Cô giáo lớp bốn của Teddy thi viết, “Teddy sống thu mình với bạn bè, và không tỏ ra thích thú với chuyện học hành. Cậu không có nhiều bạn bè và thỉnh thoảng lại ngủ gục trong lớp.”
Bấy giờ, cô Thompson nhận ra được vấn đề, cô cảm thấy xấu hổ với chính mình và cầu nguyện xin Chúa tha thứ cho những suy nghĩ hời hợt trước kia. Cô cầu xin Chúa hướng dẫn mình cách nào để giúp cậu học trò nhỏ Teddy.
Rồi đến dịp lễ Giáng sinh, cô Thompson còn cảm thấy tệ hại hơn khi mà tất cả học trò đều đem những món quà thật xinh xắn đến tặng cô, trừ ra quà của Teddy. Cậu bé gói quà thật vụng về trong một tờ giấy màu nâu mà người ta dùng để gói rau quả. Cô giáo Thompson cố gắng lấy can đảm để mở gói quà trước toàn thể học sinh của mình. Một vài đứa trẻ bật cười khúc khích khi cô lấy ra một chiếc vòng đá giả kim cương đã rớt mất mấy hột đá, và một chai nước hoa chỉ còn lại một phần tư chai. Nhưng cô Thompson làm bọn học sinh im bặt khi cô khen chiếc vòng đẹp quá, rồi cô đeo vòng vào tay, sau đó cô còn xịt một chút nước hoa lên cổ tay nữa.
Cuối buổi học hôm đó, Teddy Stoddard ở lại trường thêm một chút, cậu đến nói với cô giáo, “Cô Thompson, hôm nay cô có mùi giống y như mẹ con trước kia vậy.” Sau khi bọn trẻ đi về hết, cô Thompson khóc cả tiếng sau đó. Và chính cái ngày đó, cô không còn “dạy đọc”, “dạy viết” hay “dạy toán” nữa. Thay vào đó, cô bắt đầu “dạy học” một cách thật sự. Cô Thompson cũng quan tâm đặc biệt đến Teddy. Khi cô cùng học với cậu bé, dường như đầu óc cậu sống động lại như xưa. Cô càng khuyến khích bao nhiêu, Tedy càng hưởng ứng lại bấy nhiêu.
Cuối năm học đó, Teddy trở thành học trò giỏi nhất lớp, và mặc dù cô giáo Thompson đã nói rằng cô yêu tất cả học sinh như nhau, cô vẫn yêu Teddy hơn cả.
Một năm sau, cô tìm thấy một mảnh giấy dưới cửa nhà mình, Teddy nói rằng cô là cô giáo tuyệt vời nhất mà cậu có trong cả cuộc đời mình.
Sáu năm trôi qua cho đến khi cô lại nhận được mẩu tin từ Teddy. Cậu viết rằng cậu đã học xong trung học, cậu đứng thứ ba trong lớp, và cô vẫn là cô giáo tuyệt vời nhất từ trước đến nay trong đời cậu.
Sau đó bốn năm, cô lại nhận một mẫu tin khác từ Teddy, nói rằng trong lúc cuộc sống khó khăn hơn trước, cậu vẫn ráng trụ lại trường, và sắp tới sẽ tốt nghiệp đại học với bằng thủ khoa. Cậu quả quyết rằng cô Thompson vẫn là cô giáo tuyệt nhất và là người cậu yêu mến nhất từ trước đến giờ.
Và bốn năm nữa trôi qua … Một lá thư khác lại đến. Lần này Teddy giải thích rằng sau khi lấy được bằng cử nhân, cậu đã quyết định đi xa thêm một chút. Lá thư nói rằng cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời nhất của teddy. Nhưng bây giờ, tên của cậu dài hơn trước một chút – và chữ ký trong lá thư là Tiến sĩ Teddy.
Câu chuyện chưa kết thúc ở đây. Bạn thấy đó, một lá thư khác lại xuất hiện. Teddy nói rằng cậu đã gặp người con gái này và dự định sẽ kết hôn với cô ta. Cậu giải thích rằng vì cha cậu đã qua đời mấy năm trước, cậu không biết cô Thompson có vui lòng ngồi ở vị trí là mẹ của chú rể trong nhà thờ vào lễ cưới của cậu hay không?
Đương nhiên là cô Thompson đồng ý. Và thử đoán xem? Cô giáo đã đeo chiếc vòng đá cũ kỹ kia, với nhiều hạt đá đã rơi mất. Cô cũng dùng loại nước hoa để Teddy nhớ rằng mẹ mình đã dùng trong dịp lễ Giáng sinh năm xưa. Họ ôm lấy nhau rất xúc động, và tiến sĩ Stoddard nói thầm vào tai cô giáo, ” Cám ơn cô Thompson đã tin tưởng con. Cám ơn cô rất nhiều vì đã cho con cảm giác mình quan trọng và cho con thấy con có khả năng thay đổi hoàn toàn cuộc đời mình.”
Cô Thompson xúc động, và trong nước mắt cô trả lời, “Teddy, con đã sai rồi! Con chính là người đã làm thay đổi suy nghĩ của cô, và Chúa là Đấng đã giúp sức, hướng dẫn để cô có thể thay đổi. Cô đã không biết phải dạy học thế nào cho đến khi gặp con.”
Suy gẫm
Nghề giáo được xem là một nghề cao cả và đáng tôn trọng, bởi đây chính là nghề gieo trồng nhân cách và kiến thức cho con trẻ. Trong xã hội ngày nay, nghề giáo lại càng có tầm quan trọng hơn, khi mà phẩm chất đạo đức của xã hội đang trên đà xuống dốc kinh khủng.
Nhân dịp ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11, chúng tôi xin gửi lời chúc mừng đến quý vị và các bạn đang làm việc trong lãnh vực giáo dục, và cả những người đang lo việc dạy dỗ Kinh Thánh cho các em thiếu niên, nhi đồng trong Hội thánh. Nguyện xin Chúa luôn ở cùng, hướng dẫn và chúc phước trên đời sống và công việc mà quý vị đang cưu mang, hầu công việc của quý vị thật ích lợi và có ý nghĩa.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Cô-lô-se 3:23
Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta.
**
Chúa làm chủ ngôi nhà
Có một người đàn ông giàu có nọ, ông sống trong một ngôi nhà thật rộng lớn và sang trọng. Ngôi nhà của ông có rất nhiều phòng, và cứ trong mỗi phòng, ông sửa sang, trang trí và làm cho nó thoải mái, sang trọng hơn phòng nằm trước nó. Trong ngôi nhà của mình, ông treo rất nhiều tranh ảnh và để những bức tượng điêu khắc rất xinh đẹp. Những chùm đèn pha lê lấp lánh trên trần nhà, những tay cầm trên cầu thang được giát vàng và chạm trổ rất tinh xảo. Ngôi nhà của ông trông xinh đẹp biết chừng nào.
Vào một ngày nọ, ông quyết định mời Chúa đến nhà và ở với ông. Khi Chúa đến nhà, ông dành cho Chúa một căn phòng đẹp nhất trong những căn phòng xinh đẹp của ông. Căn phòng này nằm trên tầng lầu và ở cuối phòng ăn lớn trong căn nhà. “Con dành phòng này cho Chúa, xin hãy ở đây với con cho đến khi nào Chúa không thích ở nữa và Chúa có thể làm bất cứ điều gì Ngài muốn trong căn phòng này. Xin Chúa nhớ là tất cả những thứ trong căn phòng này là của Chúa nhé”.
Tối hôm đó, sau khi kết thúc công việc của một ngày, ông chuẩn bị đi ngủ thì thình lình có những tiếng đập cửa ầm ầm bên ngòai. Ông ta khoác vội chiếc áo choàng và đi xuống tầng dưới để mở cửa. Khi ông mở cửa, ông thấy rằng Satan đã sai 3 đứa đầy tớ của nó đến để tấn công ông. Ông nhanh chóng đóng chặt cửa lại. Nhưng một trong 3 đứa đầy tớ của Satan đã nắm chặt được chân của ông. Sau một hồi vùng vẩy, ông đã thoát được và đóng sầm cửa lại. Ông trở về phòng mình hết sức mệt mỏi.
“Làm sao có thể tin được chứ” Ông ta tự nghĩ, “Chúa Jesus đang ở trên lầu, trong căn phòng tốt nhất trong nhà của mình, mà Ngài lại ngủ say sưa trong lúc mình phải chống chọi với ma quỉ một mình. Mà chắc có lẻ Ngài không nghe được những tiếng ồn do ma quỉ tạo ra. Chắc có lẻ hôm qua Ngài hơi khó ngủ nên hôm nay Ngài đã ngủ say sưa rồi.”
Ngày hôm sau, ông ta vẫn tiếp tục công việc thường ngày của mình. Tối đến, vì mệt mỏi nên ông quyết định đi ngủ sớm. Vào khoảng nữa đêm, có những tiếng động dữ dội bên ngoài ngôi nhà làm ông thức giấc. Ông nghĩ chắc là cánh cửa nhà ông chuẫn bị tan nát. Ông bật dậy, chạy nhanh xuống phía dưới nhà và mở cửa. Khi cánh cửa được mở ra, ông thấy hàng tá những con quỉ đang cố gắng đột nhập vào ngôi nhà xinh đẹp của ông.
Sau khoảng hơn 3 tiếng đồng hồ chiến đấu ngoan cường với bọn quỉ dữ, cuối cùng ông cũng đánh bật được chúng ta khỏi ngôi nhà của mình và đóng sầm cửa lại. Ông dường như kiệt sức. Ông thực sự không thể hiểu nỗi. Tại sao Chúa không xuống để giải cứu ông? Tại sao Chúa lại để ông chống chọi với ma quỉ một mình? Ông thấy mình thật cô đơn. Cảm thấy mệt mõi và chán nản, ông thả mình xuống chiếc ghế bành và ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau, ông quyết định hỏi Chúa cho ra lẽ về những chuyện đã xãy ra trong 2 ngày qua. Ông lặng lẽ đi lên căn phòng sang trọng mà ông đã dành cho Chúa. “Chúa ôi,” ông vừa gọi vừa gỏ nhẹ vào cánh cửa phòng.” Chúa ôi, con không hiểu những gì đang xảy ra. Hai hôm nay, con đã phải chiến đấu chống chọi lại với ma quỉ trong lúc Chúa lại nằm yên ở đây và ngon giấc. Chúa có quan tâm đến con không? Chẳng phải là con đã dành cho Chúa căn phòng tốt nhất mà con có hay sao?”
Ông nhìn thấy những giọt nước mắt dâng lên trong mắt Chúa nhưng ông vẫn tiếp tục, “Con thật sự không hiểu nỗi. Con nghĩ rằng một khi con đã mời Chúa vào ngôi nhà này sống với con thì Chúa sẽ chăm sóc con. Con đã dành cho Chúa căn phòng tốt nhất trong ngôi nhà này và tất cả mọi thứ ở trong đó rồi, con có thể làm gì hơn được nữa?”
“Con yêu dấu của ta, ” Chúa nhẹ nhàng trả lời, “Ta yêu con và hằng chăm sóc con. Ta đã bảo vệ tất cả những gì mà con giao cho ta. Nhưng khi con mời ta đến đây và ở lại với con, con chỉ mang Ta vào căn phòng yêu dấu này nhưng con đã đóng cửa tất cả những căn phòng còn lại trong nhà của con. Ta làm chủ căn phòng này, nhưng ta không phải là chủ của cả ngôi nhà của con. Và ta đã bảo vệ căn phòng này, ma quỉ chẳng thể vào phòng này được.”
“Ôi Chúa ôi, xin tha thứ cho con. Xin Ngài làm chủ cả ngôi nhà này – tất cả là của Ngài. Con xin Chúa tha cho con vì con không dâng cho Ngài tất cả ngay từ lúc ban đầu. Con muốn Ngài làm chủ tất cả.”
Ông chạy vụt vào phòng và quì dưới chân Chúa. “Chúa ôi, xin tha thứ cho con về sự ích kỷ của con.”
Chúa mĩm cười và nói với ông rằng Ngài đã thực sự tha thứ cho ông. Ngài sẽ chăm sóc đời sống ông từ nay trở đi. Tối hôm đó, khi chuẩn bị đi ngủ ông lại nghỉ rằng, không biết tối nay ma quỉ có còn trở lại nữa không. Ông đã cảm thấy quá sức mệt mỏi về chuyện chống chọi với ma quỉ mỗi đêm. Nhưng ông cũng tin về những gì Chúa nói Ngài sẽ chăm sóc mọi điều trong đời sống ông từ nay trở đi. Vào khoảng nữa đêm hôm ấy, những tiếng gỏ cửa rầm rầm làm ông hoảng sợ. Ông lê dép ra khỏi phòng ngay lập tức để xem thử Chúa Jesus có làm như Ngài nói không. Ông thật sự kinh hãi khi thấy Chúa Jesus đã mở toang cửa ra không chút sợ hãi. Satan đứng trước cửa và chuẩn bị đột nhập vào ngôi nhà. “Ngươi muốn gì, Satan?” Chúa hỏi. Satan kinh hãi trước sự hiện diện của Chúa. “Tôi xin lỗi, hình như tôi đã đi nhằm địa chỉ rồi”. Và Satan cùng môn đồ của nó nhanh chân chạy khỏi đó.
Suy gẫm
Ma quỉ luôn tìm cách tấn công đời sống bạn mỗi ngày. Chúa là Đấng Chiến Thắng, Tại sao chúng ta không để Chúa chiến đấu cho chúng ta?
Chúa muốn làm chủ tất cả trên đời sống bạn, không phải chỉ một phần. Ngài sẽ chăm sóc tất cả những gì bạn dâng cho Ngài. Bao nhiêu phần trong tấm lòng bạn đã dâng lên cho Chúa làm chủ? Bạn có đang giữ một phần trong tấm lòng bạn cho riêng bạn không?
Nếu bạn chưa mời Chúa vào lòng, hãy mời Ngài vào lòng ngay hôm nay. Nếu bạn chưa dâng trọn đời sống mình cho Chúa, hãy dâng trọn cho Chúa hôm nay. Bạn sẽ hưởng được sự bình an, phước hạnh trong sự tể trị của Ngài trên đời sống bạn.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Kh 3:20
Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta.
**
Hai em bé trong máng cỏ
Năm 1994, có hai người Mỹ đã nhận thư mời từ một sở Giáo dục Nga đến Nga giảng dạy. Trong chuyến đi này, họ được mời đến rất nhiều nơi để dạy, đặc biệt trong đó có một cô nhi viện lớn.
Khoảng 100 em nam nữ được nuôi dưỡng ở đây, bao gồm những em bị bỏ rơi, bị ngược đãi, chúng được nuôi dưỡng bởi một chương trình chăm sóc của chính phủ. Hai người Mỹ nọ đã kể lại câu chuyện dưới đây.
Lúc đó đã gần mùa Giáng sinh, năm 1994, cũng là thời gian để các trẻ mồ côi được nghe câu chuyện Giáng sinh truyền thống, có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời chúng được nghe câu chuyện này. Chúng tôi kể về Mary và Giô sép đi đến thành Bết lê hem.
Vì không còn phòng nào trong quán trọ, họ đã phải tạm trong một chuồng chiên, và ở đó, hài nhi Jêsus đã được sinh ra, được đặt nằm trong máng cỏ. Suốt cả câu chuyện, bọn trẻ và cả những nhân viên của trại trẻ mồ côi đều ngồi im lặng lắng nghe, họ sửng sốt ngạc nhiên về câu chuyện.
Một vài người thì ngồi trên cạnh của chiếc ghế, cố gắng nuốt lấy từng lời chúng tôi kể.
Sau khi kể xong câu chuyện, chúng tôi đưa cho bọn trẻ ba mẩu giấy cạc tông để chúng làm chiếc máng chiên thô sơ. Mỗi đứa trẻ được phát cho một mẫu giấy nhỏ hình vuông màu vàng, được cắt ra từ những chiếc khăn giấy tôi mang theo. Không hề có lấy một mẫu giấy màu bán trong thành phố lúc bấy giờ.
Theo hướng dẫn, đám trẻ xé giấy và cẩn thận đặt từng mảnh giấy vào chiếc máng để làm rơm.
Những mảnh vải nhỏ, được cắt ra từ một chiếc áo không dùng nữa của một phụ nữ người Mỹ khi bà rời khỏi Nga, bây giờ được chúng tôi dùng làm chiếc mền cho hài nhi Jêsus. Những con búp bê được dùng làm hài nhi Jêsus thì được cắt từ tấm lều bạt của chúng tôi.
Đám trẻ có vẻ bận rộn làm chiếc máng của chúng, còn tôi đi vòng vòng để xem chúng có cần giúp đỡ gì thêm không.
Mọi việc suông sẻ cho đến khi tôi đến chiếc bàn bé Misha đang ngồi. Cậu bé chắc khoảng 6 tuổi, và đã làm xong chiếc máng của mình.
Khi tôi nhìn vào chiếc máng của cậu bé, tôi bỗng giật mình vì nhìn thấy không phải chỉ một hài nhi, mà có hai hài nhi trong máng. Nhanh chóng, tôi gọi người dịch thuật đến và nhờ bà hỏi cậu bé vì sao có đến hai hài nhi trong máng của cậu bé như vậy, không biết cậu bé có nghe và hiểu câu chuyện của chúng tôi kể hay không.
Vòng tay quanh ngực mình và nhìn vào tác phẩm máng cỏ đã hoàn thành, cậu bé bắt đầu kể lại câu chuyện với vẻ hết sức nghiêm túc.
Chỉ là một cậu bé nhỏ xíu, và mới chỉ được nghe về câu chuyện Giáng sinh lần đầu tiên, nhưng cậu thuật lại không thiếu một chi tiết nào — cho đến phần cậu kể về Mary đã đặt hài nhi Jêsus trong máng cỏ.
Bây giờ, Misha bắt đầu sáng tạo thêm. Cậu bé kể lại phần cuối theo cách riêng của mình, “Và khi bà Mary đặt hài nhi Jêsus vào máng cỏ, Chúa Jêsus nhìn thấy em và hỏi em có chỗ nào ở chưa? Em nói với Ngài rằng em không có mẹ, cũng không có ba, vì thế nên em chẳng có nơi nào để ở cả.
Rồi Chúa Jêsus bảo em rằng em có thể đến ở với Ngài. Nhưng em nói với Ngài không thể được đâu, bởi vì em chẳng có món quà nào tặng Ngài giống như những người khác có cả, ba Vua thì có đủ thứ quý giá, cả cậu bé đánh trống cũng có chiếc trống để tặng Ngài…
Nhưng em muốn ở với Chúa Jêsus lắm lận, vì thế, em mới nghĩ rằng em có thể dùng cái gì mình có để tặng Ngài. Em nghĩ nếu em giữ ấm cho Ngài, đó có thể là một món quà tốt.
Vì thế, em hỏi Chúa Jêsus rằng, “Nếu con giữ ấm cho Ngài, điều đó có đủ để trở thành một món quà dâng cho Ngài chăng?” Và Chúa Jêsus đã trả lời em rằng, “Nếu con giữ ấm cho ta, đó sẽ là món quà tốt nhất trong những món quà mọi người có thể tặng ta.”
“Và thế là em vào trong máng chiên với Chúa, rồi Chúa Jêsus nhìn em và Ngài bảo em rằng em có thể ở chung với Ngài mãi mãi.”
Khi cậu bé nhỏ Misha kể xong câu chuyện, mắt cô đã rướm nước và chảy tràn ra má. Cậu lấy hai tay che mặt, rồi gục đầu xuống bàn và khóc nức nở, đôi vai nhỏ run rẩy.
Một cậu bé mồ côi đã tìm thấy Đấng không bao giờ bỏ rơi hay ngược đãi cậu, Đấng sẽ ở với cậu luôn luôn.
Tôi học được rằng không phải cái gì bạn có trong cuộc đời này là đáng giá, mà là bạn có ai trong cuộc đời này mới là quan trọng.
Suy gẫm
Mùa Giáng Sinh lại đến, nhắc chúng ta nhớ về một tình yêu vô giá mà Đức Chúa Trời dành cho con người: Ngài đã ban Con một của Ngài xuống trần gian chết thay để chuộc tội lỗi cho chúng ta. Tình yêu ấy dành cho tất cả mọi người, không phân biệt màu da, giai cấp, địa vị…
Nếu bạn đã tiếp nhận tình yêu kì diệu ấy, bạn hãy mạnh dạn chia sẽ với người khác.
Nếu bạn chưa tiếp nhận tình yêu ấy, tình yêu ấy đang chờ đợi để được bạn tiếp nhận. Bạn có bằng lòng mở lòng mình ra và tiếp nhận tình yêu ấy không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
ITi 1:15
Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy;
**
Đôi giày vàng óng ánh
Trước Giáng sinh 4 ngày! Cảm xúc của mùa Giáng sinh dường như chưa đến với lòng tôi, ngay cả khi xe hơi đầy ngoài bãi đậu xe của những gian hàng giảm giá. Bên trong cửa hiệu, tình hình còn có vẻ tệ hại hơn với chật cứng người. Những chiếc xe đẩy cùng những người mua hàng cuối cùng đang đứng chật cả dãy hành lang.
Tại sao tôi lại đến đây hôm nay? Tôi tự hỏi. Chân tôi đau và đầu tôi nhức như búa bổ. Danh sách tôi mang theo là những người thân và bạn bè, họ vốn tự bảo rằng họ không cần quà cáp cho mùa Giáng sinh, nhưng tôi biết cảm giác tổn thương của họ nếu tôi không mua quà gì cho họ vào mùa lễ Giáng sinh này.
Mua quà cho những người đã có đầy đủ hết mọi thứ và thường hay phàn nàn về giá cả mắc mỏ của chúng… tôi sẽ xem xét để chọn những món quà với mục đích vui là chính thôi.
Vội vã, tôi chất đầy chiếc xe đẩy với những món hàng cuối cùng và nhanh chóng tiến về phía những hàng chờ dài ở quầy thanh toán tiền. Tôi chọn hàng ngắn nhất, nhưng chắc cũng phải chờ ít nhất 20 phút.
Đứng trước tôi là hai đứa bé – Đứa con trai khoảng 5 tuổi, và một đứa bé gái nhỏ hơn. Thằng bé mặc một chiếc áo khoác xơ xác, mang đôi giày thể thao to tướng và rách te tua dưới chân, còn chiếc quần jean thì ngắn cũn. Nó vuốt đi vuốt lại mấy đồng tiền trong đôi tay dơ bẩn.
Đứa em gái cũng ăn mặc tương tự như thằng anh. Trên đầu nó là một mớ tóc quăn xỉn lại vì đã lâu không gội. Khuôn mặt nhỏ có vẻ đang đói lắm, có lẽ nó chưa ăn tối. Cô bé đang cầm một đôi giày màu vàng óng ánh. Khi tiếng nhạc giánh sinh vang lên trong cửa hiệu, cô bé ngâm nga theo, nó hát sai giọng nhưng có vẻ rất hạnh phúc.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến gần được quầy tính tiền, cô bé cẩn thận đặt đôi giày lên quầy. Cô bé nâng niu chúng như thể một gia tài quý giá.
Người thu ngân đọc giá tiền lên, “Đôi giày này giá 6 đồng 9 xu nhé.”
Cậu anh trai bắt đầu đếm số tiền trên tay và cố lục lọi thêm trong túi áo. Cuối cùng, số tiền của cậu tổng cộng được 3 đồng 12 xu. “Anh nghĩ rằng chúng ra phải trả lại đôi giày rồi. Chúng ta sẽ trở lại sau, có thể là ngày mai, được không?” Cậu bé nói với em cách can đảm.
Khi nghe cậu anh trai nói đến đó, cô bé nhỏ òa khóc nức nở. “Nhưng Chúa Jêsus sẽ rất thích đôi giày này,” cô bé vừa khóc vừa nói.
“Ừ, chúng ta sẽ về nhà và làm thêm một chút nữa. Đừng khóc. Rồi chúng ta sẽ trở lại đây mua chúng mà,” đứa anh nói.
Nhanh chóng, tôi đưa 3 đồng cho cô thu ngân. Những đứa trẻ này đã phải đợi rất lâu trong hàng chờ này. Và, dù sao, đây cũng là mùa Giáng sinh!
Bất ngờ, một vòng tay ấm áp ôm lấy tôi và một giọng nói nhỏ xíu vang lên, “Cám ơn bà nhiều lắm.”
Tôi hỏi hai đứa nhỏ, “Hai cháu nói rằng Chúa Jêsus sẽ thích đôi giày này, vậy nghĩa là sao?”
Cậu bé trả lời, “Mẹ chúng cháu đang bệnh và chuẩn bị đi về Thiên đàng. Ba cháu bảo rằng mẹ có thể sẽ đi trước Giáng sinh để về với Chúa Jêsus.”
Tôi sửng sốt, như chết lặng đi!
Cô em nhỏ nói chen vào, “Cô giáo trường Chúa nhật của cháu bảo rằng những con đường ở Thiên đàng làm bằng vàng óng ánh, cũng giống như đôi giày này vậy. Có phải mẹ sẽ rất đẹp khi bước đi trên những con đường đó trong đôi giày này không?
Tôi không kiềm được nước mắt khi nhìn vào khuôn mặt đẫm nước của cô bé nhỏ. “Đúng rồi, chắc chắn mẹ các cháu sẽ rất đẹp.”
Im lặng, tôi tạ ơn Chúa đã dùng những đứa trẻ này để nhắc nhở chính tôi về tinh thần ban cho thật sự mà Ngài muốn trong mùa lễ Giáng sinh năm nay.
Suy gẫm
Mùa Giáng Sinh, Mùa Yêu Thương! Đây là dịp để chúng ta nhớ đến và cảm tạ tình yêu thương vĩ đại của Thượng đế dành cho con người, cũng là mùa để chúng ta nhớ lại và hâm nóng tình thân mến với gia đình, bạn hữu, những người thân yêu…
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được cảm động và chia sẻ tình yêu thương của Chúa đến một ai đó đang cần kíp, xin Chúa giúp để chúng ta có thể hưởng một mùa Giáng sinh thật sự mang ý nghĩa Yêu Thương!
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Lu 2:14
Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao, Bình an dưới đất, ân trạch cho loài người!
**
Chiếc hộp
“Sự lo lắng về thành công” bước vào ngưỡng cửa nhà tôi khi tôi được 44 tuổi. Nó đánh tôi bằng một cái vật nhọn hoắc: Sự tận tâm đến mức nô lệ của tôi cho nghệ thuật thoả thuận và cảm giác hài lòng khi chiến thắng. Giống như hầu hết những niềm thỏa thích khác, cái cảm giác phấn khích khi kiếm tiền đang bắt đầu mòn mỏi trong tôi. Tôi đã bắt đầu phải tự hỏi mình, “Bao nhiêu thì đủ đây?”
Có một vài điểm nào đó trong cuộc đời, chúng ta phải dừng lại để hỏi, có phải tất cả là đây sao? Điều làm tôi trăn trở là tôi không có câu trả lời. Tôi có một căn nhà to, một chiếc Jaguar, tôi thật sự có đầy đủ, và cả niềm tin tôi cũng có nữa. Tôi vốn rất năng nổ trong hội thánh. Không giống như nhiều người bạn cùng địa vị và tầng lớp như tôi, tôi lại có một cuộc sống hôn nhân tuyệt vời, và cuộc sống tôi không phạm lỗi lầm nào nghiệm trọng… Vậy tại sao tôi phải bối rối chứ?
Trong phút bối rối và cần sự giúp đỡ, phước hạnh của Chúa lại đổ trên tôi, dẫn dắt tôi đến với một người vô thần. Mike là một nhà tư vấn đầy chiến lược. Anh ta thật tài giỏi, có trực giác sắc bén, và là người đòi hỏi khắt khe. Anh không tin vào Đức Chúa Trời, nhưng tôi có thể làm chứng rằng Chúa đã làm việc trên anh ấy một cách không hề sai sót. Tôi tìm đến Mike bởi tôi muốn anh ta thiết lập cho tôi một kế hoạch thật chiến lược cho cuộc sống của tôi. Tôi có hàng tấn câu hỏi: Tôi nên làm gì với cuộc sống của tôi? Tôi nên đầu tư thời gian, năng lực và tài sản của mình vào đâu? Trong khi tôi quăng hàng đống câu hỏi ra, Mike đã hỏi tôi một câu hết sức đơn giản, “Cái gì trong cái hộp của anh?”
Tôi không có chút khái niệm nào về cái anh ta muốn bày tỏ và tôi đề nghị anh ta giải thích cho rõ.
Mike trả lời, “Tôi đã lắng nghe anh nói vài tiếng đồng hồ qua, cố gắng tìm xem thật sự thì cái gì đang ở trong cái hộp của anh. Nó chỉ có thể là TIỀN BẠC hoặc là CHÚA JÊSUS mà thôi, nhưng tôi không biết chắc đó là điều nào… Tôi không thể nói cho anh về kế hoạch chiếc lược về cuộc sống, nếu anh không cho tôi biết cái gì đang ở trong chiếc hộp của anh?”
Sau vài phút, tôi trả lời, ” À, nếu chỉ có thể chọn một mà thôi, tôi sẽ để Chúa Jêsus vào chiếc hộp của mình?!” Câu trả lời của tôi cho câu hỏi kia chính là một hành động của đức tin. Giống như mọi người, lòng tin cậy của tôi vào Đức Chúa Trời chính là nền tảng khi tôi theo đuổi nghề nghiệp của mình. Tôi đã thuyết phục rất nhiều người vốn e ngại để Chúa Jêsus ngự vào chiếc hộp của họ vì họ sợ không biết hành động đó sẽ dẫn đến điều gì. Trớ trêu thay, khi Chúa khiến tôi phải đầu hàng, thì Ngài đã mở ra cho tôi một con đường rất giống với con đường tôi vốn đã đi trên đó từ lâu.
Chúa Jêsus nói Ngài đến để cho chúng ta hưởng một cuộc sống sung mãn, cuộc sống đầy đủ nhất. Đa số chúng ta bị mất phần ân điển vì nghĩ rằng tôn giáo thì luôn hạn chế chúng ta làm nhiều điều. Nhưng khi để Chúa hoàn toàn tự do để dùng tôi trong mọi cách mà Ngài muốn, thì điều đó dẫn tôi đến một cuộc sống rộng rãi, tự do hơn chứ không phải là một cuộc sống bó buộc, hạn chế và bị hẹp lại như người ta tưởng.
Thật ra, không có gì là kỳ diệu về cuộc nói chuyện với Mike cả. Nhưng đó là một công cụ Chúa dùng để làm tôi chú ý. Tôi không thể nói với bạn rằng bạn nên đặt điều gì vào chiếc hộp của mình, nhưng sớm hay muộn, bạn sẽ phải lựa chọn. Cuộc sống của bạn sẽ phải chạy đua theo điều quan trọng nhất của cuộc sống mình, điều mà bạn đặt trong chiếc hộp quý giá kia. Đừng đợi cho đến khi thấy thảm họa, nhưng hãy lắng nghe tiếng nói nhỏ nhẹ và hãy tìm kiếm điều mà tâm linh mình thật sự kiếm tìm…
Suy gẫm
Một năm mới đến! Đây là thời gian chúng ta thường dành để nhìn lại một năm cũ với những thành công, thất bại, và rồi cũng sẽ lập kế hoạch, đặt ra mục tiêu cho năm mới.
Hãy nhân cơ hội này để xác quyết lại một lần nữa: trung tâm điểm của cuộc sống chúng ta là gì? Vì khi đã xác định rõ điều quan trọng này, bạn và tôi sẽ bước đi không sai lạc, và kết quả sẽ hướng tới một cuộc sống sung mãn, thỏa lòng và ý nghĩa nhất.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Phi 3:8
Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quí hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ.
**
Mẹ Têrêsa, kẻ nghiện rượu và tôi
Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày tôi gặp Mẹ Têrêsa. Hơn thế nữa, tôi sẽ chẳng thể quên được điều bà dạy tôi về tình yêu thương đối với người khác, đặc biệt là những người nghèo khổ.
Bà không phải chỉ mới nổi tiếng như trong cuối thập kỷ bảy mươi, mà giờ đây bà đã có hàng trăm ngàn người ngưỡng mộ trên toàn thế giới. Tôi là một chủ bút cho một tờ báo Thiên Chúa Giáo ở đảo Rhode, và khi tôi nghe rằng Mẹ Têrêsa sẽ có buổi nói chuyện ở Boston, tôi quyết định đến đó dự.
Tôi vào hội trường sớm để kiếm một chỗ ngồi tốt, nhưng cuối cùng tôi biết mình đã được ưu ái dành cho một chỗ ngồi trong khu dành cho giới báo chí. Trong lúc chờ đợi buổi nói chuyện bắt đầu, tôi đi vòng vòng nói chuyện với một phóng viên khác, cũng là một người Albania như mẹ Teresa vậy. Khi chúng tôi đang nói chuyện thì một linh mục đến bảo với người bạn mới của tôi, “Mẹ Teresa sẽ rất vui được gặp anh ngay bây giờ.”
Với sự táo bạo bất ngờ khác với bản tính, tôi nhón bước đi theo anh. Những phóng viên khác có vẻ hơi khó chịu. Chúng tôi đụơc dẫn vào một căn phòng nơi một phụ nữ già nua trong bộ sari màu xanh trắng đang ngồi nói chuyện thân tình với Hồng y Humberto Medeiros, sau đó là Tổng giám mục vùng Boston.
Tôi không thể tưởng tượng bà lại nhỏ bé đến như vậy. Nhưng điều tôi nhớ nhất là nụ cười của bà, khuôn mặt đầy nếp nhăn, và cách bà cúi chào tôi khi tôi được giới thiệu, cứ như thể tôi là dòng dõi hoàng tộc vậy.
Bà chào tất cả mọi người như vậy, không phải chỉ riêng tôi. Tôi nghĩ nếu Chúa Jêsus Christ bước vào phòng này thì bà cũng sẽ chào Ngài bằng thái độ y như vậy. Cách cư xử của bà truyền tải một thông điệp,”bạn là một vị thánh.”
Nhưng cuộc gặp gỡ ấy không đáng nhớ bằng điều bà đã dạy tôi về cách yêu thương mọi người. Cho đến ngày hôm đó, tôi vẫn luôn nghĩ về lòng nhân từ, từ thiện đơn giản là đối xử tốt với mọi người. Nhưng với Mẹ Têrêsa thì hơn thế gấp nhiều lần.
Trong buổi nói chuyện, bà kể cho chúng tôi cách nào bà và các thành viên trong hội Công tác thiện nguyện của bà đã tìm để gặp được Chúa Jêsus Christ ở những người nghèo nhất trong vòng những người nghèo.
Bà kể một câu chuyện về một nữ tu đã dành cả một ngày để tắm cho một người ăn mày đầy những thương tích sắp chết, người được đem đến cho bà từ những đường phố ở Calcutta. Giọng của Mẹ Têrêsa hạ xuống như tiếng thì thầm khi bà bảo với cả hội trường — đang im phăng phắc lắng nghe, thực tế là, người nữ tu kia đang tắm cho chính Chúa Jêsus với những thương tích trên người.
Bà nhấn mạnh rằng Chúa Jêsus Christ thử xem tình yêu của những môn đồ dành cho Ngài bằng cách ẩn mình trong những hình ảnh kịch cỡm, để xem chúng ta có thấy Ngài hay không.
Vài đêm sau đó, tôi rời văn phòng lúc trời đã tối đen, bỗng một người say rượu xáp lại gần. Anh ta thật dơ bẩn, rách rưới và hôi hám kinh khủng.
“Anh có biết xe buýt đã chạy đi chưa?” Anh ta hỏi.
Một chiếc xe buýt duy nhất đậu ở góc đường kia là chiếc xe tải chở những người không nhà đến một bếp ăn từ thiện miễn phí.
“Anh lỡ chuyến xe mất rồi,” tôi bảo anh. Rồi tôi chợt nghĩ về Mẹ Têrêsa. Tôi không hề nghĩ được Chúa lại có thể cải trang thành một thằng bợm như thế này, nhưng tôi có thể thấy được con người đang đứng trước mặt cần một bữa ăn. Mà cái bếp ăn từ thiện kia thì rất xa đường tôi đi…
“Nào, lại đây, tôi chở anh đi,” tôi nói, trong lòng hy vọng anh ta đừng ói trên xe mình.
Anh ta nhìn rất bất ngờ, vui sướng và hơi kinh ngạc. Anh dò xét tôi bằng cặp mắt lờ đờ của người say. Tiếp theo anh ta nói với tôi qua hơi rượu rẻ tiền, và điều đó xác nhận những điều Mẹ Têrêsa đã dạy tôi.
“Nói đi,” anh ta bảo, “anh chắc là biết tôi.”
Suy gẫm
Lòng nhân từ vốn thường xuyên được nhắc tới trong đời sống của người Cơ đốc, chúng ta muốn sống nhân từ giống như Chúa chúng ta. Tuy nhiên, sống trong một xã hội mà tình thương và lòng nhân từ ngày càng bị hạn chế, chúng ta cũng dễ dàng thực hiện lòng nhân từ bằng lời nói hơn là hành động thực tiễn — giống như thầy tế lễ hay người Lêvi trong câu chuyện người Samari nhân lành mà Kinh Thánh chép.
Xin Chúa giúp đỡ, để chúng ta học theo Chúa, mặc lấy lòng nhân từ thật và giúp đỡ kẻ khó khăn quanh mình.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 25:34-40
34 Bấy giờ, vua sẽ phán cùng những kẻ ở bên hữu rằng: Hỡi các ngươi được Cha ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất. 35 Vì ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; ta khát, các ngươi đã cho ta uống; ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước ta; 36 ta trần truồng, các ngươi mặc cho ta; ta đau, các ngươi thăm ta; ta bị tù, các ngươi viếng ta. 37 Lúc ấy, người công bình sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, khi nào chúng tôi đã thấy Chúa đói, mà cho ăn; hoặc khát, mà cho uống? 38 Lại khi nào chúng tôi đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà mặc cho? 39 Hay là khi nào chúng tôi đã thấy Chúa đau, hoặc bị tù, mà đi thăm viếng Chúa? 40 Vua sẽ trả lời rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy.
**
Tha thứ cho kẻ thù nghịch
Tôi đã gặp ông ta, một gã hơi hói, to con chắc nịch trong chiếc áo măng tô xám, cầm chiếc nón màu nâu hững hờ trên tay vào một ngày ở Munich trong nhà thờ. Sau buổi nói chuyện của tôi, mọi người bắt đầu tràn ra khỏi tầng hầm, di chuyển giữa những hàng ghế gỗ để ra ngoài. Đó là năm 1947, và tôi từ Hòa Lan đến nước Đức này để chia sẻ một bài giảng về sự tha thứ của Chúa.
Đó là sự thật mà mọi người cần nghe nhất lúc đó trên mảnh đất đầy cay đắng của bom dội, và tôi đến để chia sẻ với họ bức tranh tinh thần mà tôi yêu thích nhất. Có lẽ vì biển không bao giờ xa xôi đối với tâm trí của những người Hòa Lan, tôi thích nghĩ rằng đó chính là nơi để những tội lỗi được tha thứ bị vất bỏ đi. Tôi đã nói, “Khi chúng ta thú nhận tội lỗi mình, Chúa sẽ ném những tội lỗi ấy vào tận đáy sâu thẳm của đại dương, mãi mãi. Và ngay cả khi tôi không thể tìm một đoạn Kinh thánh nào nói như vầy, nhưng mà tôi tin rằng Chúa chắc sẽ để một cái bảng hiệu ngay chỗ đó là, “Cấm câu cá!”
Những khuôn mặt nghiêm trang nhìn tôi chằm chằm, như thể không dám tin thế. Sau buổi nói chuyện lần đó, vào năm 1947, đã không có ai hỏi một câu hỏi nào. Sau khi buổi nói chuyện kết thúc, mọi người đứng lên trong im lặng, im lặng dọn dẹp Kinh thánh, Thánh ca của mình vào giỏ xách, và im lặng rời khỏi phòng nhóm.
Và đó chính là lúc tôi nhìn thấy ông ta — đang cố gắng bước ngược hướng với tất cả mọi người. Một chốc, tôi thấy chiếc măng tô và chiếc mũ vành màu nâu; tiếp theo, một bộ đồng phục màu xanh dương và chiếc nón lưỡi trai có hình đầu lâu và hai chiếc xương chéo nhau.
Mọi chuyện trở về trong trí tôi thật nhanh chóng: Căn phòng rộng lớn với những ánh đèn chói mắt trên cao rọi xuống; một đống quần áo và giày dép gom lại để giữa sàn nhà, sự xấu hổ khi phải bước đi trần truồng trước mặt người đàn ông này. Tôi có thể thấy vẻ nhợt nhạt của em gái tôi phía trước, ốm trơ xương trong lớp da khô nẻ. “Betsie, lúc đó em đã gầy guộc quá sức tưởng tượng!”.
Nơi đó là là nhà tù Ravenbruch, và người đàn ông đang tiến về phía tôi là một quản ngục – một trong những viên quản ngục tàn ác nhất.
Bây giờ anh ta đang đứng trước mặt tôi, đưa tay ra bắt: “Một bài chia sẻ thật hay, bà Fraulein! Thật tuyệt vời biết bao khi biết được điều đó, như bà nói đó, tất cả tội lỗi của chúng ta đã bị quăng xuống đáy biển hết rồi!”
Và tôi, người vừa mới chia sẻ liến thoắng về sự tha thứ, lại đang lần tay vô túi áo thay vì bắt tay với bàn tay đang giơ ra kia. Ông ta không nhớ tôi, chắc chắn rồi — làm sao ông ta có thể nhớ một tù nhân trong hàng ngàn nữ tù nhân được?
Nhưng tôi nhớ ông ta như in, và cả chiếc roi da lủng lẳng ở thắt lưng ông ta nữa. Tôi đang mặt đối mặt với một trong những kẻ bắt giam mình, hành hạ mình, và máu tôi dường như đông cứng lại.
“Bà đã nhắc tới nhà tù Ravenbruck trong bài nói chuyện khi nảy,” ông ta chậm rãi nói, “tôi vốn là một cai ngục ở đó.” Không, vậy là ông ta đã không nhớ ra tôi rồi…
“Nhưng sau đó,” ông ta tiếp tục, “tôi đã trở nên một tín đồ Cơ đốc. Tôi biết rằng Chúa đã tha thứ hết cho tôi những tội ác tôi làm lúc trước ở trong tù, nhưng tôi muốn nghe nó từ chính miệng của bà, Fraulein.” — một lần nữa, bàn tay ông đưa ra — “Liệu bà có tha thứ cho tôi không?”
Và tôi đứng đó — Tôi, một người đã phạm nhiều tội lỗi, cần được Chúa tha thứ và tha thứ mãi — bây giờ lại không thể tha thứ cho người khác. Betsie đã chết ở nơi đó — liệu ông ta có thể xóa đi những đau đớn của Betsie khi phải chết lần chết mòn không mà lại hỏi xin sự tha thứ?
Ông ta không thể cứ đứng đó và đưa tay ra quá lâu như vậy — bàn tay đã buông xuống — nhưng đối với tôi, vài giây vừa qua như thể mấy tiếng đồng hồ, khi mà tâm hồn tôi tranh chiến với cái điều khó khăn nhất có thể làm trong đời này.
Vì sao tôi phải làm — tôi biết rõ. Thông điệp rằng Chúa tha thứ cho chúng ta cần phải có một điều kiện: Chúng ta cũng phải tha thứ cho những người làm tổn thương chúng ta. Chúa Jêsus đã phán, “Nếu các ngươi không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi.”
Tôi biết đây không chỉ là điều răn của Chúa, nhưng đây chính là kinh nghiệm sống hàng ngày. Từ khi chiến tranh kết thúc, tôi đã có một gia đình ở Hòa Lan dành cho những nạn nhân của những đòn tra tấn dã man của chủ nghĩa phát xít. Những ai có thể tha thứ cho kẻ thù của họ thì cũng có thể trở lại thế giới bên ngoài tiếp tục sống. Những ai còn giữ những cay đắng cũ đó thì sẽ vẫn là những người bệnh tật. Nó thật đơn giản và kinh khủng như vậy thôi.
Và tôi vẫn đứng đó với sự lạnh lùng đang bám chặt trái tim mình. Nhưng hành động tha thứ không phải là hành động của cảm xúc — tôi cũng biết như vậy. Tha thứ là một hành động của ý chí, và ý chí có thể hình thành mà không can hệ đến nhiệt độ của con tim. “Chúa Jêsus, xin hãy giúp đỡ con!” Tôi cầu nguyện thầm trong lòng. “Xin hãy giúp con có thể đưa tay lên. Con có thể làm như vậy. Xin Chúa tiếp thêm cho con sức mạnh.”
Và như một khúc gỗ, như cái máy, tôi đưa tay ra nắm lấy bàn tay đang giang rộng chờ đợi. Và khi tôi làm điều đó, một điều lạ lùng đã xảy ra. Cảm giác như một luồng điện chạy từ hai vai xuống tay tôi truyền qua bàn tay tôi đang nắm. Và rồi sự chữa lành này như một cơn lũ tuôn chảy trong tôi, khiến tôi òa khóc.
“Tôi tha thứ cho ông, người anh em trong Chúa… Tôi tha thứ từ đáy lòng tôi!” Tôi khóc mà nói.
Chúng tôi siết lấy tay nhau thật lâu — một người cai ngục và một nữ tù nhân. Tôi đã chưa bao giờ trải nghiệm tình yêu của Chúa thật mạnh mẽ như tôi vừa trải qua. Nhưng dầu vậy, tôi biết đó không phải là tình yêu của tôi. Tôi đã cố gắng, nhưng tôi không có sức mạnh để vượt qua những ngăn trở. Đó chính là quyền năng của Thánh Linh như được chép ở RoRm 5:5 “… vì sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta.”
Suy gẫm
Tha thứ không phải là một điều dễ dàng đối với con người. Chúng ta thường mong ước được tha thứ lỗi lầm mình, nhưng lại không thể tha thứ cho những ai đã làm tổn thương đến mình.
Xin Chúa nhắc chúng ta nhớ rằng Ngài đã tha thứ tất cả những tội ác gớm ghê của chúng ta, và xin Ngài thêm sức để chúng ta có thể tha thứ cho những kẻ đã làm tổn hại đến chúng ta nữa.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 6:14-15
14 Vả, nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15 Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi.
**
Mùi của hạt mưa
Cơn gió lạnh tháng Ba đang nhảy múa bên ngoài, một cái đêm lạnh chết người tại Dallas khi vị bác sĩ bước vào căn phòng nhỏ của Diana Blessing trong bệnh viện. Cô vẫn còn rất yếu ớt sau khi mổ, và chồng cô, David, đang nắm tay cô như cùng khích lệ nhau chờ nghe những tin tức mới nhất.
Buổi trưa hôm đó, ngày 10 tháng Ba năm 1991, những biến chứng bắt buộc Diana, một sản phụ mang thai được 24 tuần, phải trãi qua một cuộc mỗ khẩn cấp để lấy đứa con gái bé bỏng của họ, Danae Lu Blessing, ra khỏi bụng mẹ.
Khi nhìn thấy em bé chỉ dài 30cm và nặng khoảng 700 gram, họ hiểu rằng nó đang trong tình trạng hiểm nghèo vì sanh thiếu tháng. Nhưng tệ hơn, những lời nhẹ nhàng của vị bác sĩ lại như những quả bom dội vào nỗi lo lắng của họ. “Tôi không nghĩ rằng đứa bé có thể sống được,” ông cố gắng nói với sự thông cảm và giọng thật tử tế. “Chỉ có 10% cơ hội để đứa bé sống qua đêm nay, thậm chí, nếu có cơ hội mong manh rằng nó sống được, thì tương lai của đứa bé có thể sẽ trải qua nhiều khó khăn.”
Chết lặng với những điều không thể tin được, David va Diana lắng nghe bác sĩ miêu tả những nguy cơ tàn phá sức khỏe của Danae trong tương lai nếu đứa bé co thể sống. Nó có thể không nói được, có thể nó sẽ bị mù, nó chắc chắn sẽ bị tổn thương não, liệt não hoặc có thể bị tâm thần, và còn thêm nhiều điều nữa.
“Không! Không thể!” Đó là tất cả những điều mà Diana có thể nói. Cô và David cùng với cậu con trai 5 tuổi Dustin đã vẽ nên một bức tranh hạnh phúc khi gia đình họ có bốn thành viên với cô con gái sắp ra đời. Bây giờ, chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ, giấc mơ của cả gia đình đang tan biến thành mây khói.
Trong suốt những giờ phút đen tối từ khuya cho đến sáng, mạng sống bé Danae như treo trên mành chỉ. Diana lúc tỉnh lúc mê do tác dụng của thuốc và cô luôn hy vọng và tin quyết rằng đứa con gái bé nhỏ của mình sẽ sống và sống khỏe mạnh, hạnh phúc. David thì hoàn toàn tỉnh táo và lắng nghe tất cả các chi tiết về số phận thảm khốc của đứa con gái nhỏ, dù rằng nó còn sống để rời khỏi bệnh viện này, thì cũng không thể khỏe mạnh bình thường được. Anh biết rằng mình cần phải giúp đỡ vợ đối diện với sự thật này.
Diana nhớ lại, “David bước vào phòng và nói chúng ta cần nói chuyện về việc sắp đặt lễ tang. Tôi cảm thấy thật tội nghiệp cho anh ấy, bởi anh đã làm mọi thứ, cố gắng nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng tôi không thèm nghe những gì anh ấy nói.”
Tôi trả lời với anh, “Chuyện đó không thể xảy ra đâu, đừng hòng! Em không cần biết bác sĩ nói gì! Danae sẽ không chết! Một ngày nào đó, nó sẽ khỏe lại và nó sẽ về nhà với chúng ta!”
Như đáp lại cái ao ước của người mẹ, Danae dành giật sự sống từng giờ từng giờ. Với sự giúp đỡ của các thiết bị y tế và cùng với phép lạ, cơ thể nhỏ xíu của bé có thể kéo dài sự sống qua vài ngày đầu. Nhưng sự đau đớn khác xảy đến cho David và Diana, bởi vì hệ thần kinh của Danae chưa phát triển đủ trong cơ thể bé, cho nên ngay cả những chiếc hôn nhẹ nhất hay sự đụng chạm chăm sóc cũng làm cho bé khó chịu – vì thế, bố mẹ bé cũng không thể ôm ghì lấy em bé để truyền cho con sức mạnh tình yêu của họ.
Tất cả những gì họ có thể làm trong khi Danae phải chiến đấu một mình bên dưới ánh đèn tử ngoại trong đống dây nhợ của các thiết bị hổ trợ là cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài ở cùng đứa con gái quý báu này của họ. Dường như Danae chưa có phút giây nào khỏe hơn trong suốt quá trình theo dõi. Nhưng sau nhiều tuần, trọng lượng cơ thể bé tăng thêm một chút, sức khỏe bé cũng tăng thêm một chút xíu.
Cuối cùng, khi Danae được 2 tháng tuổi, lần đầu tiên, cha mẹ bé đã có thể ôm con trong tay mình. Và rồi 2 tháng nữa lại trôi qua, nhưng các bác sĩ vẫn tiếp tục khuyến cáo một cách chắc chắn rằng cơ hội để bé sống được — dù rằng sống không như người bình thường — cũng chỉ kề cận con số không.
Cuối cùng Danae cũng đã từ bệnh viện trở về nhà, giống như những gì mà mẹ bé đã tiên đoán. Hôm nay, sau những ngày kinh khủng đó 5 năm, Danae đã là một cô bé nhỏ xíu nhưng nhanh nhẩu với đôi mắt xanh long lanh và mang một mầm sống không gì dập tắt được. Cô bé không có dấu hiệu suy yếu nào về thể xác hay tâm thần cả. Đơn giản, bé có mọi thứ như một đứa con nít bình thường có. Nhưng cái điều hạnh phúc này có lẽ chưa là gì so với chính câu chuyện của bé.
Một buổi trưa nắng gắt vào mùa hè năm 1996, gần nhà của họ ở Irving, Texas, Danae đang ngồi trên đùi mẹ ở ghế đá trong công viên, nơi đội bóng rổ của cậu anh Dustin đang luyện tập. Như thường lệ, Danae nói chuyện không ngớt với mẹ và cả những người lớn ngồi gần đó. Bỗng nhiên cô bé chợt yên lặng.
Lấy hai tay ôm choàng lên trước ngực, Danae hỏi, “Mẹ có ngửi thấy gì không?”
Ngửi thấy mùi không khí và nhận thấy trời nổ sấm, Daina trả lời, “Ừ nhỉ, có mùi như mùi mưa vậy.”
Danae nhắm mắt lại và lại hỏi mẹ, “Mẹ có ngửi thấy không?”
Một lần nữa, mẹ cô bé trả lời, “Ừ, mẹ nghĩ chúng ta coi chừng bị ướt đấy, có mùi mưa thì phải.”
Danae lắc đầu, vỗ nhẹ nhẹ lên hai vai gầy guộc của mình với đôi tay nhỏ xíu và nói to, “Không, có mùi của Ngài đấy. Có mùi như của Chúa khi mẹ dựa đầu vào ngực Ngài đấy.”
Nước mắt ràn rụa trên mặt Diana khi cô bé con Danae nhảy xuống khỏi đùi mẹ và chạy đi chơi với những đứa bé khác.
Trước khi những trận mưa đến, những lời của cô con gái nhỏ đã củng cố thêm điều mà Diana và cả gia đình có phước này đã biết, ít nhất là điều đó luôn luôn ở trong lòng họ…
Trong những ngày và đêm dài của hai tháng đầu đời mình, khi những dây thần kinh của Danae quá nhạy cảm đến nỗi cha mẹ cô bé không thể đụng chạm đến cô, thì Chúa đã ôm Danae trong ngực Ngài và mùi hương của tình yêu của Ngài đã tỏa ra khiến cô bé nhớ thật rõ ràng như vậy.
Suy gẫm
Bạn có đang phải đối diện với những hoàn cảnh mà bạn cảm thấy dường như bế tắt: bạn mang trong người một bệnh tật mà bạn nghĩ mình không thể vuợt qua, bạn vừa thất bại và nghĩ rằng mình không thể đứng dậy nỗi, hoàn cảnh khó khăn khiến bạn buông xuôi tất cả…
Chúa chính là niềm hi vọng, là niềm ủi an, là chổ dựa vững chắc trong cuộc đời chúng ta. Hãy đến với Ngài, Chúa sẽ làm những điều kỳ diệu để vực chúng ta dậy, đem đến cho chúng ta một cuộc sống tươi mới và tràn đầy hi vọng trong Ngài.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Mat 11:28
Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.
**
Bởi chiếc nhẫn này…
Tôi vừa trở thành vợ của một vị mục sư thì chồng tôi đem tôi đến Oklahoma. Chúng tôi đã cãi nhau cho đến khi chúng tôi học cách yêu nhau trong suốt hai năm sống ở đó.
Tôi là một cô gái mới đến vùng đó lần đầu tiên, mọi thứ đều rất xa lạ. Tôi không biết ai ở đó cả, và ngay cả Brad, chồng tôi, tôi cũng chỉ biết anh một cách cơ bản mà thôi. Anh luôn bận rộn với công việc Hội Thánh, và đương nhiên là tôi mắc kẹt ở chỗ đó: không tiền, không công việc, và không bạn bè. Tôi thật khó chịu trong vai trò mới và rất bực mình khi người ta nói về tôi là “vợ của diễn giả.” Tôi đã quên mất cái vinh dự được làm vợ một người hầu việc Chúa là thể nào.
Những tín đồ ở đó có cố gắng để làm bạn với tôi, nhưng tôi quá bận rộn với những nỗi cô đơn và giận dữ riêng, và tôi muốn tỏ cho Brad biết điều đó. Tôi vừa dè bĩu vừa soạn đồ đạc, hay vừa khóc lóc than van vừa sửa soạn đồ đạc, hoặc có thể vừa quăng đồ vào anh và soạn đồ đạc để ra đi. “Em đi đây!” Tôi sẽ hét vào mặt Brad khi anh trở về nhà. Với 50 xu trong túi, tôi không biết phải đi đâu, nhưng tôi cương quyết ra đi rồi.
Brad nói với tôi, “Anh không cần em ở lại đâu,” và cái kiểu nói chuyện đó chỉ làm cho tôi quay lưng lại và hét tướng lên, “Được rồi, em sẽ ở lại, đừng có cố mà ngăn em!” Anh nghĩ anh là ai chứ? May mắn lúc đó tôi chưa đến nỗi làm anh tức để đá tôi ra khỏi nhà.
Giữa những lần tôi sửa soạn đồ đạc để ra đi rồi cất vào tủ lại mỗi ngày, tôi nhớ lại mình đã hứa sẽ yêu Brad mãi mãi, cho dù trong thuận cảnh hay nghịch cảnh. Trong buồn khổ, tôi đã tìm cách để tự kiếm niềm vui. Tôi hái những quả hồ đào trong sân trước nhà mình. Và tôi nhanh chóng nhận ra dù chúng tôi không có tiền, những quả hồ đào cũng có thể dùng làm quà Giáng sinh. Sau đó, tôi kiếm được một công việc. Thật tốt quá!
Nhưng rồi một hôm, chồng tôi trở về nhà và tuyên bố anh được một hội thánh ở Louisiana mời. Khổ không, tôi vừa mới học được cách sống ở Oklahoma!
Và kịch bản cũ lặp lại, tôi hờn dỗi và than vãn trên đường đến Louisiana. Nhưng có điều gì đó khiến tôi dừng lại. Chúng tôi đang trên đường ngang qua Texas và bỗng nhìn thấy một quả bóng tuyết khổng lồ trong suốt như pha lê. Một trận bão tuyết đã đi qua vùng này vài ngày trước, và bây giờ trước mắt chúng tôi là một cảnh đẹp chưa từng thấy. Bạn thấy không, giữa khung cảnh đẹp lạ lùng đó, là tôi — đang cằn nhằn cử nhử chồng mình.
Trên đường đi, ở giữa khoảng từ Denton và Sulphur, tôi tháo chiếc nhẫn cưới của mình ra, đặt tạm lên váy áo, bởi tôi muốn xoa một chút kem dưỡng da. Mải chiêm ngưỡng những mảng tuyết đông thành đá kia, tôi quên đeo nhẫn lại vào tay. Ba giờ sau đó, tôi nhìn xuống và nhận ra tôi đã làm mất chiếc nhẫn cưới đâu đó trên đường cao tốc, khi tôi xuống xe để chụp hình chiếc xe ngựa độc mã chạy ngang. Nhưng mà đường cao tốc nào? Mọi thứ đều giống nhau trong cơn bão tuyết, đặc biệt là khi bạn đi trên những vùng xa lạ như vậy.
“Anh sẽ mua cho em chiếc nhẫn khác,” chồng tôi bảo.
Tôi hiểu rõ điều anh nói, nhưng chiếc nhẫn kia là vật kỷ niệm vô giá. “Không có cái gì thay thế được chiếc nhẫn đó hết,” tôi khóc ròng.
“Em yêu, chúng ta không biết chỗ nào để bắt đầu mà tìm,” anh nói. “Không, chúng ta sẽ KHÔNG trở lại đâu,” Anh nhấn mạnh như vậy, trong khi anh quay đầu xe và quay lại tìm chiếc nhẫn.
Chúng tôi mất hàng giờ để tìm lại khu vực mà chúng tôi đã xuống xe. Thỉnh thoảng, có vài người thiện chí đến kéo xe của họ ra khỏi đường chính, rồi hỏi chúng tôi, “ông bà bị mất cái gì thế?” Có lúc cả mười chiếc xe nằm bên lề đường vì nhiều người phụ kiếm với chúng tôi. Nhưng đến lúc mặt trời lặn, việc tìm kiếm vẫn dường như vô vọng. Cổ họng tôi khô đắng, tim như bị bóp nghẹn.
“Nào, hãy đối diện với thực tế, em yêu, mình mất chiếc nhẫn đó rồi,” Brad nói. “Anh biết em buồn lắm. Anh hứa sẽ cố gắng tìm chiếc nhẫn thay thế thật giống chiếc cũ.”
Tôi biết anh nói đúng. Quãng đường đi bộ trong không khí lạnh giá hôm đó cho tôi thời gian để nhớ lại mọi chuyện đã qua trong quá khứ, những ngày tháng tôi sống với chồng mình. Những điều tôi nhìn thấy trong trí óc hoàn toàn không phải là những cảnh vui. Tôi đã bao lần nguyền rủa, đã nổi xùng, đay nghiến và than khóc, và hành động như một đứa bé hỗn láo, ngang ngược. Tôi nhìn chồng mình thật lâu, anh đang đi tới đi lui trên tuyết lạnh. Anh đã lái xe 3 tiếng đồng hồ để đến nơi hoang vắng này, giữa trận bão tuyết mà chẳng hề nghĩ gì cho riêng mình, chỉ cố gắng để tìm cái vật quan trọng với tôi mà thôi.
Chiếc nhẫn có thể mất rồi, nhưng không có gì có thể thay thế được chồng tôi. Đột nhiên, chiếc nhẫn dường như chẳng còn quan trọng gì nữa. Tôi quyết định ngay rằng mình sẽ không nghĩ về bản thân mình quá nhiều nữa.
Suy nghĩ vậy, tôi mở cửa xe và bước ra ngoài. Một cái gì đó làm tôi chú ý… Kìa, chiếc nhẫn cưới của tôi! Tôi chộp lấy nó và đưa lên vẫy vẫy. Brad từ đàng xa chạy vội lại, mắt anh lộ rõ niềm vui. Rồi anh cầm tay tôi lên và đeo nhẫn vào. “Đây mới đúng là chỗ cho chiếc nhẫn này đây,” anh nói thì thầm. Tôi nhìn vào mắt anh, và biết được mình đang có điều mà mình đang tìm kiếm. Đó không phải là chiếc nhẫn cưới của tôi — mà chính tôi, người đã đánh mất bản thân mình.
Cuộc đời của người mang chức vụ mục sư chẳng có thể thay đổi. Điều duy nhất thay đổi là chính mình tôi. Chúng tôi vẫn tiếp tục di chuyển chỗ ở, di chuyển nhiều hơn là tôi thích. Và tôi vẫn phải bắt đầu lại hoài, mỗi khi chúng tôi đến chỗ mới. Nhưng tôi đã học biết cách quý trọng tên gọi “bà vợ của mục sư” mà người khác hay gọi.
Suy gẫm
Tình yêu là món quà thiêng liêng đến từ Thượng đế. Ngoài tình yêu lớn lao từ Thiên Chúa, Ngài cũng ban cho mỗi chúng ta những người yêu thương để nâng đỡ, chia sẻ cuộc sống ở trần gian này.
Nhân ngày lễ Tình Yêu 14-2 năm nay, xin Chúa chúc phước cho tình yêu của quý vị và các bạn. Với những ai đã lập gia đình, xin Chúa nhắc nhở lại giao ước quý vị đã từng lập trong ngày cưới của mình, để tiếp tục sống và xây dựng gia đình đầy phước hạnh trong Chúa. Những ai đang tìm hiểu nhau, xin Chúa hướng dẫn để các bạn kinh nghiệm được tình yêu thật và nhận lấy ơn phước lớn Chúa dành trên đời sống các bạn.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Ro 12:16
Trong vòng anh em phải ở cho hiệp ý nhau; đừng ước ao sự cao sang, nhưng phải ưa thích sự khiêm nhường. Chớ cho mình là khôn ngoan.
**
Những vết thẹo trong cuộc đời
Cách đây vài năm, vào một mùa hè nóng bức ở miền Nam bang Florida, một cậu bé quyết định ra bơi ở cái hồ nhỏ bên cạnh nhà. Trong lúc vội vàng muốn nhảy xuống bể nước mát, cậu bé chạy ra cửa sau, để lại quần áo, giày vớ ở đó rồi chạy đi. Cậu nhảy ùm xuống nước và bơi thẳng về phía giữa hồ mà không hề biết rằng có một con cá sấu đang bơi ngược lại từ bờ bên kia.
Cha cậu đang làm việc ở sân sau, chợt trông thấy một cảnh tượng quá sức hãi hùng, đứa con trai mình và cá sấu đang bơi ngày một gần nhau hơn. Trong nỗi hoảng sợ, ông chạy về phía hồ nước, la lớn hết sức gọi cho con trai. Nghe tiếng cha, cậu bé chợt nhận ra mối hiểm nguy cận kề và lập tức quay đầu bơi hết tốc lực vào bờ, nơi cha mình đang lo lắng gào thét.
Nhưng đã quá trễ. Ngay khi cậu sắp đến được với cha, con cá sấu đã đến kịp cậu bé. Từ trên bờ, người cha chộp lấy cánh tay đứa con trai, nhưng con cá sấu đã ngoặm vào chân cậu. Thế là bắt đầu một cuộc chiến giằng co lạ thường giữa hai bên.
Tuy rằng con cá sấu mạnh sức hơn người đàn ông nọ, nhưng tình thương mãnh liệt của một người cha khiến ông không buông tay chịu thua. May mắn, có một người nông dân lái xe đi ngang qua, nghe tiếng kêu la thất thanh, đã vội lái chiếc xe tải lao tới, ông ta lấy súng và bắn chết con cá sấu.
Điều lạ lùng là, sau nhiều tuần lễ chữa trị trong bệnh viện, cậu bé cuối cùng đã sống sót. Đây quả là phép lạ. Tuy vậy, đôi chân của cậu có những vết thẹo khủng khiếp bởi cuộc tấn công dữ dội của con cá sấu. Và, trên cánh tay cậu, cũng có những vết xước dài và sâu, do móng tay của người cha đã bấu vào thịt của cậu khi ông cố sức dành giật cậu con trai với cá sấu hung dữ.
Một phóng viên báo chí đã tìm đến phỏng vấn cậu bé từng trải qua cơn bi kịch khủng khiếp nọ, và anh đề nghị rằng cậu có thể cho mọi người xem những vết sẹo của vụ cá sấu tấn công hay không. Cậu bé kéo quần lên. Và rồi, với sự tự hào không giấu được, cậu nói, “Nhưng hãy nhìn vào cánh tay của cháu. Cháu có những vết sẹo lớn ở trên cánh tay nữa. Cháu mang những vết thẹo này vì cha cháu đã nhất định không buông cháu ra cho cá sấu.”
Suy gẫm
Bạn và tôi có thể cũng giống cậu bé này. Chúng ta cũng có những vết sẹo, không phải do cá sấu, nhưng do những quá khứ đau buồn. Có những vết thẹo xấu xí và làm cho chúng ta phải hối tiếc. Nhưng, cũng có những vết thẹo do Đức Chúa Trời đã không buông ta ra. Giữa cơn khủng hoảng, đấu tranh của chúng ta, Ngài ở đó và nắm giữ lấy chúng ta.
Thánh Kinh dạy rằng Chúa yêu chúng ta. Bạn là một đứa con của Ngài. Ngài muốn bảo vệ chúng ta và ban cho ta đầy đủ trong mọi sự. Nhưng thỉnh thoảng, chúng ta cũng tự mình bơi vào những hoàn cảnh nguy hiểm mà không biết chuyện gì đang đợi mình phía trước. Cái hồ bơi của cuộc đời này đầy những hiểm nguy, và chúng ta quên mất kẻ thù đang chờ đợi cơ hội để tấn công. Nếu bạn có những vết sẹo bởi tình yêu Chúa, thì hãy thật sự biết ơn Ngài. Bởi Chúa đã không và sẽ không bao giờ buông ta ra.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Thi 139:5
Chúa bao phủ tôi phía sau và phía trước, Đặt tay Chúa trên mình tôi.
**
Đối diện với nghịch cảnh
Có một cô gái nọ than phiền với cha mình về cuộc sống đầy những khó khăn của cô. Cuộc sống của cô khó khăn đến nỗi cô không biết phải đối phó với nó như thế nào. Cô thật sự mệt mỏi khi phải vật lộn, tranh đấu liên tục trong cuộc sống. Dường như mỗi khi một vấn đề khó khăn nào đó vừa được giải quyết xong thì những vấn đề khó khăn khác lại tiếp tục xảy đến.
Cha của cô, vốn là một đầu bếp, đã dẫn cô vào trong nhà bếp. Ở đây, ông đã dạy cô con gái một bài học thậ quý giá.
Ông lấy 3 chiếc nồi, đổ đầy nước và đặt chúng trên bếp. Khi nước trong ba chiếc nồi bắt đầu sôi, ông bỏ khoai tây vào chiếc nồi thứ nhất, những quả trứng vào chiếc nồi thứ hai và những hạt cà phê vào chiếc nồi thứ ba.
Và trong khi chờ cho ba nồi nước sôi lên, người cha im lặng, chẳng nói một lời nào với cô con gái cả.
Trong lúc đó, cô con gái than vãn không dứt và hầu như mất hết kiên nhẫn để ngồi chờ xem thử việc gì sắp xảy ra. Thật sự cô cũng không biết cha mình đang làm gì.
Sau 20 phút, người cha tắt bếp. Ông vớt khoai tây từ trong nồi ra, bỏ vào một chiếc tô. Rồi ông tiếp tục vớt những quả trứng ra và bỏ chúng trong một chiếc tô khác. Sau cùng, ông rót cà phê vào một chiếc tách.
Quay sang cô con gái, ông hỏi, “Con có thấy điều gì không?”
“Thì chỉ là khoai tây, trứng và cà phê,” Cô vội vàng trả lời.
“Con hãy đến gần và quan sát kỹ hơn,” ông nói “và con hãy thử rờ thử những củ khoai tây này.” Cô gái rờ và thấy rằng những củ khoai tây đã trở nên mềm. Sau đó người cha đề nghị cô con gái lấy một quả trứng và lột vỏ. Sau khi lột vỏ trứng ra, cô thấy trứng bên trong đã được luộc và trở nên cứng. Cuối cùng, ông bảo cô con gái hãy thử nhắm một ngụm cà phê. Mùi thơm của cà phê đã làm rạng rỡ một nụ cười trên gương mặt cô con gái.
“Cha ơi, những việc này có nghĩa gì?” cô hỏi.
Người cha từ tốn giải thích, rằng khoai tây, trứng và cà phê đều đối diện với cùng một nghịch cảnh, đó là nước sôi. Tuy nhiên, mỗi thứ lại có những phản ứng khác nhau.
Khoai tây khi được bỏ vào nồi nó rất cứng và mạnh mẽ, nhưng khi nước sôi, nó trở nên mềm yếu. Trứng rất dễ vỡ, chỉ có một lớp vỏ bọc bên ngoài để bảo vệ chất lỏng bên trong của nó khi nó được đặt vào nồi. Nhưng khi nước sôi, khối chất lỏng bên trong của nó đã trở nên cứng. Tuy nhiên phản ứng của cà phê thật là đặc biệt. Khi những hạt cà phê được bỏ vào nước sôi, nó đã làm thay đổi nước và tạo ra một thứ khác thật là tuyệt vời.
“Con là thứ nào trong những thứ đó?” Người cha hỏi con gái mình. “Khi những khó khăn xảy đến trên đời sống con, con sẽ phản ứng lại như thế nào? Con sẽ giống như củ khoai tây, quả trứng hay là những hạt cà phê?”
Suy gẫm
Bạn có phải như một củ khoai tây, trông dường như cứng cáp, nhưng khi phải đối diện với một chút khó khăn trong cuộc sống, bạn đã trở nên nản chí, yếu ớt dường như không còn một chút sức mạnh nào.
Hay bạn giống như những quả trứng? Lúc đầu mang trong mình một tấm lòng mềm mại, nhưng sau những khó khăn, những nghịch cảnh trong cuộc đời: những thất bại trong cuộc sống hôn nhân, những thất bại trong công việc, bạn đã trở nên chai sạn và khắc nghiệt. Có thể vẻ bên ngoài của bạn vẫn vậy, nhưng bên trong của bạn là một tấm lòng cay đắng, một trái tim đã băng giá.
Hay bạn sẽ giống như những hạt cà phê? Những hạt cà phê không thể bộc lộ được những hương vị tuyệt vời của nó cho đến khi nó được nấu đến nhiệt độ 100 độ C. khi nước càng nóng, hương vị của cà phê càng hòa tan trong nước làm cho nó trở nên càng tuyệt vời hơn. Khi mọi vật xung quanh trở nên tồi tệ hơn, bạn vẫn ngày càng tốt đẹp hơn..Khi mọi người xung quanh than phiền, riêng bạn vẫn luôn dâng lời ngợi khen. Khi hoàn cảnh trở nên đen tối, những thử thách lớn lao vây quanh bạn, đó là lúc niềm tin của bạn, sự gần gũi Chúa của bạn lại được nâng cao lên một mức mới.
Trong cuộc sống, có rất nhiều điều xảy ra xung quanh chúng ta, xảy đến trên đời sống chúng ta, nhưng chỉ có một điều quan trọng là điều gì hiện đang xảy ra trong tấm lòng của chúng ta.
Bạn sẽ đối diện với nghịch cảnh như thế nào? Bạn sẽ là củ khoai tây, quả trứng hay những hạt cà phê?
Xin Chúa ban cho quý vị và các bạn sức mới để đối diện với bất kỳ nghịch cảnh nào có thể xảy ra trong năm mới này.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IPhi1:6-7
6 Dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu; 7 hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Jêsus Christ hiện ra.
**
Chúa biết chính xác những điều chúng ta cần
Một phụ nữ nọ đang làm việc ở sở thì nhận được một cú điện thoại rằng con gái của cô đang đau nhiều, bị sốt rất cao. Cô rời công ty và dừng lại một tiệm bán thuốc, mua thuốc cho con gái.
Khi trở lại xe, cô nhận ra mình đã khóa trái cửa xe mà để quên chìa khóa trong xe. Cô đang phải vội vã chạy về nhà với đứa con đang bị đau… Cô chẳng biết có thể làm gì bây giờ, nên đành gọi về nhà để báo cho cô giữ trẻ biết sự việc đã xảy ra và nói rằng cô thật sự không biết phải xử lý tình huống này ra sao.
Cô giữ trẻ trả lời rằng tình trạng đứa nhỏ đang diễn biến tệ hơn. Cô ta cũng bảo, “Chị hãy thử tìm một cái móc treo quần áo rồi dùng nó thử mở cửa xe xem sao.” Người mẹ trẻ nhìn chung quanh nơi mình đang đứng, và cô thấy một cái móc treo đồ cũ kỹ, hoen rỉ bị người ta vứt dưới đất, có thể lắm, nó từng bị người nào đó dùng để mở cửa xe vì quên chìa khóa ở trong giống như cô bây giờ vậy. Cô nhìn cái móc treo đồ, và nói với mình, “Mình chẳng biết dùng cái thứ này làm sao cả.” Thế là cô cuối đầu xuống và cầu nguyện xin Chúa đem đến một sự giúp đỡ nào đó trong lúc nguy cấp này.
Trong vòng 5 phút sau, một chiếc xe cũ mèm chạy ra, trên xe là một người đàn ông dơ dáy, đầy dầu mỡ, râu ria đang đội một chiếc mũ có hình đầu lâu. Cô rùng mình và thầm nghĩ, “Đây phải chăng là sự giúp đỡ mà Ngài gửi đến để giúp con hay sao?” Nhưng vì đang trong cơn lo lắng quá sức, cho nên cô vẫn thấy cảm tạ ơn Chúa vô cùng.
Người đàn ông nọ dừng lại, bước ra khỏi xe và hỏi cô có cần ông giúp đỡ chi không. Cô nói, “Vâng, con gái tôi đang đau nặng lắm. Tôi dừng để mua ít thuốc và vì tôi hấp tấp quá, nên khóa trái xe lại mà để quên chìa khóa trong xe mất. Tôi phải về nhà càng sớm càng tốt. Ông có thể dùng cái móc treo đồ này để mở cửa xe hộ tôi không, tôi xin ông…”
Người đàn ông lạ trả lời chắc nịch, “Đương nhiên rồi, tôi sẵn lòng thôi.” Ông bước đến chiếc xe, và chưa đầy một phút, cửa xe đã mở bật ra.
Người mẹ đầy lo lắng nọ giờ đây chảy nước mắt, ôm chầm lấy người đàn ông và nói, “Ôi, cám ơn ông lắm thay. Ông thật là một người tử tế.”
Người đàn ông từ tốn trả lời, “Thưa bà, tôi không phải là một người tử tế. Tôi mới ra khỏi tù ngày hôm qua. Tôi đã bị tù vì tội trộm cắp xe hơi, và tôi vừa được ra tù chưa đầy 24 tiếng.”
Người phụ nữ lại ôm lấy người đàn ông một lần nữa, cô khóc và nói to, “Ôi, con tạ ơn Chúa! Ngài chẳng những nhậm lời con, mà còn đem đến cho con một người có nghề (a professional) nữa!”
Suy gẫm
Có thể Chúa không luôn đem đến cho chúng ta đều chúng ta trông đợi, nhưng Ngài luôn đem đến cho chúng ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng tuỳ thuộc vào chúng ta, hoặc chúng ta không ngoan, nhận biết sự khác biệt và tỏ lòng cảm tạ Chúa, hoặc là chúng ta càm ràm và trách móc Ngài.
Xin Chúa dạy chúng ta để luôn biết cảm tạ Ngài, và nhìn thấy ơn thương xót của Ngài qua mỗi sự kiện dù lớn hay nhỏ, trong mỗi ngày chúng ta sống.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Sáng-thế-ký 22:14
Áp ra ham gọi chỗ đó là Giê-hô-va Di-Rê. Bởi cớ ấy, ngày nay có tục ngữ rằng:Trên núi của Đức Giê-hô-va sẽ có sắm sẵn.
**
Chúa bảo vệ con cái Ngài
Chúa dùng mọi sự xảy ra để quy vinh hiển cho Danh Ngài. Và Ngài bảo vệ những điều thuộc về Ngài.
Chúng ta biết rằng ngày 26 tháng 12 năm 2004, 80% thành phố Meulaboh ở Aceh, Indonesia bị tàn phá bởi những trận sóng thần, và 80% dân cư sống ở đó đã chết. Đây là một trong những ngôi làng bị tàn hại nặng nề nhất trong đợt sóng thần vừa qua.
Nhưng có một điều tuyệt diệu ở Meulaboh. Trong thành phố, có khoảng 400 cơ đốc nhân.
Họ muốn tổ chức lễ giáng sinh vào ngày 25 tháng 12, nhưng những người Hồi giáo ở Meulaboh không cho phép. Những người Hồi giáo ở đó bảo họ này rằng nếu họ muốn tổ chức lễ Giáng sinh thì họ phải đi ra khỏi thành phố Meulaboh, họ có thể lên trên một ngọn đồi ở ngoại thành mà tổ chức lễ.
Bởi những tín hữu ở đây hết sức ao ước được tổ chức lễ kỷ niệm Chúa giáng sinh, cả 400 người bèn rời thành phố vào ngày 25 tháng 12, và sau khi họ tổ chức lễ giáng sinh xong, bọn họ ở lại qua đêm trên ngọn đồi ấy.
Như chúng ta đã biết, buổi sáng ngày 26 tháng 12, một cơn động đất xảy ra, kéo theo sau là những cơn sóng thần dữ dội đã phá hủy hầu như toàn bộ thành phố Meulaboh và hàng ngàn người bị thiệt mạng. Nhưng 400 cơ đốc nhân kia đã ở trên đồi cao và họ được cứu khỏi sự chết.
Bây giờ, những người Hồi giáo ở Meulaboh nói rằng Chúa của những Cơ đốc nhân đã trừng phạt họ vì đã cấm cản những người đó không cho tổ chức lễ kỷ niệm Chúa Jêsus giáng sinh trong thành phố. Những người khác thì tự hỏi tại sao có quá nhiều người Hồi giáo chết, trong khi không có người Cơ đốc nào thiệt mạng ở vùng đó, ngay một người cũng không.
Nếu những người Cơ đốc nhân kia nhất định khăng khăng đòi tổ chức lễ giáng sinh trong thành phố, có lẽ tất cả bọn họ cũng chết cả rồi. Nhưng bởi họ khiêm nhường và làm theo những yêu cầu của những người Hồi giáo, nên họ đã được cứu khỏi cơn nguy khốn, và bây giờ họ có thể làm chứng về sự quan phòng kỳ diệu của Đức Chúa Trời.
Đây là một lời làm chứng về sự nhân từ của Chúa. Và sự thật ta thấy rằng những kẻ tin Chúa không có quyền lực trong thế gian này.Nhưng chúng ta có quyền đến trước mặt Chúa và trao phó cuộc sống mình trong tay Ngài. Chúng ta chỉ có thể quỳ trước Chúa Trời Chí Cao và dâng phó đường lối mình lên cho Ngài. Ngài là Cha của chúng ta, Ngài hằng luôn chăm sóc con cái Ngài. Ngợi khen Danh Chúa!
Lời chứng của mục sư Bill Hekman, Indonesia
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Thi 23:2
Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi, Dẫn tôi đến mé nước bình tịnh.
**
Ngày bí mật
“Con sẽ giữ bí mật về điều này,” Cô bé Heather nói như vậy khi cô quì gối cầu nguyện bên cạnh chiếc giường bé nhỏ của mình. Lúc đó mẹ đang đứng bên ngoài cửa phòng và nghe được lời cầu nguyện của cô với Chúa.
Dự báo thời tiết cho biết ngày hôm nay cũng chỉ là một ngày mùa xuân bình thường. Nhưng lời dự báo thời tiết của các nhà khoa học cũng chỉ dựa trên những dữ liệu khoa học, nó không được dựa trên lời cầu nguyện của Heather . Ngày hôm đó đã trở nên một ngày tuyệt vời đối với rất nhiều người.
Mẹ và bố thức dậy từ rất sớm như thường lệ và chuẩn bị mọi thứ để đi làm. Giống như những ngày khác, họ dò dẫm tìm kiếm chuẩn bị mọi thứ trong cái đám sương mù dầy đặc vào buổi sáng. Giống như rôbốt, họ làm mọi việc vốn dĩ theo một chu kỳ của mọi ngày.
Khi tiến đến để chuẩn bị bật công tắc vòi nước trong phòng tắm, mẹ cô chợt nhìn thấy một tấm giấy nhỏ được dán trên bức tường. Mở tấm giấy ra, mẹ cô đọc được hàng chữ trên đó, “Con yêu mẹ”, hàng chữ được viết bằng bút chì màu với nhiều màu sặc sỡ. Lúc đó, bố cũng bước vào, “Anh thấy cái này trong ngăn đựng vớ của anh,” bố nói. Họ cùng trao đổi những tấm giấy nhỏ đó và đọc.
“Em cùng “lập kế hoạch này” với con hay sao?” bố hỏi.
“Ồ không hề, em chẳng biết gì cả. Rõ ràng là con bé tự làm điều này,” mẹ trả lời.
Cả hai cùng bước vào phòng của cô bé, và khi vừa bước vào họ thấy cô bé con đang đứng đó, quần áo đã sẵn sàng để chờ bố mẹ đưa đi học.
Điều này làm cho bố mẹ thật sự bất ngờ và xúc động, bởi thường thì phải kêu hai ba lần cô bé mới thức dậy để chuẩn bị đi học.
“Con đã làm một điều thật sự bất ngờ đầy cảm động,” mẹ nói khi đang đứng với hai tờ giấy cầm trên tay.
“Điều gì mà bất ngờ hả mẹ?” Heather hỏi
“Hai tờ giấy mà con đã ghi cho bố mẹ,” bố trả lời
Cầm hai tờ giấy trong tay cô bé nói, “Con không làm điều này.”
“Vậy hả, vậy thì ai làm?” mẹ hỏi.
“Con nghĩ đây là một điều bí mật,” cô bé trả lời khi cố gắng để nín cười. “Hôm nay là ngày bí mật mà!”
“Ngày bí mật gì thế?” bố hỏi.
“Con không thể nói cho bố nghe được đâu…” cô bé trả lời.
“Nó thật là bí mật!” bố mẹ cùng đồng thanh nói.
Thế là bố mẹ lại tiếp tục công việc chuẩn bị mọi thứ họ làm như bao buổi sáng khác. Như thường lệ, bố rời nhà để đi làm trước vì sở làm của bố trong thành phố, khá xa. Còn mẹ đang đứng bên ngoài trạm chờ chuyến xe bus của trường đến đón Heather đi học trước khi mẹ đi làm. Sau khi hôn tạm biệt con, mẹ đứng nhìn cô bé bước lên xe bus. Khi bước lên cửa xe, cô bé ngoái đầu lại và nói, “Chúc mừng ngày bí mật mẹ nhé!”
Suốt ngày hôm đó, bố và mẹ đã phát hiện rất nhiều tờ giấy được viết bằng chì màu sẵc sỡ với cùng dòng chữ mà họ thấy trên tấm giấy sáng hôm đó.
“Anh thấy một cái trong túi của chiếc áo thể thao của anh, trong cặp của anh, và thậm chí anh còn thấy một cái trong chiếc giầy của anh nữa,” Bố nói với mẹ trong cuộc trò chuyện điện thoại vào buổi trưa hôm đó.
“Em cũng vậy!” mẹ nói. “Thậm chí có một cái còn được gắn trên phần ăn trưa của em trong tủ lạnh nữa.”
Cuối ngày hôm đó, mẹ nôn nao chờ đón cô con gái yêu quí của mình đi học về. Khi cánh cửa xe bus vừa mở ra, người tài xế vừa nhoài người ra ngoài vừa vẫy vẫy tấm giấy nhỏ và nói, “Chúc mừng ngày bí mật nhé!”
“Con gái cưng, cô tài xế chở con cũng nhận được tấm giấy đó nữa à?” Mẹ hỏi cô bé.
“Con không biết đâu, đó là chuyện rất bí mật,” cô bé nói.
Trong lúc cô bé đi về phòng của mình thay đồ, mẹ tiến lại chiếc điện thoại để nghe xem có ai để lại tin nhắn gì không.
“Beep!” hệ thống ghi lại tin nhắn vang lên, “Bà Anderson, đây là cô giáo của Heather. Tôi muốn nói đó là một sáng kiến rất là tuyệt. Con gái của bà đã làm cảm động rất nhiều người, trong đó có tôi. Ông hiệu trưởng, các cô phục vụ bữa ăn trưa và ông Bennet, bác bảo vệ trong trường, cũng nhận được tấm giấy cũa cô bé. “Chúc mừng ngày bí mật nhé!” Beep!”
Vừa lúc đó Heather từ trong phòng mình bước ra. “Mẹ tự hào về con lắm, con gái ạ. Con đã làm một điều thật là tuyệt vời cho nhiều người,” mẹ nói.
Cô bé dừng lại một chút và nói, “Nhưng mà mẹ nè, đây đúng ra là điều bí mật mà!”
“Ừ hử, nó sẽ là điều bí mật. Chỉ có mẹ và con biết thôi. Nhưng mà con cho mẹ biết tại sao con lại quyết định làm tất cả những việc này?” Mẹ hỏi.
“Mẹ biết không, hôm qua trong nhà thờ, ông mục sư đã cảm ơn tất cả mọi người về những điều mà họ làm cho ông. Mẹ biết là vợ ông mục sư vừa qua đời. Ông mục sư có nói, không biết là vợ ông có biết là ông yêu bà dường nào không?” cô bé nói. “Sau đó ông kể rất nhiều thứ mà bà đã làm để giúp nhiều người, nhưng bà làm điều đó rất bí mật và thường nói rằng những điều đó đến từ Chúa.”
Mẹ cuối xuống ôm Heather vào lòng với một niềm tự hào, những giọt nước mắt vui sướng đang lăn chảy trên má của bà, “Mẹ yêu con rất nhiều và đó không phải là điều bí mật gì cả!”
“Chúc mừng ngày bí mật mẹ nhé!”
Suy gẫm
Chúng ta được kêu gọi để yêu thương mọi người, làm những điều để giúp đỡ người khác chứ không phải để tự khoe mình.
Có một điều bí mật mà quí vị và các bạn cần biết, “Chúa yêu quí vị và các bạn”
Hôm nay cũng có thể là một ngày bí mật cho chính quí vị và các bạn. Ước mong quí vị và các bạn đem ngày bí mật này đến cho mọi người.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IGi 4:10
Nầy sự yêu thương ở tại đây: ấy chẳng phải chúng ta đã yêu Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã yêu chúng ta, và sai Con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta.
**
Chiếc lồng chim
George Thomas là mục sư quản nhiệm tại một nhà thờ trong một làng nhỏ của nước Anh. Vào buổi sáng Chúa nhật kỷ niệm Chúa Phục Sinh năm đó, ông đến nhà thờ với một chiếc lồng chim cũ kỹ, đã hen gỉ, cong quẹo. Ông mang chiếc lồng chim đó trên bục giảng khiến nhiều cặp mắt nhướng lên, tò mò lẫn thắc mắc. Biết được điều đó, nên ông mục sư bắt đầu bài giảng.
“Hôm qua, trong lúc đi dạo phố, tôi chợt thấy một cậu bé đang bước đi hướng về phía tôi, trên tay đong đưa chiếc lồng chim này. Trong chiếc lồng có 3 chú chim nhỏ đang run lẩy bẩy vì lạnh và sợ. Tôi kêu cậu bé lại và hỏi, “Cháu đang có gì trong chiếc lồng đó vậy?”
“Dạ chỉ là mấy con chim rừng thôi,” cậu bé vừa tiến đến vừa trả lời.
“Thế cháu định làm gì với những con chim này?” Tôi hỏi.
“Cháu mang chúng về nhà để chơi. Cháu sẽ chọc chúng, nhổ lông chúng để làm chúng sợ hãi chơi. Cháu sắp sửa có một thời gian thật vui đấy.”
“Nhưng cháu sẽ dần dần chán với trò đó thôi. Sau đó cháu định làm gì với lũ chim này?”
“Ô, cháu cũng có nuôi mấy con mèo nữa. Chúng rất thích chim. Cháu sẽ mang những con chim này cho lũ mèo đó ăn.”
Ông mục sư yên lặng trầm ngâm một chút rồi nói, “Cháu muốn bán lũ chim này bao nhiêu?”
“Hả??!!! Tại sao ông lại muốn mua lũ chim này. Chúng chỉ là một lũ chim rừng thôi. Chúng không biết hót, thậm chí chúng cũng chẳng đẹp đẽ gì nữa!”
“Nhưng cháu muốn bao nhiêu?”
Cậu bé ngước nhìn ông mục sư dò xét xem không biết ông mục sư có ngớ ngẩn trong chuyện này không. Cuối cùng cậu buôn lời thử “10 dollar?”
Ông mục sư thò vào túi lấy tờ giấy 10 dollar và dúi vào tay cậu bé. Trong chớp mắt, cậu bé chạy biến đi.
Ông mục sư nhặt chiếc lồng chim lên và nhẹ nhàng mang chiếc lồng đến cuối con đường nơi có những hàng cây và những vạt cỏ. Để chiếc lồng chim xuống đất, ông mở cửa lồng chim, vỗ nhè nhẹ trên thành chiếc lồng chim để thuyết phục những con chim trong lồng bay ra, thả chúng tự do.
Và đó chính là lý do tại sao có chiếc lồng chim trống không này. Và ông mục sư bắt đầu kể câu chuyện này.
Vào một ngày nọ, Satan và Chúa Jesus có một cuộc trò chuyện. Satan vừa mới trở về từ vườn Eđen, nó nhìn có vẻ rất hả hê và khoác lác.
“Vâng, thưa Chúa, tôi vừa bắt được tất cả con người ở dưới đó. Tôi đã dùng những cái bẫy, để những miếng mồi mà tôi biết chắc là chúng không thể nào cưỡng lại nỗi. Thế là tôi bắt được tất cả chúng!”
“Thế ngươi định làm gì với chúng?” Chúa Jêsus hỏi.
“Ô, tôi định đem chúng ra làm trò vui! Tô sẽ dạy chúng làm sao để cưới nhau rồi li dị nhau. Dạy chúng làm sao để ghét nhau và sỉ nhục lẫn nhau. Dạy chúng biết uống rượu, hút thuốc và nguyền rủa nhau. Dạy chúng phát minh ra súng ống, bom đạn để rồi giết nhau. Tôi sắp có những giây phút thật là thích thú!”
“Sau hết những trò đó thì ngươi định làm gì với chúng?” Chúa Jêsus hỏi.
“Ồ, tôi sẽ giết sạch hết chúng.”
“Ngươi muốn bao nhiêu để chuộc hết những con người ấy?”
“Ô, Chúa không nên quan tâm đến những con người này. Họ không có tốt đâu. Tại sao, nếu Chúa chuộc họ, họ sẽ thù ghét Chúa. Họ sẽ khạc nhổ lên Chúa, nguyền rủa Chúa và giết Ngài!! Chúa không nên quan tâm đến họ làm chi!!!”
“Ngươi muốn bao nhiêu?”
Satan nhìn Chúa Jêsus một cách chế nhạo và nói, “Tất cả những nước mắt và máu của Ngài.” Và Chúa Jêsus đã trả cái giá đó.
Nói xong, ông mục sư xách chiếc lồng chim và rời khỏi bục giảng.
Suy gẫm
Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con người chúng ta. Ngài sẳn sàng chịu chết trên cây thập tự giá để chúng ta được sống. Ngài sẵn sàng chịu khổ để giải thoát chúng ta khỏi xiềng xích của ma quỷ, để chúng ta được tự do. Và Ngài đã sống lại để ban cho chúng ta một sự sống đời đời.
Hãy mạnh dạn chia sẽ tình yêu cao quí ấy với những người thân yêu quanh bạn.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
IPhi 1:18-19
18 vì biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình,19 bèn là bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết của chiên con không lỗi không vít,
**
Khi bạn cần đổi thay
Trong những năm học trung học, căn phòng tôi sống được sơn màu đen, có một dòng chữ được sơn màu vàng, “Hãy chết đi!” Lúc đó, tôi là một cậu trai trẻ hung hăng, hoang mang mất phướng hướng.
Tôi lớn lên trong một gia đình có bốn anh chị em , hai người trong số họ đã mang những chứng bịnh về não bẩm sinh. Ba tôi mắc chứng bệnh động kinh và thường phải chịu những cơn co giật thường xuyên. Tôi bị giằng xé giữa tình cảm gia đình với cảm giác xấu hổ về họ ở ngoài xã hội.
Vào năm học lớp bảy, tôi thử tập uống rượu. Và vào năm học thứ hai ở trường trung học, tôi chìm vào cuộc sống nghiện ngập. Tôi cố gắng thoát khỏi nỗi đau về hoàn cảnh gia đình mình cũng như nỗi xấu hổ khi bị người khác chế nhạo bằng cách tìm đến đàn đúm với những bợm nhậu và nghiệp ngập ma tuý.
Tôi cố gắng thay đổi cuộc sống mình vào những năm cuối cấp. Nhưng nếu không có ma tuý, tôi lại trải nghiệm những cảm giác mặc cảm, xấu hổ, những thứ mà tôi đã trốn chạy từ bao nhiêu năm nay. Tôi khóc hằng mấy giờ liền, nện đầu mình xuống sàn nhà, và đấm tay vào tường cho đến khi chảy máu. Tôi ghét bản thân mình và tôi chỉ muốn chết đi. Tôi cảm thấy lúc đó mình như điên cuồng vậy.
Vào tháng 9 năm 1975, tôi nói mẹ chở tôi đến ngôi nhà nghỉ của chúng tôi ở miền quê. Tôi muốn ở đó một mình trong vài ngày. Trước khi về, mẹ tôi đưa cho tôi một cuốn Kinh Thánh. Trưa hôm đó, tôi lấy Kinh thánh ra đọc. Ở những trang đầu của quyển Kinh Thánh, có trang hướng dẫn những đoạn Kinh Thánh nào bạn nên đọc khi cảm thấy cô đơn, tổn thương, bối rối, v.v. Tôi có tất cả những cảm giác đó. Câu Kinh thánh được giới thiệu cho phần “Khi bạn cần sự thay đổi” là ở Giăng đoạn 3. Tôi đọc về Ni-cô-đem, người đã đến để hỏi Chúa Jêsus những câu hỏi về sự tái sinh. Chúa Jesus đã bảo ông rằng nếu người nào chẳng sanh lại, thì không được vào nước Ðức Chúa Trời. Tôi thấy mình phát hiện được điều gì đây.
Tối đó, trên tivi có giới thiệu một chương trình của mục sư Billy Graham. Tôi thấy thật khó tin — bởi tôi vừa mới đọc về sự tái sinh vào buổi trưa, thì bây giờ có một người đang giải thích cặn kẽ về điều đó. Khi ông giảng xong, tôi tắt tivi và ngồi trên sàn nhà. Tôi cầu nguyện đơn giản và mời Chúa Jesus ngự vào đời sống tôi, tha thứ tội lỗi tôi và ban cho tôi có được một đời sống mới. Tôi cảm nhận được sự bình an mà tôi chưa bao giờ có trước đây.
Thế rồi, sự thèm thuốc phiện và rượu trong tôi không còn nữa, thậm chí không còn nghĩ về nó nữa, tôi cũng không còn nói năng những lời tục tĩu nữa. Dần dần, đời sống tôi được thay đổi. Tôi đề nghị chương trình học Kinh Thánh (vốn được giới thiệu sau giờ truyền hình) giúp đỡ tôi học Lời Chúa. Trong bốn năm sau đó, tôi gặp những người Cơ Ðốc nhân khác và bắt đầu đến nhà thờ. Tôi dành nhiều thời gian để cầu nguyện và học Kinh Thánh.
Vợ tôi, Janet, và tôi đã lập gia đình với nhau vào tháng 2 năm 1981. Vào tháng 3, chúng tôi cùng một số người khác bắt đầu thành lập Solid Rock Ministries – một tổ chức rao truyền Phúc Âm trong những quán bar và trên đường phố. Vào mùa xuân năm 1982, chúng tôi thấy nhu cầu cần phải xây dựng một nhà thờ. Mười ba người đến dự buổi nhóm đầu tiên của chúng tôi tại một nhà thờ nhỏ ở Appleton, Wisconsin. Vào mùa xuân năm 2001, nhà thờ Christ The Rock Community đã chuyển đến một chỗ mới thuận tiện hơn, rộng 78 mẫu, có sức chứa cho khoảng 3000 tín hữu cộng thêm 100 mục sư cộng tác.
Tôi thật biết ơn Chúa về công việc Ngài làm trên đời sống tôi và cho tôi được vinh dự hầu việc Ngài.
Bill Lenz – Mục sư Hội Thánh Christ The Rock Community, Menasha Wisconsin.
Trích từ tạp chí Decision – Tổ chức truyền giáo Billy Graham
Suy gẫm
Bạn thấy chán nản, thất vọng về cuộc đời mình? Bạn thấy mình thật bất hạnh so với những người khác? Những mặc cảm tội lỗi đeo đuổi cuộc đời bạn? Bạn mất phương hướng trong cuộc đời?
Hãy tìm kiếm Chúa Jêsus để lòng bạn được bình an, cuộc sống bạn được thay đổi. Hãy đến với Ngài để bạn được thứ tha. Chúa là nguồn phước hạnh, là sự bình an và Ngài sẽ dẫn dắt cuộc sống bạn trong hiện tại và cả trong tương lai.
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Gi 14:6
Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống.
**
Chiếc màng nhện
Có một người lính trẻ nọ phải đối diện với một trận chiến thật khốc liệt và đầy tuyệt vọng. Quân thù gần như đánh bại toàn bộ đội quân của anh. Anh cùng các đồng đội của mình nhận được lệnh phải tháo chạy khỏi trận tuyến. Họ cố gắng hết sức tháo chạy trong sợ hãi để cứu mạng sống mình. Kẻ thù truy đuổi theo sau ráo riết. Anh lính trẻ chạy thục mạng, lòng tràn đầy sợ hãi và tuyệt vọng, nhưng chẳng bao lâu sau đó, anh thấy mình đã chạy lạc khỏi các đồng đội. Cuối cùng, anh chạy đến một vực đá, bên trong có một hang động. Biết rằng quân thù đang đuổi theo đằng sau, và lúc đó do quá kiệt sức vì cuộc chạy trốn, anh quyết định chui vào hang ẩn trốn. Khi bò vào hang, anh rơi vào một không gian hoàn toàn tối mịt, anh sợ hãi, cất tiếng kêu cầu Chúa, xin Ngài cứu anh và bảo vệ anh khỏi kẻ thù. Trong lúc nguy nan này, anh lính trẻ cũng “mặc cả” với Chúa rằng nếu Chúa cứu anh, anh sẽ hầu việc Chúa suốt đời.
Trong lúc ngóng trông sự giúp đỡ của Chúa trong hoàn cảnh tuyệt vọng của mình, anh lính thấy có một con nhện đang bắt đầu đan màng nhện vắt ngang qua lối vào cửa hang. Nhìn những sợi tơ mỏng manh đang từ từ vắt ngang dọc qua miệng hang, người lính trẻ nghĩ hoàn cảnh thật trớ trêu. Anh nghĩ, “Mình xin Chúa đem đến sự bảo vệ và giải cứu cho mình, và Ngài lại sai con nhện này đến. Làm sao một con nhện lại có thể cứu mình?”
Trong lòng anh tràn đầy sợ hãi vì nghĩ rằng trong tình cảnh này thì kẻ thù sẽ phát hiện ra chỗ ẩn náu của anh, không sớm thì muộn, và sẽ giết anh. Chẳng bao lâu sau, anh nghe tiếng kẻ thù lùng sục khắp nơi quanh đó, tìm kiếm những người đang ẩn náu. Và một tên lính lăm lăm khẩu súng trong tay, đang từ từ tiến vào cửa hang. Anh lính trẻ nín thở, cố gắng thu mình trốn trong bóng tối ở một góc hang, anh hi vọng nếu có thời cơ, anh sẽ bất ngờ xuất hiện, tấn công kẻ thù để cứu lấy mạng sống mình. Anh nghe tim mình đập loạn xạ trong lồng ngực.
Tên lính nọ tiến cẩn thận về phía miệng hang, hắn đứng trước bức mạng nhện — lúc bấy giờ đã giăng phủ khắp miệng hang. Quan sát một hồi, hắn lui lại và nói với đồng đội của mình, “Chắc không có ai trong này đâu. Nếu có thì họ đã phải làm hư cái màng nhện này khi chui vào hang rồi. Thôi, đi thôi!”
Những năm sau đó, người lính trẻ nọ, giờ đây đã trờ thành một mục sư và là nhà truyền giáo — đã viết về sự thử thách mà anh đã trải qua. Anh viết thế này, “Nơi nào có Chúa hiện diện, thì một tấm mạng nhện cũng trở thành một bức tường đá vững chắc. Còn nơi nào không có sự hiện diện của Ngài, thì một bức tường đá cũng chỉ là một bức mạng nhện mong manh mà thôi.”
Suy gẫm
“Nơi nào có Chúa hiện diện, thì một tấm mạng nhện cũng trở thành một bức tường đá vững chắc. Còn nơi nào không có sự hiện diện của Ngài, thì một bức tường đá cũng chỉ là một bức mạng nhện mong manh mà thôi.”
Bạn có tin như thế không?
Mỗi tuần một câu Kinh Thánh
Thi 28:7
Đức Giê-hô-va là sức mạnh và là cái khiên của tôi;
Lòng tôi đã nhờ cậy nơi Ngài, và tôi được cứu tiếp;
Vì vậy, lòng tôi rất mừng rỡ,
Tôi sẽ lấy bài ca mà ngợi khen Ngài.
**