Chương 1: SƠ LƯỢC VỀ TIÊN TRI
Các sách tiên tri được xem là cốt lõi của Cựu ước, đặc biệt trong bối cảnh Tân ước, Chúa Jêsus đã nói về Cựu ước như là “Luật pháp và lời tiên tri”(Mathiơ 7:12; 22:40). Luật pháp là năm sách đầu của Kinh thánh – Sáng thế ký, Xuất Êdíptô ký, Lêvi ký, Dânsố ký, Phục truyền luật lệ ký. Giờ đây chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu từ sách Êsai và kết thúc ở Malachi.
Sứ đồ Phaolô bày tỏ sự lưu tâm về các tiên tri khi ông tiếp kiến một vị vua. Ông là người rao giảng Tin lành rất mạnh mẽ đến nỗi vị vua đó nhận xét rằng Phaolô gần như khiến ông trở thành một Cơ đốc nhân. Phần kịch tính nhất trong lời làm chứng của vị sứ đồ nầy là khi ông hỏi: “Tâu vua Aïcrípba, vua có tin các đấng tiên tri chăng? Tôi biết thật vua tin đó!”(Công vụ 26:27) Phaolô thường đặt nhiều câu hỏi về các tiên tri, những bài giảng và ký thuật của ôngï được xức dầu và đầy năng quyền. Cách thức để nhận biết một người có đức tin không là hãy hỏi: “Bạn có tin các đấng tiên tri không?”
Khi Tân ước nói về các tiên tri, thì thường đề cập đến những vị tiên tri là người viết sách ấy. Có mười bảy sách tiên tri do mười sáu tiên tri ký thuật (Giêrêmi viết hai sách Giêrêmi và Ca thương).
Trước khi chúng ta khảo sát về các sách tiên tri, tôi muốn giải đáp câu hỏi: “Thật ra ai là tiên tri?” Tôi bắt đầu trả lời câu hỏi nầy bằng cách so sánh giữa tiên tri và thầy tế lễ. Khi các sách luật pháp được viết ra, các nhà lãnh đạo thuộc linh quan trọng là các thầy tế lễ. Các thầy tế lễ có một vai trò quan trọng bởi vì họ cầu thay cho dân sự khi phạm tội. Các thầy tế lễ cũng giải nghĩa Kinh thánh, và là thầy giáo của dân sự Đức Chúa Trời. Họ giải đáp những thắc mắc về Kinh thánh, làm chức tế lễ và dâng của lễ trong đền tạm nơi hoang mạc và trong đền thờ Salômôn sau nầy.
Thầy tế lễ khi sanh ra đã là thầy tế lễ, do người ấy thuộc dòng dõi Arôn hay là chi phái Lêvi. Đáng buồn thay, các thầy tế lễ thường là những người suy đồi và phạm tội. Ôsê đã đưa ra một thành ngữ: “Thầy tế lễ nào, dân sự nấy”. Thường khi dân sự bội đạo và phạm tội thì thầy tế lễ sẽ chỉ dẫn cách thức hành động trong khi phạm lỗi, nhưng khi thầy tế lễ yếu đuối và phạm tội thì Đức Chúa Trời bèn sai tiên tri đến.
Tiên tri không sanh ra tiên tri. Những người làm chức vụ tiên tri được kêu gọi từ trong các tầng lớp xã hội. Có hai ba vị tiên tri cũng là thầy tế lễ, họ được kêu gọi làm tiên tri, song đó là trường hợp ngoại lệ. Một số tiên tri được kêu gọi từ tầng lớp quý tộc Giuđa. Một số tiên tri khác được kêu gọi từ tầng lớp lao động bình thường, như tiên tri Amốt, một người làm nghề hái trái vả và chăn chiên. Thực chất, thầy tế lễ là người đi vào trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời và cầu thay cho dân sự. Tiên tri là người đi ra từ trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, đến với dân sự để truyền đạt sứ điệp của Ngài.
Tất cả các trước giả tiên tri sống trong thời kỳ khoảng 400 năm, khoảng từ năm 800 TC đến 400 TC, trong thời kỳ dân sự sống trong tội lỗi, đặc biệt là tội thờ hình tượng. Vì cớ thờ lạy hình tượng cho nên Đức Chúa Trời đã đoán phạt họ bằng cách cho quân Asyri xâm lăng và thần phục Vương quốc phía Bắc làm phu tù. Khoảng một trăm năm sau người Babylôn lại tiếp tục chinh phục Vương quốc phía Nam và bắt họ lưu đày. Các tiên tri viết sách chẳng những nói trước về các cuộc lưu đày nầy, mà còn thi hành chức vụ và giảng dạy trong thời kỳ phu tù nữa, hoặc họ sống và giảng dạy trong lúc dân sự hồi hương sau các sự kiện bi thảm nầy.
Trong mười sáu trước giả tiên tri, có ba người thi hành chức vụ và giảng dạy sau thời kỳ phu tù, sự giảng dạy của họ thường đề cập đến sự hồi hương và tái thiết ngay sau khi dân sự quay trở lại cùng Đức Chúa Trời và họ được trở về từ Babylôn. Tuy nhiên, hầu hết họ nói tiên tri về cuộc xâm lăng và phu tù, hoặc họ thi hành chức vụ trong lúc đang xảy ra các sự kiện đó.
Các tiên tri đã tiên đoán về sự xâm lăng của người Asyri vào Vương quốc phía Bắc, và người Babylôn vào Vương quốc phía Nam. Về cơ bản họ rao giảng: “Nếu các ngươi thức tỉnh về tình trạng thuộc linh của mình, nếu các ngươi thực lòng ăn năn về tội thờ hình tượng, thì cuộc xâm lăng của người Asyri hoặc người Babylôn sẽ không xảy ra”. Các tiên tri nầy kêu gọi sự ăn năn và thức tỉnh thuộc linh. Dầu vậy,hầu như sứ điệp của họ đã bị bỏ qua. Các tiên tri thường bị đánh đập, nhạo báng, bắt bớ và tuận đạo. Nhiều người trong số họ đã chết vì giảng dạy một sứ điệp mà không ai muốn nghe.
Khi các nhà tiên tri nhận ra rằng dân sự không quan tâm đến sứ điệp của họ, họ bèn giảng: “Cuộc xâm lăng đang đến gần, khi ấy cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời Toàn Năng sẽ đổ xuống trên các ngươi, bởi vì các ngươi không chịu ăn năn về tội thờ hình tượng”. Và các lời đó đã ứng nghiệm, khi người Asyri xâm lược Vương quốc phía Bắc và bắt họ làm phu tù thì họ không còn nghe lại các sứ điệp đó nữa. Một trăm năm sau, người Babylôn tiếp tục xâm lược Vương quốc phía Nam.
Các tiên tri còn rao giảng một sứ điệp hy vọng có liên quan đến việc bị người Babylôn xâm lăng và bắt làm phu tù. Họ nhận được sự mặc khải tiên tri và rao giảng: “Sau bảy mươi năm các ngươi sẽ được trở về từ chốn phu tù”. Họ nhận thấy việc mình bị phu tù dưới ách thống trị của người Babylôn và được trở về là sự bày tỏ lòng thương xót và ân điển của Đức Chúa Trời. Hầu hết các tiên tri nầy không còn sống để chứng kiến phép lạ đó xảy ra.
Những Lời Tiên Tri Về Đấng Mêsi
Một chủ đề đáng được quan tâm khác trong sứ điệp của các tiên tri là sự rao giảng về dân sự của Đức Chúa Trời sẽ bị tản lạc khắp đất. Khi rao giảng về sự tản lạc, họ cũng thường rao giảng về sự trở về sau kỳ tản lạc đó. Và khi nói đến sự trở về từ sự cai trị của người Babylôn, các tiên tri cũng tiên tri về Đấng Mêsi xen lẫn với sứ điệp trở về từ chốn phu tù.
Lời tiên tri về sự hiện đến của Đấng Christ ở trong hai sự kiện, hoặc là hai sự hiện đến. Ngài đến lần đầu với tư cách là Đấng Cứu Chuộc, chịu đau đớn để chết thay cho tội lỗi của nhân loại, nhưng khi Ngài đến lần thứ hai – mà chúng ta gọi là sự tái lâm của Đấng Christ thì với tư cách là Vua trên muôn Vua, Chúa trên muôn Chúa, để chinh phục các thế lực của ma quỷ và thiết lập trời mới, đất mới với sự cai trị công bình.
Thật rất khó phân chia những lời tiên tri về Đấng Mêsi ra khỏi việc tiên báo sự trở về từ chốn phu tù. Cũng thật khó khi phân biệt những lời tiên tri về sự hiện đến lần đầu của Đấng Mêsi và sự tái lâm của Ngài xảy ra vào lúc nào trong thời đại của chúng ta. Việc tiên báo về sự hiện đến của Đấng Mêsi là các lời tiên tri thú vị nhất trong các sách tiên tri của họ.
Phát Ngôn Viên Của Đức Chúa Trời
Khi chúng ta nghe nói đến chữ “tiên tri”, thì chúng ta thường nghĩ đến vai trò của họ giống như là một “nhà dự báo thời tiết thuộc linh”, là người tiên báo cho chúng ta biết về thời tiết ngày mai sẽ như thế nào. Chữ “tiên tri” thực sự có nghĩa là “phát ngôn viên của Đức Chúa Trời”. Vì thế, tiên tri là một người bình thường mà Đức Chúa Trời dùng để công bố Lời của Ngài. Các tiên tri công bố Lời của Đức Chúa Trời theo hai cách. Trước hết, họ “phát ngôn” lời của Đức Chúa Trời. Có nghĩa họ là những nhà rao giảng Kinh thánh vĩ đại. Thứ hai,họ cũng “tiên báo” hay tiên đoán về các biến cố chưa xảy ra. Một số trong các biến cố mà họ báo trước vẫn chưa xảy ra.
Chúng ta cần suy nghĩ về phạm trù tiên báo của chức vụ tiên tri. Đó là phần rất năng động trong chức vụ của người ấy, nhưng lại là một phần tương đối nhỏ. Tiên tri chủ yếu là người rao giảng lời Chúa. Họ kêu gọi dân sự vâng theo và áp dụng Lời Đức Chúa Trời vào cuộc sống. Các tiên tri thường được mặc khải về chân lý mới, nhưng phần lớn bắt đầu từ thời kỳ Giôsuê, họ rao giảng Lời Đức Chúa Trời được chép bởi Môise. Đó chính là lý do mà tôi nói rằng Môise là một người phi thường giữa vòng các tiên tri, vì ông nhận lãnh Lời của Đức Chúa Trời, và các tiên tri đã căn cứ trên Lời đó để rao giảng.
Chữ “tiên tri” được ghép bởi hai từ, có nghĩa là “đứng trước” và “làm sáng tỏ”. Tiên tri đứng trước Lời đã được chép bởi Đức Chúa Trời và làm cho sáng tỏ Lời đó ra. Người cũng thúc giục dân sự Đức Chúa Trời vâng phục và áp dụng Lời Ngài vào cuộc sống. Khi nhận được sự mặc khải về các sự kiện tương lai, tiên tri luôn thúc giục dân sự Đức Chúa Trời hãy sống thánh khiết theo ánh sáng mặc khải mà Ngài đã bày tỏ cho họ, và chia sẻ cho dân sự về các sự kiện tương lai.
Không Có Nan Đề, Không Có Tiên Tri
Tiên tri xuất hiện trong một hoàn cảnh nào đó khi có nan đề. Nghĩa là bạn có thể nói “không có nan đề, không có tiên tri”. Khi bạn nghiên cứu về cuộc đời và sứ điệp của từng vị tiên tri, bạn sẽ có câu hỏi: “Nan đề nào đã ngăn trở công việc của Đức Chúa Trời khiến người đặc biệt nầy được kêu gọi vào chức vụ tiên tri, và làm thế nào để qua chức vụ của người nầy có thể cất đi sự ngăn trở ngay trong thời của họ?”
Thí dụ, vào thời tiên tri Aghê, trong lúc trở về từ chốn lưu đày Babylôn, công việc của Đức Chúa Trời liên quan đến việc tái thiết đền thờ tại Giêrusalem. Khi dân sự của Đức Chúa Trời bắt đầu tái thiết đền thờ, họ phải đương đầu với sự bức hại khốc liệt. Mặc dù vua nước Batư đã cho phép họ hồi hương và cung cấp vật liệu để tái thiết đền thờ, họ vẫn gặp sự chống đối khi khởi công xây cất.
Khi sự bắt bớ dấy lên, họ đã ngưng việc tái thiết đền thờ. Thế rồi họ trở nên xao lãng và bận tâm vào việc xây cất nhà riêng. Việc đó kéo dài suốt mười lăm năm cho đến khi Đức Chúa Trời kêu gọi tiên tri Aghê. Thật vậy, Aghê đã rao giảng vì đền thờ đó. Ông nói cùng dân sự: “Nay có phải là thì giờ các ngươi ở trong nhà có trần ván, khi nhà nầy hoang vu sao?”(1:4) Aghê kêu gọi dân sự trở lại với công việc tái thiết đền thờ của Đức Chúa Trời.
Bởi lời rao giảng của Aghê, dân sự đã ngưng xây cất nhà riêng. Họ xem lại thứ tự ưu tiên và trước hết là xây dựng nhà của Đức Chúa Trời, kế đến mới là nhà riêng của họ. Như vậy,công việc của Đức Chúa Trời được phục hồi và Aghê bước ra khỏi hoàn cảnh đó.
Các thư tín Tân ước hay là các bức thư của các sứ đồ (và của những người khác), đều có hình thức tương tự. Vào thời Tân ước, công việc của Đức Chúa Trời là xây dựng Hội thánh của Đấng Christ. Khi nan đề xảy đến làm cản trở công việc của Đức Chúa Trời, Ngài dấy các sứ đồ lên để viết các thư tín. Mục đích thư tín của các sứ đồ là gì? Nhằm lên tiếng chống lại sự ngăn trở công việc xây dựng Hội thánh của Đấng Christ phục sinh, cho đến khi các nan đề đó được loại bỏ và công việc Chúa lại có thể tiếp tục.
Những điều ngăn trở mà các tiên tri đề cập đến không giống như các nan đề trong các thư tín thời Tân ước. Nhưng khi bạn phối hợp sứ điệp của các tiên tri và các sách thư tín thời Tân ước, bạn sẽ thấy có khoảng chừng bốn mươi sách trong Kinh thánh chứa đựng các mạng lịnh chỉ cách giải quyết các nan đề đang làm ngưng trệ công việc Chúa ngày nay.
Đức Chúa Trời muốn thực hiện công việc của Ngài qua dân sự. Ngày nay cũng chẳng khác gì vào thời các tiên tri và sứ đồ. Khi bạn thật sự nhận thấy công việc của Đức Chúa Trời đang thực hiện tại một nơi nào đó trên thế giới mà Ngài có ý định đặt để trên bạn, bị cản trở bởi những nan đề, nếu bạn tin rằng Đức Chúa Trời không thực hiện được theo như ý Ngài muốn, hãy cầu nguyện cho đến khi bạn thấy rõ nan đề đang làm ngưng trệ công việc Chúa. Khi bạn thấy rõ sự ngăn trở đó là gì, hãy tìm đọc những sách của các tiên tri hay các sứ đồ,và cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn sự khôn ngoan, ân điển và sự dạn dĩ để áp dụng sứ điệp vào các nan đề đang ngăn trở công việc Chúa nơi bạn đang hầu việc Ngài.
Qua các tiên tri và sứ đồ, Đức Chúa Trời bày tỏ cho bạn cách làm thế nào để cất bỏ những trở lực làm ngưng trệ công việc Chúa. Nếu tiên tri và sứ đồ không cho thấy sự ngăn trở làm ngưng trệ công việc Chúa trong vị trí của bạn, thì có thể theo tinh thần của họ, Đức Chúa Trời muốn bạn hãy kêu khóc về những nan đề ngăn trở đó cho đến khi chúng được cất đi và công việc Chúa được tiếp tục.
Chương 2: SỰ GỌI ĐẾN VÀ SAI ĐI CỦA ÊSAI
Các tiên tri được chia làm hai thành phần, “đại tiên tri” và “tiểu tiên tri”. Danh hiệu nầy không ám chỉ “đại tiên tri” thì cao hơn “tiểu tiên tri”. Sự khác biệt nầy thuộc vào độ dài của sách mà họ viết. Khi chúng ta suy nghĩ về “đại” hay “tiểu” tiên tri thì Êsai chính là một “đại” tiên tri vì sách của ông dài nhất trong tất cả các sách tiên tri.
Êsai xuất thân từ giới quý tộc. Truyền thống Rabi cho chúng ta biết rằng ông có bà con bên nội với vua Ôxia và vua Giôách. Chức vụ Êsai trải qua nhiều đời vua, di sản vương tộc của ông là sự chuẩn bị tốt cho chức vụ mà Đức Chúa Trời kêu gọi.
Một Số Cái Nhìn Cốt Lõi Mang Tính Lịch Sử
Vì đây là sự khảo sát Kinh thánh một cách thực tế và hết lòng, nên có một vài bối cảnh lịch sử mà bạn cần phải lưu ý để hiểu về sứ điệp của các tiên tri. Trong thời các tiên tri sống,rao giảng, viết sách, và thi hành chức vụ (khoảng từ 800 TC đến 400 TC) thì có ba thế lực lớn: Đế quốc Asyri xâm lược Vương quốc phía Bắc của Ysơraên; Đế quốc Babylôn, xâm lược và cai trị Vương quốc phía Nam của Giuđa sau khi họ chinh phục đế quốc Asyri, và Mêđi-Batư xâm chiếm Babylôn.
Êsai sống vào thời kỳ Asyri thống trị các thế lực trên thế giới. Trước khi Asyri xâm chiếm Vương quốc phía Bắc và kinh đô Samari, mười chi phái phía Bắc được gọi là “Ysơraên”,Ysơraên bị bắt làm phu tù và không còn được nhắc đến nữa. Nhiều bài giảng của Êsai đã cảnh báo Vương quốc phía Bắc rằng cuộc xâm lược của người Asyri đang đến gần, đó là sự đoán phạt của Đức Chúa Trời về tội thờ hình tượng.
Sau khi xâm chiếm Vương quốc phía Bắc, bắt mười chi phái nầy làm phu tù, người Asyri quay về phía Nam và xâm lược Vương quốc phía Nam. Họ chiếm lấy bốn mươi sáu thành của Giuđa. Quân đội Asyri càng lúc càng tiến gần đến thành Giêrusalem, bắt hai trăm ngàn tù binh đem về Asyri. Tuy nhiên, khi quân đội Asyri tiến đến thành Giêrusalem, thì chức vụ tiên tri của Êsai bắt đầu tỏa sáng.
Lúc đó vua của Vương quốc Giuđa phía Nam là Êxêchia, một người tin kính và là một chiến sĩ cầu nguyện, là trước giả của mười Thi thiên. Khi quân Asyri tiến đến cổng thành Giêrusalem, vị tướng của chúng lớn tiếng lăng mạ những người giữ thành, kêu gọi dân Giuđa đầu hàng.
Trong khi vua Êxêchia ở trong đền thờ kêu xin Đức Chúa Trời giải cứu cho dân Ngài, thì Êsai có một khải tượng. Do vậy, ông vào trong đền thờ và nói với Êxêchia rằng sự giải cứu đang đến gần vì Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu xin của vua. Êsai nói với vua rằng quân đội Asyri sẽ nhận được lịnh rút quân. Và khi về đến Asyri, vị tướng của họ sẽ bị giết.
Đêm hôm đó, 185.000 quân Asyri bị chết trong trại quân của họ vì một căn bịnh truyền nhiễm. Sáng hôm sau, phát hiện ra điều nầy, quân đội Asyri liền quay về nhà. Khi chúng về đến Asyri, lời tiên báo của Êsai liền được ứng nghiệm, vị tướng kia bị hai con trai mình sát hại. Nói theo cách loài người, thì bạn có thể nói rằng nếu không được tác động bởi chức vụ của Êsai, thì người Asyri đã thôn tính và hủy diệt cả hai Vương quốc, phía Bắc và phía Nam.
Êsai cho chúng ta một trong những tấm gương quan trọng nhất của Kinh thánh về việc tiên báo của một vị tiên tri. Ông tiên báo quân Pherơsơ sẽ xâm chiếm Babylôn, rồi Siru Đại đế cho phép các phu tù hồi hương để xây dựng đền thờ. Ông nhắc đến tên Siru hai lần và nói trước về sự kiện vĩ đại nầy trong lịch sử dân Do thái.
Truyền thuyết kể rằng các trưởng lão Giuđa bị phu tù đã trình sứ điệp của Êsai lên vua Siru, và lời tiên tri lạ lùng nầy đã làm lay chuyển Siru đến nỗi ông đã ban ra một chiếu chỉ khác thường. Không những ông đồng ý cho phép họ hồi hương mà còn đóng góp vật chất để tái thiết đền thờ. Lời tiên báo của tiên tri Êsai ứng nghiệm chính xác, khi Pherơsơ xâm chiếm Babylôn, việc đầu tiên Siru đại đế thực hiện là ban hành chiếu chỉ cho các phu tù Giuđa được trở về Giêrusalem và tái thiết đền thờ (Êsai 44:28-45:7; Exơra 1:2-4).
Một Nhà Rao Giảng Vĩ Đại
Êsai ắt hẳn là một nhà rao giảng vĩ đại. Theo Chúa Jêsus thì Giăng Báptít là vị tiên tri lớn nhất do người nữ sanh ra (Luca 7:28). Tuy nhiên, chúng ta biết rằng khi Giăng rao giảng trong sa mạc, thì ông đã giảng bài giảng của Êsai (Luca 3:4). Khi vị “tiên tri lớn nhất do người nữ sanh ra” trình bày bài giảng của Êsai, thì có thể nói Êsai là “tiên tri của các tiên tri”.
Êsai rao giảng ít nhất trong năm mươi năm, có thể là sáu mươi năm. Ông sống trong khoảng năm đời vua Giuđa và sáu đời vua Ysơraên. Cho dù ông nói rất nhiều việc xảy ra cho Vương quốc phía Bắc bởi người Asyri, song công việc chủ yếu và lòng quan tâm thì lại hướng về Vương quốc phía Nam Giuđa.
Nếu bạn muốn biết bối cảnh lịch sử của sách Êsai, hãy đọc cẩn thận các câu mở đầu của lời tiên tri nầy. Các sách tiên tri thường xác định niên đại một tiên tri qua việc ký thuật cho chúng ta biết người ấy đã sống và thi hành chức vụ dưới đời vua nào. Các vị vua cai trị trong thời Êsai, có vua tốt và cũng có vua gian ác nữa. Một trong các vua gian ác là Manase, theo truyền khẩu là người đã giết Êsai bằng cách cưa làm hai. Nhiều học giả tin rằng sự tuận đạo của Êsai được mô tả trong chương nói về đức tin của các anh hùng đức tin trong Cựu ước, họ đã bị “cưa làm hai”(Hêbơrơ 11:37).
Sự Phân Chia Sách
Sách Êsai được chia cách hợp lý như sau: Ba mươi chín chương đầu là sứ điệp liên quan đến việc cảnh báo dân sự về thảm họa xâm lược và bị phu tù dưới tay người Asyri. Hai mươi bảy chương sau là sứ điệp chữa lành và an ủi. Gần như ba mươi chín chương đầu của Êsai là “cuộc giải phẫu thuộc linh”, và hai mươi bảy chương sau là sự hồi phục sau khi “giải phẫu”.
Cách phân chia sáu mươi sáu chương của sách Êsai khiến chúng ta nghĩ là có sự tương đồng nào đó giữa sách nầy của Kinh Thánh với chính Kinh thánh. Hãy nghĩ đến sự tương đồng đầy lý thú nầy: có sáu mươi sáu chương trong sách Êsai; cũng có sáu mươi sáu sách trong Kinh thánh. Sách Êsai được chia làm hai phần, với ba mươi chín chương và hai mươi bảy chương. Kinh thánh cũng được chia làm hai phần, Cựu ước có ba mươi chín sách, và Tân ước có hai mươi bảy sách. Phần đầu của sách Êsai giống Cựu ước, với nhiều lời cảnh báo nghiêm khắc và sứ điệp trừng phạt, bày tỏ tình trạng thực tế của con người và con người có thể tìm được giải pháp trong Đức Chúa Trời.
Phần thứ hai của sách Êsai lại giống Tân ước, trong đó đem lại sự an ủi và hy vọng cho những người hướng sự quan tâm về nhu cầu của họ vào Đấng Cứu Chuộc vì họ đã đọc phần “Cựu ước” của sách Êsai là phần chỉ dẫn phương cách đến với Đấng Cứu chuộc. Cựu ước bắt đầu với chữ “Ngươi ở đâu?”(Sáng thế ký 3:9). Tân ước bắt đầu với câu hỏi: “Ngài ở đâu?”(Mathiơ 2:2). Hai phần của sách Êsai hướng sự quan tâm của chúng ta về Đấng Cứu Chuộc và giới thiệu về Người Đầy Tớ chịu thương khó trong chương năm mươi ba.
Sự Kêu Gọi Êsai
Hai phần trong sách Êsai giúp chúng ta hiểu về chính con người, cũng như chức vụ và sứ điệp của ông. Trong chương sáu, mô tả về sự kêu gọi, hay là sứ mệnh của Êsai. Trong Kinh thánh, tất cả dân sự của Đức Chúa Trời đến với Ngài cũng đầy ý nghĩa như khi họ ra đi cho Ngài. Chương sáu của sách Êsai diễn tả kinh nghiệm về sự kêu gọi và sự ra đi của ông cho Đức Chúa Trời.
Khi Êsai kinh nghiệm sự kêu gọi, ông nghe tiếng Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?”(8). Để đáp ứng, Êsai bày tỏ sự thuận phục: “Có tôi đây, xin hãy sai tôi!” Gương mẫu nầy rất rõ ràng trong Kinh thánh. Tất cả dân sự của Đức Chúa Trời đến với Ngài để nhận một sứ mệnh và ra đi cho Ngài.
Đức Chúa Trời giải thích cho Êsai: “Hỡi Êsai, dân sự sẽ không lắng nghe ngươi. Mục đích đi ra của ngươi không phải là làm cho chúng nó hồi tâm. Chúng nó đã chọn con đường lìa bỏ Ta. Nhưng Ta muốn người đi, bởi vì Ta muốn họ nghe sứ điệp của Ta”. Đó quả là một sự khắc nghiệt cho người rao giảng. Bạn hãy tưởng tượng một người rao giảng suốt năm mươi hoặc sáu mươi năm mà không hề có một người nào đáp ứng!
Sự tận tụy trong sứ mạng của Êsai là điều đáng kinh ngạc. Ông chỉ hỏi mộât cách đơn giản: “Đến bao giờ thì họ sẵn lòng lắng nghe?” Đức Chúa Trời trả lời: “Cho đến chừng các thành bị hoang vu, không có dân ở, nhà không có người, và đất đã nên hoang vu cả; cho đến chừng Đức Giêhôva dời dân đi xa, và trong xứ rất là tiêu điều”(6:11-12). Sự thuận phục của Êsai chính là tấm gương cho hết thảy chúng ta. Thật ra, sự thuận phục của tất cả các tiên tri nầy chính là bài giảng vĩ đại nhất mà họ rao giảng. Họ kết ước với Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sai họ đi, thế là họ đi. Khi họ ra đi, điều quan trọng đó là giữ lòng trung thành với Đức Chúa Trời và làm trọn phận sự mà Ngài sai phái.
Phận sự của chúng ta là làm những gì Đức Chúa Trời kêu gọi và sai phái, kết quả sự vâng lời của chúng ta là việc của Ngài. Chỉ có Ngài, Đức Thánh Linh, có thể làm cho kết quả.Phận sự của chúng ta là trung tín. Sanh ra kết quả là trách nhiệm của Đức Chúa Trời. Phận sự của chúng ta là hãy hết lòng làm những gì Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm.
Chương 3: SỨ ĐIỆP VỀ ĐẤNG MÊSI
Sách Êsai có nhiều sứ điệp về Đấng Mêsi hơn các sách tiên tri khác trong Kinh thánh. Sách tiên tri Êsai được trích dẫn nhiều hơn bất kỳ sách tiên tri nào khác trong Cựu ước. Khi bạn đọc Êsai, hãy lưu ý sứ điệp về Đấng Mêsi qua lời rao giảng của ông. Trong sách Êsai bạn sẽ tìm thấy lời tiên tri liên quan đến những danh xưng về Đấng Mêsi: “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ Lùng, là Đấng Mưu Luận, là Đức Chúa Trời Quyền Năng, là Cha Đời Đời, là Chúa Bình An”(Êsai 9:5). Êsai giải nghĩa về Đấng Mêsi là Đức Chúa Trời trở nên xác thịt, hoặc “Emmanuên” nghĩa là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Mathiơ 1:23).
Êsai cũng cho chúng ta biết bản chất của Đức Thánh Linh sẽ được bày tỏ ra qua Đấng Mêsi khi Ngài đến: “Có một chồi sẽ nứt lên từ gốc Ysai, một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái. Thần của Đức Giêhôva sẽ ngự trên Ngài, tức là thần khôn ngoan và thông sáng, thần mưu toan và mạnh sức, thần hiểu biết và kính sợ Đức Giêhôva. Ngài lấy sự kính sợ Đức Giêhôva làm vui;chẳng phán xét theo mắt mình thấy, và chẳng cứ sự tai nghe mà đoán định”(Êsai 11:1-3). Đây là điều được ám chỉ trong sách Khải huyền: “Bảy vị thần của Đức Chúa Trời” (Khải huyền 3:1: 4:5; 5:6).
Trong Kinh thánh, con số bảy là biểu tượng cho sự trọn vẹn, khi Êsai nói cho chúng ta về sự hiện đến của Đấng Mêsi, ông thật sự muốn nói: “Đấng Mêsi sẽ là sự bày tỏ trọn vẹn Thánh linh của Đức Chúa Trời”. Đấng Mêsi sẽ bày tỏ bản chất thần linh của Đức Chúa Trời trong bảy phương diện nầy. Biểu lộ ra đời sống của Ngài là Thần khôn ngoan, Thần hiểu biết, Thần thông sáng, Thần mưu luận, Thần mạnh sức, Thần thờ phượng, và Thần của Đức Chúa Trời.
Khi đọc bốn sách Phúc âm, hình ảnh nào về Chúa Jêsus khiến bạn luôn ghi nhớ trong tâm trí? Theo Êsai thì đặc tính của Đấng Mêsi là: Đời sống của Ngài bày tỏ Thần của sự khôn ngoan và hiểu biết. Ngài biết và hiểu rõ Lời của Đức Chúa Trời một cách trọn vẹn. Thần của sự khôn ngoan có nghĩa là áp dụng sự hiểu biết, vì thế Chúa Jêsus cũng bày tỏ Thần khôn ngoan khi Ngài áp dụng Lời của Đức Chúa Trời vào đời sống riêng tư của Ngài và đời sống của người khác. Điều nầy có nghĩa là Ngài sẽ bày tỏ Thần mưu luận. Khi Ngài hành động, sẽ có một đời sống năng động thay đổi trong đời sống và chức vụ của Ngài, bày tỏ Thần linh mạnh sức và quyền phép.
Cuối cùng, Êsai nói tiên tri rằng Đấng Mêsi sẽ hiện đến và bày tỏ Thần linh của sự thờ phượng, hoặc Thần kính sợ Đức Chúa Trời. Ông giải luận thêm rằng Ngài sẽ vui thích trong sự bày tỏ cuối cùng về Thần linh thờ phượng nầy. Khi bạn đọc các sách Phúc âm, bạn sẽ thấy là khi Chúa Jêsus không phục vụ con người thì Ngài cầu nguyện và thờ phượng trong nơi vắng vẻ. Hãy đọc bốn sách Tin lành để tìm kiếm con số bảy nầy, sự bày tỏ trọn vẹn Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã được đầy trọn trong cuộc đời Chúa Jêsus.
Vào nửa cuối thế kỷ hai mươi, có xảy ra một cuộc phấn hưng kỳ diệu trong Đức Thánh Linh. Khi chúng ta giải thích những kinh nghiệm của mình về Đức Thánh Linh, chúng ta thường tạo ra sự chia rẽ và lộn xộn vì chúng ta mắc phải một số lỗi lầm trong cách mà chúng ta gán cho những kinh nghiệm đó là của Đức Thánh Linh. Thí dụ như bạn có bao giờ nghe người ta nói về Đức Thánh Linh đầy dẫy trên các tín hữu, mục sư hoặc Hội thánh chưa? Điều nầy ngụ ý đến hai loại tín hữu, mục sư hoặc Hội thánh. Có nhiều tín hữu, mục sư và Hội thánh được đầy dẫy Đức Thánh Linh và cũng có nhiều tín hữu, mục sư và Hội thánh khác không bao giờ được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Đó có phải là điều Kinh thánh muốn nói đến khi mô tả những tín hữu được đầy dẫy Đức Thánh Linh không? Tất cả tín hữu đều nhận được mạng lệnh: “Phải đầy dẫy Đức Thánh Linh”(Êphêsô 5:18). Theo nghĩa đen của nguyên ngữ thì đây là mạng lệnh cho chúng ta: “Phải được đầy dẫy Đức Thánh Linh”, trong nguyên ngữ Hylạp, lời dạy dỗ nầy được xây dựng theo một mạng lệnh rõ ràng và không có sự chọn lựa nào khác cho các môn đệ đích thật của Chúa Jêsus.
Được đầy dẫy Đức Thánh Linh nghĩa là gì? Trong sách Công vụ cho chúng ta biết rằng Phierơ “được đầy dẫy Đức Thánh Linh”, đã giảng một bài giảng rất thành công trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Sau đó chúng ta đọc: “Phierơ, được đầy dẫy Đức Thánh Linh” tiếp tục rao giảng nữa và hàng ngàn người được cứu. Mãi về sau chúng ta cũng còn đọc thấy: “Phierơ, được đầy dẫy Đức Thánh Linh” làm việc nầy hoặc việc kia. Vậy thì, giữa những lần Kinh thánh cho chúng ta biết Phierơ được đầy dẫy Đức Thánh Linh, thì liệu ông có được đầy dẫy Đức Thánh Linh không?
Đức Thánh Linh không phải là một hợp chất, mà là một Thân Vị, và chúng ta có thể có sự hiện diện của Thân vị Đức Thánh Linh trong đời sống hoặc không. Câu hỏi thật sự không phải là: “Chúng ta có Đức Thánh Linh bao nhiêu?” nhưng là: “Đức Thánh Linh chiếm hữu chúng ta bao nhiêu?” Khi Ngài chiếm hữu chúng ta trọn vẹn, có nghĩa là chúng ta được đầy dẫy Đức Thánh Linh.
Một tín hữu được đầy dẫy Đức Thánh Linh tức là tín hữu được Đức Thánh Linh kiểm soát. Trước khi Phaolô truyền mạng lệnh cho chúng ta phải được đầy dẫy Đức Thánh Linh, ông viết: “Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh”(Êphêsô 5:18). Giống như một người say ở dưới sự ảnh hưởng hoặc kiểm soát của rượu, thì
chúng ta cũng ở dưới sự ảnh hưởng hoặc kiểm soát của Thánh Linh.
Lời tiên tri tuyệt vời nầy của Êsai có thể dạy chúng ta rằng chúng ta không nên sợ được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Bởi vì, nếu chúng ta được đầy dẫy Đức Thánh Linh, được Thánh Linh của Đức Chúa Trời kiểm soát hoàn toàn, và nếu chúng ta kinh nghiệm Đức Chúa Trời là thể nào trong Thánh Linh, thì chúng ta trở nên giống Đức Chúa Jêsus Christ khi Ngài biểu lộ và bày tỏ ra bảy phương diện về Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
Ở đây Êsai cho chúng ta biết rằng Chúa Jêsus là sự bày tỏ trọn vẹn về Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus lúc nào cũng được Đức Thánh Linh kiểm soát một trăm phần trăm, hay là Ngài được đầy dẫy Đức Thánh Linh mọi lúc mọi nơi. Thánh Linh của Đức Chúa Trời được bày tỏ trọn vẹn qua cuộc đời của Chúa Jêsus Christ. Và Ngài như thế nào? Hãy đọc bốn sách Tin lành và xem xét. Phải chăng có người nào đọc các sách Tin Lành mà không muốn giống Chúa Jêsus? Hiển nhiên, đời sống của Ngài là kiểu mẫu mà qua đó mọi người chúng ta nên sống để bày tỏ bản chất thuộc linh của Đức Chúa Trời – Ngài là Đức Thánh Linh.
Đại Lộ Của Đức Chúa Trời
Trong Êsai bốn mươi chúng ta thấy lời tiên tri tuyệt vời khác về Đấng Mêsi:”Có tiếng kêu rằng: Hãy mở đường trong đồng vắng cho Đức Giêhôva; hãy ban bằng đường cái trong đất hoang cho Đức Chúa Trời chúng ta! Mọi nơi sủng thấp sẽ được cao lên; mọi núi mọi gò sẽ bị hạ xuống: các nơi gập ghềnh sẽ làm cho bằng, các nơi dốc hãm sẽ làm thành đồng nội. Bấy giờ sự vinh hiển của Đức Giêhôva sẽ hiện ra, và mọi xác thịt đều sẽ xem thấy; vì miệng Đức Giêhôva đã phán vậy” (35).
Khi Giăng Báptít rao truyền các bài giảng của Êsai, thì Luca 3:4-6 là một bài giảng vĩ đại nhất của Êsai. Ông giảng rằng Đức Chúa Trời đến trong thế gian nầy trong Thân vị Con Đức Chúa Trời, là Đấng Mêsi. Êsai so sánh việc nầy với việc một vị vua du hành. Nếu vị vua đi đến một làng xa kia, các thần dân của ông sẽ xây một đại lộ để vua có thể đi qua. Họ gọi con đường đó là “Đại lộ của Hoàng đế”. Khi xây đắp một đại lộ, bạn cần phải làm bốn việc: san bằng các đồi núi, lấp đầy các trũng, làm thẳng các chỗ quanh co, và làm bằng phẳng các chỗ gồ ghề.
Êsai sử dụng minh họa thường ngày với ý muốn nói: “Đức Chúa Trời muốn du hành vào trong thế gian nầy, Ngài cần một đại lộ. Đại lộ mà Đức Chúa Trời dùng để đến thế gian nầy chính là cuộc đời của Con Ngài. Cuộc đời của Con Đức Chúa Trời là một đời sống đã được tiên báo rằng các núi kiêu ngạo sẽ bị san bằng, các trũng thấp sẽ được làm cho đầy, các nơi quanh co tội lỗi sẽ được làm cho ngay thẳng, và Con Đức Chúa Trời sẽ làm cho những chỗ gồ ghề trở nên bằng phẳng, êm ái. Kế đến, Đại lộ được hình thành để Đức Chúa Trời có thể du hành vào trong thế gian nầy, và mọi xác thịt sẽ xem thấy sự cứu rỗi và vinh quang của Đức Chúa Trời qua Đại lộ đó”.
Khi Chúa Jêsus hướng dẫn cho chúng ta cách sống, thì điều nầy có nghĩa là cuộc sống của chúng ta trở nên đại lộ của Đức Chúa Trời. Tôi kêu gọi bạn hãy cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy làm cho cuộc đời con trở thành một đại lộ mà trên đó Ngài có thể bước vào thế gian nầy”. Khi bạn cầu nguyện lời nầy rồi, thì đừng ngạc nhiên nếu “Thần linh san bằng” của Đức Chúa Trời bày tỏ ra, và san bằng núi kiêu ngạo của bạn, làm đầy chỗ trũng thấp và trống rỗng, làm thẳng các chỗ tội lỗi quanh co, và làm bằng phẳng, êm ái các chỗ gồ ghề của bạn. Khi bạn và tôi cầu nguyện lời nầy rồi, Đức Chúa Trời sẽ treo một bảng báo hiệu trên đời sống của chúng ta: “Chú ý: Công trường của Đức Chúa Trời đang làm việc!”
Bản Tuyên Ngôn Naxarét
Một bài giảng tuyệt vời khác của Êsai nằm trong chương sáu mươi mốt. Đây là lời tiên tri về chức vụ công khai của Đức Chúa Jêsus. Khi Chúa Jêsus bắt đầu ba năm chức vụ, Ngài khởi sự với một bản tuyên ngôn, mà các học giả gọi là “Bản Tuyên Ngôn Naxarét”. Chúa Jêsus vào trong nhà hội và lấy cuộn sách tiên tri Êsai. Ngài mở đến gần cuối cuộn sách và đọc những lời nầy: “Thần của Chúa Giêhôva ngự trên Ta; vì Đức Giêhôva đã xức dầu cho Ta, đặng giảng tin lành cho kẻ khiêm nhường. Ngài đã sai Ta đến đặng rịt những kẻ vỡ lòng, đặng rao cho kẻ phu tù được tự do, kẻ bị cầm tù được ra khỏi ngục; đặng rao năm ban ơn của Đức Giêhôva; đoạn Ngài tuyên bố rằng những lời mà Ngài vừa đọc đang được ứng nghiệm”(Êsai 61:1-2; Luca 4:18).
Nếu bạn so sánh lời tiên tri của Êsai trong chương sáu mươi mốt với lời trích dẫn của Chúa Jesus ở sách Luca trong chương bốn, bạn sẽ nhận thấy rằng Ngài dừng sự trích dẫn sách Êsai ngay chính giữa một câu. Êsai còn tiếp tục “và ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta”. Chúa Jêsus không đọc phần nầy vì câu đó diễn tả sự hiện đến lần thứ hai của Ngài.
Đấng Mêsi sẽ trở lại và báo thù mọi kẻ thù nghịch của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus đã ngừng lại giữa câu đó và trả cuộn sách lại cho các thầy Rabi, Ngài công bố bản tuyên ngôn về ba năm chức vụ của Ngài kể từ hôm đó. Xong rồi Ngài phán: “Hôm nay đã được ứng nghiệm lời Kinh thánh mà các ngươi mới vừa nghe đó” (Êsai 61:12; Luca 4:18-21).
Chúa Jêsus phán: “Thần của Chúa ngự trên Ta, vì Ngài đã xức dầu cho Ta đặng truyền Tin lành cho kẻ nghèo”. Những người nghèo nầy là nghèo trong ý nghĩa bị mù lòa. Sự mù lòa của họ có nghĩa là họ không biết phân biệt phải trái. Họ cũng nghèo trong ý nghĩa bị trói buộc, không được tự do. Họ cũng nghèo trong nghĩa bị tan vỡ và thương tích.
Trong nhà hội ngày hôm đó, Chúa Jêsus công bố: “Chức vụ của Ta hướng về những người mù, bị trói buộc, tan vỡ và thương tích. Khi Ta công bố Tin lành cho người nghèo, thì người mù sẽ thấy, người bị trói buộc được buông tha, và người tan vỡ, thương tích được chữa lành”. Khi công bố bản tuyên ngôn Naxarét vĩ đại nầy, Đức Chúa Jêsus bắt đầu công khai ba năm chức vụ của Ngài.
Bản tuyên ngôn Naxarét là một khuôn khổ tuyệt vời mà qua đó bạn có thể xem xét chức vụ của Chúa Jêsus trong bất cứ sách nào của bốn sách Tin lành, đặc biệt là trong sách Tin lành Luca. Khi Chúa Jêsus, là Đức Chúa Trời ở với chúng ta, muốn công bố một bản tuyên ngôn để cho biết Ngài là ai, Ngài là gì và đang làm gì ở đây, giống như Giăng Báptít, Ngài đã giảng một trong những bài giảng của Êsai.
Khi bạn đọc bốn sách Tin lành, hãy xem Chúa Jêsus đã làm gì trong ba năm, sau khi công bố bản tuyên ngôn của Ngài. Ngài đã ban ánh sáng cho người mù. Mặc dù Ngài chữa lành người mù theo nghĩa đen, qua chức vụ giảng đạo, Ngài cũng ban ánh sáng thuộc linh cho những người bị mù tâm linh. Ngài có lòng thương xót lớn lao đối với đoàn dân bởi vì họ giống như chiên không biết phân biệt phải trái. Ban ánh sáng cho người mù thuộc linh hiển nhiên là một phép ẩn dụ mô tả chức vụ giảng đạo của Ngài.
Trong chức vụ khuyên bảo, Ngài cho kẻ phu tù được tự do. Ngài hứa với người bị trói buộc rằng nếu họ muốn theo Ngài, thì Ngài sẽ dẫn họ vào trong Lẽ Thật để họ được buông tha (Giăng 8:30-35).
Nếu bạn là một người mù lòa thuộc linh, bị lẫn lộn, không thể phân biệt phải trái, thì nhiệm vụ của Đấng Mêsi là hướng dẫn bạn. Bổn phận của Ngài là đáp ứng nhu cầu của bạn,giúp bạn nhận được ánh sáng trong sự tối tăm của mình. Nếu bạn chưa được tự do, nếu bạn là người nghiện ngập, bị sai khiến bởi thói quen xấu và tham dục, thì trách nhiệm của Đấng Mêsi là hướng dẫn bạn. Ngài đến vì những người như bạn. Ngài muốn bạn được tự do. Nếu bạn bị thương tích và ngã quỵ vì cuộc sống khó khăn, hãy nhớ rằng Chúa Jêsus đến vì những người như bạn. Ngài muốn bạn được chữa lành. Ngài muốn làm cho bạn nên trọn vẹn.
Nếu bạn đã kinh nghiệm sự cứu rỗi kỳ diệu mà Chúa Jêsus và Êsai mô tả trong bản tuyên ngôn về Đấng Mêsi, thì khi bạn hòa nhập vào trong thế gian và tiếp xúc với mọi người,hãy nhớ rằng công việc của Chúa Jêsus là hướng dẫn họ. Hãy tự hỏi: “Họ có bị mù không? Có bị trói buộc không? Có đau khổ không?” Chúa Jêsus Christ, Đấng sống trong bạn, muốn hành động trong đời sống của họ giống như Ngài đã hành động trên bạn. Ngay lúc nầy Ngài muốn thực hiện qua đời sống bạn.
Khi dành thì giờ cuối cùng với các môn đệ trước khi lên thập giá, Chúa Jêsus phán với họ rằng Ngài sẽ sai Đấng Yên Ủi, là Đức Thánh Linh đến ở cùng họ. Đó là điều Tân ước muốn nói đến khi bảo rằng chúng ta, những người theo Chúa Jêsus, là Hội thánh, là “thân thể của Đấng Christ”. Ngài sống trong chúng ta, chúng ta là tay của Ngài, là chân của Ngài, là chính thân thể của Ngài mà qua đó, ngày nay, Ngài bày tỏ chính mình Ngài, ban ánh sáng cho người mù, giải thoát cho người bị trói buộc, chữa lành cho người bị tan vỡ và thương tích trong thế gian nầy.
Sự Thương Khó Của Chúa Cứu Thế
Một lãnh vực khác trong sứ điệp về Đấng Mêsi của Êsai là hướng về sự chết của Chúa Jêsus Christ. Trong Kinh thánh, Êsai năm mươi ba là chương hàm ý rõ ràng nhất về sự chết của Chúa Jêsus. Trong chương tuyệt vời nầy Êsai bắt đầu với câu hỏi: “Ai tin điều đã rao truyền cho chúng ta, và cánh tay Đức Giêhôva đã được tỏ ra cho ai?” Hãy nhớ rằng Êsai được giao sứ mạng rao giảng cho những người không tin ông. Ông nhận thức rất rõ về điều đó khi Lời của Đức Chúa Trời được rao giảng, Nếu Đức Thánh Linh không bày tỏ ý nghĩa Lời ấy cho con người, thì không ai có thể hiểu hoặc tin được.
Điều mà Êsai thật sự muốn hỏi là: “Người nào thực sự hiểu được ý nghĩa sự chết của Chúa Jêsus?” Trọng tâm lời giảng của Êsai trong chương nầy nằm trong câu thứ sáu: “Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy: Đức Giêhôva đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người”. Đức Chúa Trời chất hết thảy tội lỗi của chúng ta trên Đấng Mêsi bằng cách nào? “Nhưng Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, bởi sự sửa phạt Người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi Người chúng ta được lành bịnh”(5).
Câu sáu bắt đầu và kết thúc với chữ “hết thảy”. Lần đầu Êsai dùng chữ “hết thảy” là ông ví chúng ta giống như chiên. Có bao gồm cả bạn không? Hãy xem lại Thi thiên 23: “Đức Giêhôva là Đấng chăn giữ tôi. Ngài khiến tôi an nghỉ nơi đồng cỏ xanh tươi”(1-2). Khi chúng ta xưng nhận Đức Chúa Trời là Đấng chăn giữ chúng ta, thì chúng ta cũng đang cho rằng mình là chiên. Vậy thì, ở đây, trong lời sâu sắc nầy của Êsai, chúng ta tìm thấy một chỗ nữa trong Kinh thánh khuyến khích chúng ta xưng nhận mình là chiên. Hết thảy chúng ta đều như chiên đi lạc. Nói một cách khác, tất cả chúng ta đều là tội nhân, đều đi theo ý riêng của mình.
Lần thứ nhì dùng chữ “hết thảy”, Êsai muốn thông báo cho chúng ta một Tin Mừng. “Đức Giêhôva đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên Người”. Bạn có tin rằng mình cũng được bao gồm trong chữ “hết thảy” sau cùng đó của Êsai không? Nếu bạn nhìn nhận chữ “hết thảy” đầu tiên có cả bạn, và cũng nhận rằng chữ “hết thảy” sau cùng cũng bao hàm cả mình nữa, tức là bạn đang xưng nhận ý nghĩa sự chết của Chúa Jêsus Christ trên thập tự giá có tác động trên cuộc đời bạn. Kế đến bạn có thể kinh nghiệm sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ khi Ngài dùng đời sống của Con Ngài như là một Đại lộ mà qua đó Ngài bước vào thế gian nầy.
Chương 4:TIÊN TRI GIÊRÊMI
NHỮNG LỜI THAN KHÓC
Đại tiên tri tiếp theo trong Cựu ước là Giêrêmi. Ông được mệnh danh là “tiên tri than khóc” bởi vì ông từng than khóc nhiều lần. Vì thế, lời tiên tri của Giêrêmi thật sự là “những lời than khóc”. Sách của ông hầu như không thể lập được dàn ý, vì người ta không thể khóc theo dàn ý được. Sau khi khóc trong năm mươi hai chương, Giêrêmi đã viết một bài thơ đáng ngạc nhiên, đó là phụ lục cho các lời tiên tri của ông, được gọi là sách Ca thương, có nghĩa là “than khóc”. Qua khúc bi thương tuyệt diệu và cũng là một kiệt tác văn chương nầy,Giêrêmi đã than khóc rất nhiều.
Vài Nét Về Bối Cảnh Lịch Sử
Giêrêmi than khóc về điều gì? Tại sao ông quá bối rối như thế? Điều gì làm cho lòng ông đau đớn cực độ? Để trả lời được các câu hỏi nầy, bạn phải hiểu bối cảnh lịch sử mà vị tiên tri nầy đang sống, rao giảng và viết lên lời tiên tri khác thường nầy mà chúng ta gọi là “Sách Giêrêmi”.
Trong các câu mở đầu, chúng ta biết tiên tri khởi đầu chức vụ vào năm thứ mười ba đời vua Giôsia và thi hành chức vụ suốt thời kỳ cai trị của vua Sêđêkia, nghĩa là khoảng bốn mươi mốt năm. Ông khởi đầu chức vụ khi vị vua tốt, Giôsia, cai trị Giuđa. Trong thời Giôsia trị vì, có một vài nhân công trong lúc sửa sang đền thờ đã phát hiện nhiều cuộn sách Kinh thánh bằng da. Về mặt thuộc linh, dân sự lìa xa Đức Chúa Trời đã lâu nên không còn nhận ra đó là các bản Kinh thánh hoặc luật pháp của Đức Chúa Trời còn tồn tại. Những vị vua được đề cập trong các câu mở đầu của sách Giêrêmi là các vua tiếp nối Giôsia, có liên quan đến việc thành Giêrusalem bị sụp đổ và quân Babylôn bắt làm phu tù.
Thành Giêrusalem sụp đổ là một thảm họa kéo dài trong hai mươi năm. Thời gian đầu của sự sụp đổ thành Giêrusalem, thì Giêhôgiakim làm vua. Ông đã đầu hàng quân đội của Nêbucátnếtsa và phục tòng vua đó trong vòng ba năm tại Giêrusalem. Khi Nêbucátnếtsa đánh hạ Giêrusalem, quân đội của Babylôn đã vào trong thành, người Giuđa buộc phải phục dịch và cống nộp cho Babylôn. Tuy nhiên, sau ba năm Giêhôgiakim đã làm phản, vì thế quân đội của Nêbucátnếtsa lại đánh hạ Giêrusalem lần thứ hai. Khi Giêrusalem bị đánh hạ lần thứ hai thì Giêhôgiakin con trai của Giêhôgiakim, vẫn còn nhỏ, ra lịnh chính thức đầu hàng một lần nữa. Lần nầy người Babylôn bắt nhiều người Giuđa đem về Babylôn làm phu tù.
Khi Giêhôgiakin cho thành phố đầu hàng lần thứ hai, anh của ông là Sêđêkia được chỉ định làm “vua bù nhìn”, trên danh nghĩa là người cai trị tại Giêrusalem. Ông cai trị mười một năm, rồi cũng tạo phản, nổi dậy chống lại người Babylôn. Lần nầy, quân đội Babylôn hủy diệt, phá sập hoàn toàn thành Giêrusalem, không còn một hòn đá nào trên một hòn đá nào.
Khi người Babylôn đánh hạ Giêrusalem lần thứ ba, họ bắt tất cả dân Giuđa đem về Babylôn trừ những người già nua, bịnh tật, yếu đuối và Giêrêmi, vị tiên tri than khóc.Trong thời vua Giôsia cai trị, Đức Chúa Trời ban cho Giêrêmi một sự hiện thấy về một tai họa lớn sắp xảy ra. Ông bắt đầu rao giảng rằng sự xâm lăng của người Babylôn sắp xảy đến, sự xâm chiếm và lưu đày là hậu quả tội lỗi của dân sự. Tội thờ hình tượng là chính, và cũng bởi các tội lỗi gia tăng do sự bội đạo và bỏ qua lời của Đức Chúa Trời.
Trước hết, về cơ bản thì sứ điệp của Giêrêmi và của các tiên tri khác đều nói: “Nhược bằng dân sự Ta, là dân gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta, và trở lại, bỏ con đường tà, thì Ta ở trên trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu xứ họ khỏi tai vạ”(IISử ký 7:14). Nhưng khi dân sự không để ý đến lời rao giảng của họ, thì sứ điệp tiên tri sẽ thay đổi. Lúc đó các tiên tri như Giêrêmi sẽ rao giảng: ”Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời đang đến gần. Các người không thể tránh khỏi!”
Một Người Bị Ghét Bỏ
Khi thành Giêrusalem khởi sự bị vây hãm, Giêrêmi rao giảng một sứ điệp không được ưa chuộng, ông trở thành vị tiên tri bị ghét bỏ hơn bất kỳ vị tiên tri nào khác. Ông có một sứ điệp kép. Phần đầu của sứ điệp là việc hủy phá và bị bắt làm phu tù là điều không thể tránh khỏi, nhưng phần sau của sứ điệp là niềm hy vọng. Không giống như sự phu tù của Vương quốc phía Bắc, các tiên tri tiên báo về sự xâm chiếm và phu tù đến từ người Babylôn nhằm vào Vương quốc phía Nam có kèm theo sứ điệp hy vọng: “Các người sẽ được hồi hương sau bảy mươi năm bị phu tù ở Babylôn”.
Giêrêmi tin và giảng một cách mạnh mẽ về sứ điệp hy vọng, khi quân Babylôn bắt đầu vây hãm Giêrusalem, ông rao giảng: “Đây là chương trình của Đức Chúa Trời và không thể thay đổi được. Các ngươi hãy đi ra và đầu hàng Nêbucátnếtsa. Các ngươi đi đến Babylôn càng sớm thì ngày trở về cũng sẽ sớm hơn”.
Vì Giêrêmi rao giảng khuyên người Giuđa đầu hàng nên họ càng ghét ông hơn. Họ nói rằng sứ điệp của Giêrêmi là phản quốc. Họ ném ông vào ngục tối và giam ông trong một hầm đầy bùn. Họ ném ông xuống đó, bỏ đói và cho sống với chuột bọ.
Đất Sét Và Thợ Gốm
Giêrêmi và một số tiên tri thường làm một vài điều gì đó để minh họa quan điểm của họ. Họ diễn tả một cách sống động về những gì họ đang cố gắng truyền đạt, đôi khi qua những điều được gọi là “Giảng bằng hành động biểu tượng”. Thí dụ như Giêrêmi, một bài giảng với hành động biểu tượng trong chương mười tám được gọi là: “Bình gốm được phục hồi”.
Giêrêmi giảng rằng Đức Chúa Trời bảo ông hãy đi đến nhà người thợ gốm, tại đó ông quan sát người thợ gốm nắn một cái bình. Người thợ cố nắn một cái bình đẹp, nhưng cái bình lại không theo như ý muốn. Tức mình, ông ném cái bình xuống đất và nó vỡ ra. Người thợ nhồi đất sét trở lại và làm cái bình khác.
Khi giảng bài nầy, Giêrêmi muốn nói với dân sự rằng “Các ngươi cũng giống như cái bình gốm, mà người thợ gốm thuộc linh là Đức Chúa Trời tạo nên. Các ngươi đã không trở nên như cách mà Đức Chúa Trời muốn, vì thế sẽ Ngài hình phạt các ngươi. Ngài sẽ đem các ngươi qua Babylôn, tái tạo các ngươi, rồi đưa các người trở về như cái bình được làm nên mới hoàn toàn”.
Rõ ràng điều nầy có thể áp dụng cho cá nhân bạn và tôi. Đôi khi cuộc đời chúng ta không đi theo ý muốn Đức Chúa Trời. Vì vậy, Đức Chúa Trời phải tái tạo chúng ta. Bạn có bao giờ cảm thấy như vậy chưa? Bất ngờ cuộc đời bạn bị sụp đổ, bạn cảm thấy như bị ném xuống giống như một đống đất sét và sau đó được làm thành một cái bình mới. Sự biến chuyển từ một cái bình cũ sang một cái bình mới có thể gây đau đớn, nhưng sau khi cái bình mới đã có hình thù cụ thể rồi, thì nó sẽ được vẻ vang! Như sứ đồ Phaolô viết: “Nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người được dựng nên mới” (IICôrinhtô 5:17).
Qua sách Giêrêmi, chúng ta nên tìm cho mình những áp dụng cá nhân từ những bài giảng sâu sắc của vị đại tiên tri nầy. Đây là thời điểm Đức Chúa Trời cần đập vỡ và tái tạo chúng ta thành chiếc bình mới. Khi hậu quả tội lỗi của chúng ta không thể thay đổi và vết thương lòng không thể xóa nhòa, thì các bạn cần được trở nên một cái bình mới trong tay người thợ
gốm vĩ đại như bài giảng của Giêrêmi. Đáng buồn thay, hầu hết chúng ta không tìm kiếm và cầu xin Đức Chúa Trời biến đổi đời sống chúng ta, giống như dân sự đã loại bỏ lời giảng của Giêrêmi.
Cái Bình Vỡ
Một ngày kia, Đức Chúa Trời phán bảo Giêrêmi hãy đi mua một cái bình lớn có giá trị, cũng hãy mời theo một số trưởng lão và thầy tế lễ đến gần lối vào Cửa Gốm. Khi ông khiến cho dân sự chú ý, ông lấy cái bình và ném xuống đất cho vỡ ra từng mảnh! Đoạn Giêrêmi giảng: “Ta sẽ đập vỡ dân nầy và thành nầy cũng như đập cái bình bằng gốm, chẳng còn làm liền lại được; người ta sẽ chôn thây tại Tôphết, cho đến thiếu chỗ để chôn”(Giêrêmi 19:10 -11).
Những Lời Tiên Tri Về Đấng Mêsi
Khi Giêrêmi giải thích rõ ràng sứ điệp về sự lưu đày và tiếp đến là niềm hy vọng, giống như Êsai, ông xen kẻ những lời tiên tri về sự hồi hương từ chốn lưu đày với lời tiên tri về sự hiện đến của Đấng Mêsi.Sự hiện đến của Đấng Mêsi là niềm hy vọng tối thượng, không chỉ cho người Giuđa, song cho toàn thế giới.
Một sứ điệp như thế nằm trong chương thứ hai mươi chín. Dân sự bắt đầu bị đày sang Babylôn. Qua bức thư của Giêrêmi, Đức Chúa Trời phán với họ: “Đức Giêhôva phán: Vì Ta biết ý tưởng Ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai họa, để cho các ngươi được sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình. Bấy giờ các ngươi sẽ kêu cầu Ta, sẽ đi và cầu Nguyện Ta, và Ta sẽ nhậm lời. Các ngươi sẽ tìm Ta, và gặp được khi các ngươi tìm kiếm Ta hết lòng. Đức Giêhôva phán: Ta sẽ cho các ngươi tìm được Ta, và sẽ đem những phu tù các ngươi trở về. Đức Giêhôva phán: Ta sẽ nhóm các ngươi lại từ mọi nước và mọi nơi mà Ta đã đuổi các ngươi đến, và sẽ đem các ngươi về trong đất mà Ta đã khiến các ngươi bị đày đi khỏi đó”(11-14).
Đây là lời tóm tắt của bài giảng tuyệt vời mà Giêrêmi chia sẻ với dân Giuđa, khi họ bắt đầu trải qua cuộc sống phu tù và lao động nhọc nhằn tại Babylôn: “Đức Chúa Trời là Cha yêu thương của các ngươi, sẽ đập vỡ các ngươi, nhưng đó lại là điều tốt cho các ngươi chứ không phải làm hại. Đức Chúa Trời muốn ban cho các ngươi niềm hy vọng và một tương lai.
Trong khi các ngươi ở Babylôn, hãy kêu cầu Đức Chúa Trời. Hãy đến và tìm cầu Ngài. Nếu các ngươi tìm kiếm Đức Chúa Trời hết lòng, thì Ngài sẽ lắng tai nghe các ngươi. Ngài sẽ tìm và đem các ngươi trở về từ chốn phu tù”.
Khi Giêrêmi nói tiên tri về sự phu tù, ông đã phải chịu khổ nhiều cách và bị bắt bớ vì sứ điệp của mình. Tuy nhiên, ông tin vào sứ điệp vì biết rằng Đức Chúa Trời ban sứ điệp cho ông và đó là chân lý. Thật vậy! Việc khảo sát quan trọng để đánh giá lời tiên tri của Giêrêmi, đó là tất cả các lời tiên tri nầy đều được ứng nghiệm.
Khi bạn đọc sách tiên tri Giêrêmi, hãy tìm kiếm sứ điệp về sự đập vỡ và đoán phạt của Đức Chúa Trời trên dân Giuđa. Tuy nhiên, cũng đừng quên sứ điệp hy vọng. Áp dụng cả hai sứ điệp đó vào đời sống riêng của bạn, và hãy nhớ điều nầy: Khi Đức Chúa Trời đập vỡ bạn, Ngài biết chương trình Ngài dành cho bạn – chương trình nhào nặn bạn về mặt thuộc linh,chương trình ban cho bạn niềm hy vọng và một tương lai. Điều quan trọng là sự đáp ứng của bạn qua sự đập vỡ của Đức Chúa Trời một cách đúng đắn, hầu cho cuối cùng Đức Chúa Trời có thể đưa bạn từ chỗ phu tù của sự hoang đàng trở thành một cái bình mới.
Chương 5:NGƯỜI ĐIỀU KHIỂN CUỘC PHU TÙ
Trong lúc dân Giuđa bị xiềng xích đưa về Babylôn, Giêrêmi gởi đến họ những lời hy vọng để đối phó với sự phu tù. Những người nầy đã đầu hàng một cách thảm bại khi thành Giêrusalem sụp đổ. Họ bị choáng váng trong đau buồn, khiếp sợ và căm thù. Những lời được xức dầu của Giêrêmi giúp họ vuợt qua được bảy mươi năm phu tù: “Đức Giêhôva phán như vầy: Người khôn chớ khoe sự khôn mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; người giàu chớ khoe sự giàu mình; Nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết Ta là Đức Giêhôva,là Đấng làm ra sự thương xót, chánh trực, và công bình trên đất; vì Ta ưa thích những sự ấy, Đức Giêhôva phán vậy” (Giêrêmi 9:23-24).
Chữ được dùng thay cho chữ “khoe” trong một vài bản dịch khác là “tự hào”, thật sự Giêrêmi muốn nói: “Nếu ngươi giàu, chớ tự hào về sự giàu có mình. Nếu ngươi mạnh, chớ tự hào về sự mạnh mình. Nếu các ngươi khôn ngoan hoặc được giáo dục tốt, chớ tự hào về sự khôn ngoan và sự giáo dục tốt của mình”. Chữ “tự hào” có nghĩa là “đưa ra tất cả những tiềm năng có thể thực hiện trong bất kỳ hoàn cảnh nào để bày tỏ bản chất thực sự của Đức Chúa Trời, Ngài là ai và Ngài như thế nào trong đời sống của bạn”.
Trong tình cảnh nầy, Giêrêmi đang áp dụng không phải cho Đức Chúa Trời nhưng cho những người bị phu tù. Ví dụ, Giêrêmi đang nói với người giàu: “ngươi chớ tin vào sự giàu có của mình nữa mà bày tỏ tiềm năng dồi dào của mình. Ngươi sẽ không tìm được sự đáp ứng vì giàu có”. Những người giàu có trong vòng những người bị phu tù cũng đã bị lột sạch. Họ có thể đã tự hào về sự giàu có mình trước khi Giêrusalem sụp đổ, nhưng bây giờ thì hết rồi. Cũng thế, Giêrêmi đang nói với những người có giáo dục và mạnh mẽ rằng: “Hỡi người khôn ngoan, bây giờ ngươi không cảm thấy rất đau khổ khi đang bị dắùt đi trong xiềng xích sao? Hỡi người mạnh mẽ, người không còn tự hào về sự mạnh mẽ mình sao? Ngươi được nuôi với những khẩu phần bị hạn chế, thiếu thốn tại Babylôn và trải qua những bịnh tật ghê gớm trong thân thể”.
Âm hưởng của lời đó trông giống như một sứ điệp tiêu cực. Nhưng ở đây có một phần xác thực trong sứ điệp của Giêrêmi. Đức Chúa Trời phán với những kẻ phu tù qua Giêrêmi:“Nếu các ngươi thật muốn biết ý nghĩa và mục đích của cuộc sống cũng như đáp ứng tiềm năng của riêng ngươi, thì hãy đến cùng Ta và tương giao với Đấng Hằng Hữu”. Giêrêmi rao giảng rằng: “Các ngươi sẽ khám phá ra sự đầy đủ của mình khi các ngươi biết Đức Chúa Trời ở trên trời đang tể trị trên đất. Các ngươi sẽ hiểu rõ về Đấng Hằng Hữu và về thân phận loài người, nếu các ngươi hiểu rõ Đức Chúa Trời bày tỏ chính mình Ngài trên đất”.
Trong bài giảng tuyệt vời nầy của Giêrêmi, ông giảng rằng: “Đây là điều các ngươi có thể biết Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có thể được nhận biết bởi Ngài là Đấng có tình yêu không thay đổi, sự công nghĩa, và công bằng tuyệt đối”. Bây giờ, những điều đó được bày tỏ cho dân sự để suy gẫm khi họ bị đày ải tại Babylôn! Họ biết rằng không thể tìm được sự cung ứng và ý nghĩa trong sự giàu có hoặc giáo dục hay là sức lực. Họ cần biết là phải tìm kiếm sự cung ứng và ý nghĩa ở một nơi khác. Theo vị tiên tri thì đây là lúc thuận tiện để tìm kiếm ý nghĩa và sự cung ứng qua sự nhận biết Đức Chúa Trời. Và cũng phải nhận biết rằng những người chủ nô lệ không lúc nào rời mắt khỏi họ.
Bằng Chứng Cho Sự Hồi Hương
Trong Giêrêmi 32-33, chúng ta thấy Giêrêmi đã làm một việc rất có ý nghĩa. Đây là đỉnh điểm của cuộc bao vây, vào thời kỳ cai trị cuối cùng của vua Sêđêkia, thành phố đang sụp đổ. Lúc bấy giờ Giêrêmi đang bị tù vì những lời ông rao giảng, ông nhận được khải tượng từ nơi Đức Chúa Trời. Ngài bày tỏ cho Giêrêmi rằng con trai của chú ông là Hanamêên sẽ đến và yêu cầu ông mua miếng ruộng mà ông ấy đang sở hữu tại Anatốt. Trong lúc Giêrusalem đang bị bao vây, thì không phải là lúc tốt nhất để mua ruộng gần Giêrusalem! Nhưng Đức Chúa Trời bảo Giêrêmi phải mua ruộng. Đầy lòng tin chắc, Hanamêên đến và nói: “Tôi có một miếng ruộng ở Anatốt, Đức Chúa Trời đã bảo trong lòng tôi rằng hãy bán miếng ruộng nầy cho ông”.
Giêrêmi đồng ý mua miếng ruộng và trồng cấy trong tài sản của mình. Ông mời những người làm chứng, các thầy thông giáo làm tờ khế mua bán. Sau đó ông ký tên, đóng ấn và cất vào một cái bình đất. Thế rồi ông giảng một bài giảng với biểu tượng hành động khác. Ông giảng: “Ta đã nói với các ngươi rằng các ngươi sẽ trở về từ sự phu tù dưới tay người Babylôn.
Nầy, ta cho các ngươi biết rằng ta thật sự tin như vậy. Ta hiện đã mua một miếng ruộng cách Giêrusalem ba dặm. Các ngươi nghĩ thế nào khi ta làm việc nầy nếu ta không tin rằng các ngươi sẽ trở về, Đức Chúa Trời sẽ phục hồi lại dân Ysơraên!” Hãy đọc cách cẩn thận bài giảng đầy sự hùng biện, quyền năng mà Giêrêmi đã giảng để áp dụng và giải nghĩa hành động
đức tin tuyệt vời nầy (chương 32).
Bài giảng tuyệt vời về sự hy vọng của Giêrêmi bắt đầu ở chương ba mươi hai là một tình huống lịch sử mà trong đó ông rao giảng với những lời rất quen thuộc: “Đức Giêhôva phán rằng…. Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời cho; Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết” (Giêrêmi 33:3). Bạn đã bao giờ kêu cầu Đức Chúa Trời chưa?Ngài muốn tất cả chúng ta hãy kêu cầu Ngài bởi vì Ngài muốn bày tỏ cho chúng ta những việc lớn và đầy quyền năng mà từ trước đến bây giờ chúng ta chưa hề thấy.
Bạn thấy không, các bài giảng của Giêrêmi không phải hoàn toàn là sự diệt vong và buồn thảm. Có rất nhiều hy vọng cho dân sự của Đức Chúa Trời trong các bài giảng của ông. Đó là sự hy vọng duy nhất cho dân Giuđa khi thành Giêrusalem sụp đổ và họ bị bắt đưa đi làm phu tù tại Babylôn.
Những Chủ Đề Trọng Tâm
Khi chúng ta xem xét một cách vắn tắt các bài giảng khác của Giêrêmi, nên nhớ rằng chúng ta không nghiên cứu theo thứ tự thời gian. Ông và người thơ ký là Barúc không ký thuật lại bài giảng ngay khi ông giảng, nhưng là hồi ký sau nhiều năm ông bị bỏ tù.Một số tóm lược các bài giảng của Giêrêmi được tìm thấy trong sách. Đức Chúa Trời đã phán qua Giêrêmi: “Dân Ta đã làm hai điều ác: Chúng nó đã lìa bỏ Ta, là nguồn nước sống,mà tự đào lấy hồ, thật, hồ nứt ra, không chứa nước được”. (Giêrêmi 2:13)
Dân sự lìa bỏ Đức Chúa Trời và quên đi sự khôn ngoan đến từ lời Ngài. Theo lời Giêrêmi, họ tin những thầy thông giáo là kẻ làm cho luật pháp của Đức Chúa Trời trở nên dối trá.Vị đại tiên tri đó đã viết: “Sao các ngươi nói được rằng: Chúng ta là khôn sáng, có luật pháp Đức Giêhôva ở với chúng ta? Nhưng, nầy, ngọn bút giả dối của bọn thông giáo đã làm cho luật pháp ấy ra sự nói dối!”(8:8). Vậy thì khi người ta thành công trong việc thuyết phục bạn rằng Lời Đức Chúa Trời không đáng tin, lúc đó bạn tin vào điều gì? Tất cả chỉ là khôn ngoan và triết lý của xác thịt mà thôi. Giêrêmi kêu gọi hãy so sánh sự khôn ngoan của họ là thế nào khi đem so sánh với sự khôn ngoan được tìm thấy trong Lời Đức Chúa Trời?
Con Người Có Thể Tự Thay Đổi Được Không?
Bạn có quan tâm đến những điều mà Kinh thánh không bao giờ bảo bạn hãy thay đổi hoặc cố gắng khó nhọc để làm cho tốt hơn không? Tôi ngạc nhiên thấy có một số người cho rằng đó là tất cả những gì mà Kinh thánh dạy dỗ: Hãy làm tốt những gì có thể và cố gắng khó nhọc để làm cho tốt hơn. Kinh thánh không bảo bạn làm như thế. Thật ra, Giêrêmi chế giễu chúng ta hãy cố gắng tự thay đổi đi. Ông giảng: “Sao ngươi chạy mau để đổi đường ngươi?”(2:36), “Người Êthiôbi có thể đổi được da mình, hay là con beo đổi được vằn nó chăng? Nếu được thì các ngươi là kẻ đã làm dữ quen rồi, sẽ làm lành được”(13:23). Chúng ta không tự thay đổi được. Chúng ta được khuyến khích:“Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình”(Rôma12:2). Chúa Jêsus dạy chúng ta phải được tái sanh. Khi chúng ta được biến đổi hoặc được sanh lại,về phần chúng ta đó là một kinh nghiệm thụ động. Điều đó không giống với việc bảo chúng ta hãy thay đổi hoặc cố gắng khó nhọc hơn để làm tốt hơn.
Ai Biết Được Lòng Chúng Ta?
Giêrêmi cũng nói về tấm lòng của loài người: “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?”(Giêrêmi17:9) Dĩ nhiên, câu trả lời là chỉ có Đức Chúa Trời mới biết được lòng chúng ta “Ta, Đức Giêhôva, dò xét trong trí, thử nghiệm trong lòng, báo cho mỗi người tùy đường họ đi, tùy kết quả của việc họ làm” (10).
Đức Chúa Trời biết lòng của bạn. Bạn có thể lừa dối gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình, nhưng bạn không thể lừa dối Đức Chúa Trời. Ngài biết rõ lòng bạn và muốn đổi mới nó. Hãy cầu nguyện như vua Đavít khôn ngoan từng cầu nguyện: “Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tra xét tôi, và biết lòng tôi; Hãy thử thách tôi, và biết tư tưởng tôi; Xin xem thử tôi có lối ác nào chăng, xin dắt tôi vào con đường đời đời”(Thi thiên 139:23-24).
Xuyên suốt sách tiên tri Giêrêmi, chúng ta hãy tìm những ứng dụng cá nhân qua các bài giảng của vị tiên tri vĩ đại nầy. Có những lúc Đức Chúa Trời phải đập vỡ và tái tạo chúng ta thành cái bình mới. Khi những thói quen tội lỗi và những vết thương lòng không thể thay đổi được, thì chúng ta cần được tái tạo thành một cái bình mới như bài giảng mà Giêrêmi đã giảng khi Đức Chúa Trời sai ông đến nhà người thợ gốm.
Chương 6: NỖI BUỒN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Giêrêmi nhận được một khải tượng về hai giỏ trái vả (chương 24). Một số còn tươi ngon, vừa mới chín; còn số kia thì đã hư, nổi mốc và không thể ăn được. Đức Chúa Trời phán với Giêrêmi: “Như những trái vả tốt nầy, Ta cũng sẽ xem những kẻ phu tù Giuđa, mà Ta đã sai từ nơi nầy đến trong đất người Canhđê, cho chúng nó được ích. Ta sẽ để con mắt Ta trên chúng nó làm ích cho, và Ta sẽ đem họ về trong xứ nầy, lập lên mà không phá đi nữa, trồng lại mà không nhổ đi nữa. Ta sẽ ban cho chúng nó tấm lòng hay nhận biết Ta là Đức Giêhôva.Chúng nó sẽ làm dân Ta, và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời chúng nó; vì chúng nó sẽ hết lòng trở về cùng Ta.
Còn như Sêđêkia, vua Giuđa, các quan trưởng nó và dân sót lại của thành Giêrusalem, là dân còn ở trong đất nầy, và những kẻ ở trong đất Êdíptô, thì người ta làm cho những trái vả xấu quá ăn không được thể nào, Ta cũng sẽ làm cho chúng nó thể ấy. Ta sẽ phó chúng nó để bị ném đi ném lại giữa mọi nước thế gian cho chúng nó chịu khổ, chịu mắng nhiếc, xoi bói,cười chê, rủa sả, trong mọi xứ mà Ta sẽ đuổi chúng nó đến. Ta sẽ sai gươm dao, đói kém, ôn dịch giữa chúng nó, cho đến chừng chúng nó bị hủy diệt khỏi đất Ta đã ban cho chúng nó cùng tổ phụ chúng nó” (Giêrêmi 24:4-10).
Giêrêmi tiếp tục rao giảng sứ điệp nầy. Có hai loại người tại thành Giêrusalem khi thành phố rơi vào tay đế quốc Babylôn – những người thật sự nhận ra rằng sự lưu đày đến Babylôn là sự đập vỡ của Đức Chúa Trời. Họ đi đến Babylôn, chấp nhận sự sửa phạt của Đức Chúa Trời và ăn năn. Một số người, như Sêđêkia, không chịu thừa nhận đây là ý muốn của Đức Chúa Trời, loại bỏ lời giảng của Giêrêmi, và nổi loạn chống lại người Babylôn. Họ giống như những trái vả bị hư hoặc như cái bình bị vỡ trong bài giảng trước đó của Giêrêmi.
Những Lý Lẽ Nghịch Lại Chủ Nghĩa Nhân Văn
Một số bài giảng của Giêrêmi tương phản với cái mà ngày nay chúng ta gọi là “chủ nghĩa nhân văn”. Một số hệ tư tưởng dấy lên và trở nên phổ biến trong thế giới ngày nay, và chúng ta cho rằng chúng thịnh hành và hiện đại, nhưng thật ra không có gì mới. Chúng chỉ đơn giản là những dị giáo cũ được cải biến. Giống như chủ nghĩa nhân văn, những hệ tư tưởng nầy dạy rằng tất cả nhu cầu của con người là con người, được tìm thấy trong lịch sử cổ xưa. Câu thần chú của người theo chủ nghĩa nhân văn: “Tôi là chủ số mệnh tôi, và là hoa tiêu của linh hồn mình”. Nhưng khi nghiên cứu đời sống của Môise, chúng ta tìm thấy hệ tư tưởng đối nghịch. Chúng ta thấy sự nổi bật hoàn toàn về mặt thuộc linh, như là: “Không phải là tôi mà là Chúa, Đức Chúa Trời ở với tôi; tôi bất năng, nhưng Ngài là Đấng Toàn Năng và Ngài đang ở cùng tôi”.
Chúng Ta Có Cần Đức Chúa Trời Không?
Giêrêmi đưa ra lý lẽ chống lại tư tưởng theo chủ nghĩa nhân văn khi ông giảng trong chương thứ mười: “Hỡi Đức Giêhôva, tôi biết đường của loài người chẳng do nơi họ, người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình”(23), cũng hãy xem câu nầy: “Đức Giêhôva phán như vầy: Đáng rủa thay là kẻ nhờ cậy loài người, lấy loài xác thịt làm cánh tay, lòng lìa khỏi Đức Giêhôva”(17:5). Giêrêmi cho chúng ta thấy hậu quả tỏ tường của lẽ thật nầy: “Đáng chúc phước thay là kẻ nhờ cậy Đức Giêhôva, và lấy Đức Giêhôva làm sự trông cậy mình”(17:7).
Có nhiều người tin rằng họ sống mà không cần Đấng chăn giữ. Không có nan đề nào mà họ không thể giải quyết, họ tin vào tài khéo, trí khôn và khả năng của con người, ấy là tất cả mọi sự họ cần. Nhưng Kinh thánh nói một cách kiên định: “Không, đó không phải là tất cả những gì bạn cần, bạn cần Đấng chăn giữ, bạn cần sự khôn ngoan đến từ Đức Chúa Trời,bạn cần năng lực (ân điển) từ Đức Chúa Trời để ứng dụng sự khôn ngoan mà bạn nhận được từ Đức Chúa Trời” (Giacơ 1:5; IICôrinhtô 9:8). Đó là triết lý sống kiên định và cũng là sự giảng dạy của các tiên tri, và cũng của cả Tân ước và Cựu ước.
Sẵn Sàng Cho Lời Chúa
Phương cách chữa trị của Giêrêmi cho tội lỗi và sự bội đạo của dân Giuđa, là đem họ vào sự phu tù dưới tay người Babylôn, được trình bày trong một bài giảng lớn khác được tìm thấy trong chương bốn: “Vả, Đức Giêhôva phán cùng người Giuđa và cùng Giêrusalem như vầy: Hãy cày mở ruộng mới các ngươi, chớ gieo trong gai gốc. Hỡi các ngươi, là người Giuđa và dân cư Giêrusalem, hãy tự cắt bì mình cho Đức Giêhôva, và cất dương bì khỏi lòng ngươi! Bằng chẳng vậy, cơn giận Ta sẽ phừng lên như lửa, đốt cháy các ngươi, không ai dập tắt được, vì việc ác các ngươi đã làm”(3-4).
Bài giảng nầy cũng tương tự như bài giảng của Đức Chúa Jêsus được tìm thấy trong các sách Tin lành, đó là “Thí dụ về người gieo giống”. Chúa Jêsus phán rằng khi lời Đức Chúa Trời được rao ra, thì giống như người nông dân gieo hạt. Khi người ấy gieo, thì các hạt giống rơi trên bốn loại đất.
Bốn loại đất là hình bóng của bốn sự đáp ứng với lời của Đức Chúa Trời khi nghe giảng dạy: Có khi lời Đức Chúa Trời không thâm nhập được vào trong tâm trí và ý muốn của người nghe; có khi lời ấy thấm được vào trong tâm trí và ý muốn, nhưng khi lời đó lớn lên thì bị nghẹt ngòi vì cỏ dại, tức là sự lo lắng về đời nầy, sự giàu có và những thú vui khác, có khi lời ấy phát triển và kết nhiều quả.
Trong ví dụ nầy, Chúa Jêsus đã dựa vào bài giảng của Giêrêmi. Vị tiên tri nói với dân sự: “Đời sống các ngươi như đất bỏ hoang, lâu ngày không có gieo trồng”. Họ đã quên lời của Đức Chúa Trời. Mọi nan đề và hoàn cảnh xảy ra cho dân sự như đất được sửa soạn để tái nhận hạt giống Lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã sửa soạn đất là chính đời sống của họ để nghe lời Ngài.
Giêrêmi nói về sự cắt bì ở trong lòng. Sứ đồ Phaolô cũng dùng tương tự như thế, có thể rút ra từ Giêrêmi. Phaolô viết rằng sự cắt bì đó dành cho dân sự trong thời Cựu ước cũng như phép Báptêm cho dân sự Chúa thời Tân ước và chúng ta ngày nay. Phép cắt bì là một nghi thức, mà qua đó dân Giuđa tuyên xưng đức tin của họ. Ngày nay, phép báptêm là phương cách mà Chúa Jêsus dạy chúng ta để tuyên xưng đức tin của mình trong danh Chúa Jêsus.Bất cứ hình thức nào cũng có thể trở thành hình thức trống rỗng. Bất cứ lễ nghi nào mà không bày tỏ được ý nghĩa thực sự của nó thì cũng có thể trở nên trống rỗng và vô nghĩa.
Chúa Jêsus, các sứ đồ và các tiên tri đã nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa hành động và lời nói. Hành động và cách sống của bạn, quan trọng hơn những lời nói ra. Bày tỏ nếp sống hằng ngày là tiêu biểu cho lễ nghi mà Giêrêmi và Phaolô gọi là “cắt bì ở trong lòng”.
Bạn có tuyên xưng niềm tin không? Nếu có, thì đừng chỉ tuyên xưng những gì bạn tin, nhưng cũng hãy bày tỏ trong cuộc sống của bạn về những gì mà bạn đã tuyên xưng.
Nỗi Buồn Của Đức Chúa Trời
Trong chương hai mươi ba, Giêrêmi trình bày khá hài hước và châm biếm trong bài giảng của mình: “Nếu dân nầy, kẻ tiên tri hay là thầy tế lễ, hỏi ngươi rằng: Gánh nặng của Đức Giêhôva là gì? Khá đáp rằng: Gánh nặng gì? Đức Giêhôva phán: Ta sẽ từ bỏ các ngươi. Còn như kẻ tiên tri, thầy tế lễ, và dân sẽ nói rằng: Gánh nặng của Đức Giêhôva thì Ta sẽ phạt người ấy và nhà nó”(23:33-34).
Người ta chế nhạo Giêrêmi vì ông ta chẳng bao giờ nói ra điều gì tốt lành cả. Như chúng ta thấy, sứ điệp của ông là những lời tiêu cực do tai họa đang đến. Và những gì ông nói đều ứng nghiệm, buồn rầu và tang thương nhưng cũng còn có niềm hy vọng nữa. Bài giảng của Giêrêmi là hy vọng duy nhất của những người Giuđa biết lắng nghe, và lời tiên tri về Đấng Mêsi xen lẫn với những lời hứa về sự trở về từ chốn lưu đày của họ, bày tỏ sự hy vọng phước hạnh tối hậu của chúng ta ngày nay.
Gánh Nặng Của Giêrêmi
Sứ điệp của ông rất cảm động “Ôi! Tôi đau lòng, đau lòng! Cơn đau đớn quặn thắt lòng tôi; lòng đương bối rối trong tôi. Tôi không thể làm thinh! Hỡi linh hồn tôi, vì mầy nghe giọng kèn và tiếng giặc giã. Hủy diệt càng thêm hủy diệt, báo tin chẳng dứt, cả đất bị phá tán; nhà tạm tôi thình lình bị hủy, lều trại tôi bỗng chốc bị hư!”(4:19-20). Trong lời tiên tri mặc khải về sự xâm chiếm của Babylôn, Giêrêmi thậm chí nghe được cả tiếng reo hò của quân đội Babylôn và tiếng của dân Giuđa. Vì ông vẫn còn cảm thấy kinh hoàng về các sự kiện nầy, ông hỏi: “Tôi sẽ thấy cờ và nghe tiếng kèn cho đến chừng nào?”(21), và Đức Chúa Trời trả lời: “Thật dân Ta là ngu muội, chúng nó chẳng nhìn biết Ta. Ấy là những con cái khờ dại, không có trí khôn, khéo làm điều ác, mà không biết làm điều thiện”(22).
Bài giảng nầy của Giêrêmi có thể áp dụng cho thế hệ chúng ta. Ngày nay chúng ta thành thạo trong việc chế tạo các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, nhưng có phải chúng ta đều biết điều gì là tốt? Bạo hành và tội ác đang lan truyền trong thế giới của chúng ta. Chúng ta có những thiên tài phát minh những vũ khí nhiệt hạch, hóa học và vi trùng có thể hủy diệt hàng
loạt, nhưng chúng ta dường như không có nhiều khả năng để làm điều tốt. Ngay cả chúng ta cũng chẳng biết điều gì là tốt nữa.
Sự Kiên Nhẫn Của Giêrêmi
Giêrêmi đã đọc cho Barúc, người thơ ký trung tín, viết lại nguyên phần sách nầy từ trong ngục tối. Hoàn tất cuộn sách bài giảng theo những gì ông nhớ, ông yêu cầu cuộn sách nầy phải được đọc trước dân sự trong kỳ lễ kiêng ăn. Điều nầy gây ra một tác động lớn trên dân sự và cuối cùng cũng đến tai vua. Khi cuộn sách nầy được đọc cho vua nghe, thì tại đó có một lò lửa. Mới đọc được vài phân đoạn, nhà vua lấy một con dao nhỏ, cắt cuộn sách ra từng miếng và ném vào lửa cho đến chừng cháy hết.
Khi Giêrêmi nghe thuật lại việc nầy, ông cho gọi Barúc, người thơ ký trung tín lấy một cuộn da lớn và chép lại cuộn sách nầy. Ông nhớ lại nhiều bài giảng không được chép trong cuộn sách trước, ông đọc cho Barúc chép năm mươi hai chương sách mà ngày nay chúng ta đang khảo sát. Chúng ta sẽ không có sách Giêrêmi nếu không nhờ sự kiên nhẫn của vị đại tiên tri nầy (chương 36).
Chương 7: SÁCH CA THƯƠNG
ĐỨC CHÚA TRỜI VẪN YÊU BẠN
Sách Ca thương là cuốn tiếp theo sách Giêrêmi. Qua năm mươi hai chương, Giêrêmi khóc lóc vì khải tượng tiên tri mà Đức Chúa Trời ban cho ông về sự đe dọa xâm lược của người Babylôn. Sách Giêrêmi kết thúc với việc vị tiên tri vẫn còn ở trong đất Giuđa, trong khi hầu hết dân sự bị bắt đưa đi làm phu tù. Sau đó ông di trú sang Aicập, và theo truyền thuyết, ông đã tuận đạo tại đó. Một số học giả khác cho rằng ông đi đến Babylôn để giảng cho dân Giuđa rằng ông rất yêu họ, trong khi một số khác lại cho rằng ông ở tại đất Giuđa cho đến cuối đời.
Sách Ca thương được đặt tên khá hợp lý. “Tiên tri than khóc” vẫn tiếp tục khóc vì quốc gia vẫn còn bị thôn tính, và những người ông rất mực yêu thương không bị tàn sát đã bị bắt đi làm phu tù, nô lệ ở một xứ sở xa xôi.
Nan đề ông trình bày trong sách Ca thương, cũng được trình bày trong các sách tiên tri khác như Êxêchiên và Đaniên, đó là việc họ không được ở gần đền thờ. Người Giuđa tin rằng đền thờ là nơi Đức Chúa Trời ngự. Sự hiện diện siêu nhiên của Ngài thực sự tồn tại trong nơi chí thánh của đền thờ Giêrusalem. Đó là một sự cảm nhận về đền thờ, là nơi Đức Chúa Trời bày tỏ cho những vị tiên tri tin kính. Đây là lý do vì sao tiên tri Đaniên quay mặt về Giêrusalem để cầu nguyện. Giờ đây, Đức Chúa Trời đang hiện diện ở đâu với dân sự đang sống ở Babylôn? Đối với họ, Giêrusalem là thành phố của Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy xa cách thành thánh và Đức Chúa Trời chí thánh của họ.
Cái Hang Của Giêrêmi
Giêrêmi viết sách Ca thương khi ông sống trong một cái hang trên một ngọn đồi. Ngày nay, nơi đó còn được gọi là “hang Giêrêmi”, trên ngọn đồi có tên là “Gôgôtha”. Trong ý định thần hựu của Đức Chúa Trời, hang Giêrêmi, là một hang động, ở trên đồi Calvary, là nơi Chúa Jêsus chết thay cho nhân loại. Chúng ta sẽ thấy ý nghĩa của ý định đó khi bước vào sứ điệp của sách Ca thương.
Hình Thức Văn Chương Của Sách Ca Thương
Sách Ca thương là một tác phẩm văn học, là một kiệt tác theo thể thi ca, gồm năm bài thơ, hoặc những khúc bi thương, chứa đựng trong năm chương. Mỗi chương là một bài thơ riêng biệt, và có bốn chương thuộc thể thơ chữ đầu câu. Theo thể thơ chữ đầu, câu đầu được bắt đầu với chữ cái đầu tiên trong bảng mẫu tự, câu thứ hai bắt đầu với chữ thứ hai trong bảng mẫu tự, và cứ tiếp tục như thế. Cho dù hình thức văn chương của sách nầy tuyệt vời, nhưng chính sứ điệp được soi dẫn mới làm cho sách được xếp vào hàng Kinh thánh.
Sứ điệp được soi dẫn xoay quanh thảm kịch xâm chiếm và phu tù dưới tay người Babylôn. Sứ điệp được diễn tả một cách linh hoạt và rất cảm động: “Ta làm chứng gì cho ngươi? Hỡi gái Giêrusalem, Ta kể thí dụ chi? Ta lấy gì sánh cùng ngươi đặng yên ủi ngươi, hỡi con gái đồng trinh Siôn? Sự phá hại ngươi to như biển: ai sửa sang lại được?”(Ca thương 2:13) Sự diễn tả sinh động của Giêrêmi về thành Giêrusalem sau khi bị người Babylôn xâm chiếm, là hình ảnh đầy kinh khiếp của một thành phố bị xâm chiếm bởi một đế quốc hùng mạnh như Babylôn.
Chúng ta hãy suy nghĩ về thời điểm trong sách nầy tràn ngập sự buồn rầu và thất vọng. Như đã diễn tả trong lời tiên tri mình, Giêrêmi làm cho chúng ta bất ngờ với sứ điệp tuyệt vời đầy sự hy vọng về Đấng Mêsi. Bạn có thể nhớ lại rằng Gióp cũng có hy vọng tương tự vào lúc đau khổ tột đỉnh (Gióp 19:25-26). Chương ba của sách Ca thương, trong lúc quá thất vọng,Giêrêmi lại nhận được khải tượng lạ lùng: “Ấy là nhờ sự nhân từ Đức Giêhôva mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt; Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm. Hồn ta nói: Đức Giêhôva là cơ nghiệp ta, nên ta để lòng trông cậy nơi Ngài. Đức Giêhôva ban sự nhân từ cho những kẻ trông đợi Ngài, cho linh hồn tìm cầu Ngài. Thật tốt cho người trông mong và yên lặng đợi chờ sự cứu rỗi của Đức Giêhôva”(Ca thương 3:22-26).
Sứ điệp hy vọng đã bày tỏ cho Giêrêmi là: Đức Chúa Trời không bao giờ ngừng yêu thương chúng ta! Khi chúng ta phạm tội, Ngài vẫn yêu thương chúng ta bất kể điều đó như thế nào. Sự hy vọng của chúng ta ở trong tình yêu của Đức Chúa Trời. Giêrêmi nói với những người phu tù khi họ bị dẫn đến Babylôn: “Đức Giêhôva phán như vầy: Người khôn chớ khoe sự khôn mình; người mạnh chớ khoe sự mạnh mình; người giàu chớ khoe sự giàu mình; Nhưng kẻ nào khoe, hãy khoe về trí khôn mình biết Ta là Đức Giêhôva, là Đấng làm ra sự thương xót,chánh trực, và công bình trên đất; vì Ta ưa thích những sự ấy, Đức Giêhôva phán vậy”(Giêrêmi 9:23-24). Bây giờ Đức Chúa Trời cho Giêrêmi biết rằng chúng ta không thể giành được tình yêu của Ngài bởi việc lành, và chúng ta cũng không thể đánh mất tình yêu của Ngài bởi hành vi tiêu cực. Đức Chúa Trời không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ ngừng yêu thương chúng ta.
Bằng Chứng Tình Yêu Của Đức Chúa Trời
Trong Ca thương chương ba chép: “Nếu chẳng phải Chúa truyền lịnh, ai hay nói ra và sự ấy được thành? Há chẳng phải từ miệng Đấng Rất Cao ra tai họa và phước lành. Cớ sao người đang sống phàn nàn vì chịu hình phạt về tội lỗi mình? Chúng ta hãy xét và thử đường mình, trở về cùng Đức Giêhôva” (3:37-40).
Khi Giêrêmi trình bày sự hy vọng lớn lao nầy, ông chia sẻ một chân lý mà chúng ta đã khám phá trong sách Gióp, đó là phước lành và tai họa đều đến từ Đức Chúa Trời (Gióp 2:10).Chân lý nầy cũng được Salômôn dạy dỗ: “Đi đến nhà tang chế hơn là đến nhà yến tiệc; vì tại đó thấy sự cuối cùng của mọi người; và người sống để vào lòng. Trong ngày thới thạnh hãy vui mừng, trong ngày tai nạn hãy coi chừng; vì Đức Chúa Trời đặt ngày nầy đối với ngày kia, hầu cho người đời chẳng thấy trước đặng điều sẽ xảy ra sau mình”(Truyền đạo 7:2,14).
Hãy nhớ rằng dân sự của Đức Chúa Trời đã phạm tội thờ hình tượng. Tội thờ lạy hình tượng của họ không có ranh giới, ngay cả những thầy tế lễ sa bại và tiên tri giả cũng phạm đến.Nhưng sứ điệp của tiên tri Giêrêmi và của các tiên tri bị phu tù cũng chứa đựng sự hy vọng nầy: “Đức Chúa Trời rất yêu bạn khi thấy bạn yếu đuối, hằng ngày sống trong tội lỗi. Đức Chúa Trời không muốn những điều đó xảy ra cho bạn vì bạn là con dân của Ngài”.
Ứng dụng thuộc linh cho chúng ta, đó là khi chúng ta phạm tội, Đức Chúa Trời sẽ sửa phạt, sự sửa phạt đó chứng tỏ rằng chúng ta thật là con cái Ngài. Là cha mẹ, chúng ta nên có kỷ luật với con cái nếu thấy chúng làm điều sai trái. Làm như thế là đúng, vì chúng là con chúng ta. Chúng ta không thể kỷ luật trẻ con hàng xóm vì chúng không phải là con của chúng ta.
Trước giả sách Hêbơrơ viết rằng các sự sửa phạt đó là bằng chứng Đức Chúa Trời là Cha Thiên Thượng và Ngài yêu chúng ta (Hêbơrơ 12).
Chương 8: SÁCH ÊXÊCHIÊN
MỌI SỰ ĐỀU KỲ DIỆU VÀ LẠ LÙNG
Khi dân sự của Đức Chúa Trời bị dẫn đến Babylôn, trước giả của một Thi thiên nói rằng những kẻ làm cho họ đau khổ đã chế nhạo họ: “Các ngươi là những kẻ hay hát ngợi khen Đức Chúa Trời. Thế thì, hãy cho chúng ta nghe bài ca của các ngươi đi!” Nhưng trước giả Thi thiên đã viết: “Trên đất ngoại bang, chúng tôi làm sao hát được bài ca của Đức Giêhôva?”(Thi thiên 137:4).
Đó là bối cảnh lịch sử mà các tiên tri Êxêchiên và Đaniên đã sống một cuộc sống phi thường và phục vụ với tư cách là một tiên tri. Êxêchiên và Đaniên hầu như sống đồng thời với nhau. Đaniên bị bắt đến Babylôn làm phu tù lúc khoảng mười bốn tuổi. Êxêchiên bị đưa đến Babylôn chín năm sau đó, lúc ông hai mươi lăm tuổi. Ông rao giảng trong các trại nô lệ, là tiên tri duy nhất phục vụ trực tiếp các tù nhân.
Ngay cả vào lúc dân sự của Đức Chúa Trời bị phu tù, Ngài không muốn họ không có tiên tri. Vì vậy, Ngài sai Êxêchiên trẻ tuổi vào chỗ phu tù và thi hành chức vụ cho những kẻ bị lưu đày. Câu gốc trong sách nầy là: “Ta đã tìm một người trong vòng chúng nó, đặng xây lại tường thành, vì đất mà đứng chỗ sứt mẻ trước mặt Ta, hầu cho Ta không hủy diệt nó; song Ta chẳng tìm được một ai”(Êxêchiên 22:30). Đức Chúa Trời muốn tìm một người tại chỗ phu tù để “đứng vào chỗ sứt mẻ” ở giữa Đức Chúa Trời và dân sự. Ngài đã chọn Êxêchiên để làm
điều đó.
Tác Phẩm Mặc Khải
“Mọi sự đều kỳ diệu và lạ lùng” là tựa đề rất phù hợp cho sách Êxêchiên bởi vì nó chứa nhiều lời tiên tri lạ lùng và kỳ diệu. Cũng có nghĩa chính Êxêchiên, là một tiên tri khác thường và tuyệt vời. Khi bạn so sánh các tiên tri, bạn sẽ thấy Đaniên, Êxêchiên và sứ đồ Giăng đều bị lưu đày khi viết sách Đaniên, Êxêchiên và Khải huyền. Đaniên và Êxêchiên bị lưu đày trong thời Babylôn, còn Giăng bị lưu đày dưới thời Lamã tại đảo Bátmô. Cả ba người đều viết sách mà các học giả gọi là “tác phẩm mặc khải”. Chữ “mặc khải” có nghĩa là “vén bức màn lên” để cho người ta có thể thấy được những điều mà họ không thể thấy bằng cách nào khác.
Tác phẩm mặc khải nầy còn được gọi là tác phẩm văn chương thuộc thuyết mạt thế, không chỉ đưa chúng ta ra phía sau bức màn, nhưng còn hướng chúng ta vào tương lai. Thuyết mạt thế (mạt thế = những sự cuối cùng) có nghĩa là “sự nghiên cứu về những ngày sau cùng”. Một tiên tri thuộc thuyết mạt thế bày tỏ cho chúng ta biết những gì xảy ra khi Đức Chúa Trời kết thúc lịch sử loài người theo chương trình của Ngài. Các học giả cho rằng chương trình của Đức Chúa Trời cho việc kết thúc lịch sử loài người là giáo lý về những ngày cuối cùng hay là tận thế.
Đại Cương Sách Êxêchiên
Lời tiên tri của Êxêchiên được sắp xếp rất tốt, có thể chia ra như thế nầy: Êxêchiên nói tiên tri về sự hủy phá thành Giêrusalem, là một tiên tri bị lưu đày, một phần mục tiêu trong chức vụ của ông là chống lại sứ điệp của các tiên tri giả đang rao giảng rằng sẽ có hồi hương sớm, vì đó là những gì mà những người bị lưu đày muốn nghe.
Giêrêmi đề cập đến một tiên tri giả tên là Hanania, là người chống lại Giêrêmi và nói rằng sự phu tù không kéo dài đến bảy mươi năm, mà chỉ có hai năm thôi. Giêrêmi đối đầu với hắn và tiên báo rằng hắn sẽ chết trước khi chấm dứt hạn định đó. Lời tiên tri của Giêrêmi được ứng nghiệm (Giêrêmi 28:11-17). Dường như có nhiều tiên tri giả đang rao giảng sứ điệp đó.
Trong câu đầu tiên chương hai mươi bốn, Êxêchiên bác bỏ lời tiên tri giả nầy và nhấn mạnh việc thành Giêrusalem sẽ bị phá hủy. Giống như Giêrêmi, Êxêchiên rao giảng rằng không có cách nào tránh khỏi cuộc xâm lược của người Babylôn và sự phá hủy thành Giêrusalem. Từ chương 25 cho đến 32, Êxêchiên nói tiên tri nghịch lại Babylôn, là nước sẽ phá hủy thành Giêrusalem. Ông nói tiếp với một sự hy vọng Giêrusalem sẽ được tái thiết (chương 33-40). Cuối chương tám có một lời tiên tri về ngày tận thế. Ông tiên tri rằng ngay tại chỗ đền thờ Salômôn đã xây cất, sẽ có một đền thờ khác xây lên, ám chỉ đến đền thờ một nghìn năm bình an.
Sứ Mệnh Của Êxêchiên
Hầu hết các bài giảng của ông đều đến từ khải tượng, một số khải tượng đó cũng được tìm thấy trong sách Khải huyền. Khải tượng đầu tiên của Êxêchiên bắt đầu: “Năm thứ ba mươi, ngày mồng năm tháng tư, khi ta đương ở giữa phu tù, trên bờ sông Kêba, các từng trời mở ra, và ta xem những sự hiện thấy của Đức Chúa Trời.
Ngày mồng năm tháng ấy, bấy giờ là năm thứ năm sau khi vua Giêhôgiakin bị bắt làm phu tù, Lời của Đức Giêhôva phán riêng cho thầy tế lễ Êxêchiên, con trai Buxi, tại trong đất người Canhđê, trên bờ sông Kêba. Ấy là tại đó mà tay Đức Giêhôva đặt trên người.
Nầy, ta thấy có luồng gió bão đến từ phương bắc, một đám mây lớn bọc lửa giãi sáng khắp tư bề; từ giữa nó, thấy như loài kim bóng nhoáng ra từ chính giữa lửa. Từ giữa nó, thấy giống như bốn vật sống, hình trạng như vầy: bộ giống người, mỗi con có bốn mặt và bốn cánh… Còn như hình mặt nó, thì bốn con đều có mặt người; bốn con đều có mặt sư tử ở bên hữu; bốn con đều có mặt bò ở bên tả; và bốn con đều có mặt chim ưng… Vả, đang khi ta ngắm xem các vật sống ấy, nầy, trên đất có một cái bánh xe ở kề bên các vật sống ấy, mỗi một trong bốn mặt đều có một bánh xe… Khi các vật sống đi, chúng nó cũng đi; dừng, chúng nó cũng dừng; và khi các vật sống bị cất lên khỏi đất, thì các bánh xe cũng bị cất lên kề bên, vì thần của vật sống ở trong các bánh xe” (Êxêchiên 1:1-6, 10, 15, 21).
Bốn sinh vật sống là phần quan trọng trong khải tượng. Sứ đồ Giăng cũng đề cập đến bốn sinh vật sống nầy trong sách Khải huyền, một cánh cửa vào thiên đàng được mở ra trong khải tượng về thiên đàng của ông: “Trước ngôi có như biển trong ngần giống thủy tinh, còn chính giữa và chung quanh có bốn con sinh vật, đằng trước đằng sau chỗ nào cũng có mắt.Con sinh vật thứ nhất giống như sư tử, con thứ nhì như bò đực, con thứ ba mặt như mặt người, con thứ tư như chim phụng hoàng đang bay”(Khải huyền 4:6-7).
Một số học giả cho rằng khải tượng của Êxêchiên và Giăng là tóm tắt sự mặc khải của Đức Chúa Trời trong Kinh thánh. Lần đầu tiên khi Đức Chúa Trời mặc khải chính Ngài cho con người trên núi Sinai, tiếng Ngài giống như tiếng gầm của sư tử. Lần tiếp theo Đức Chúa Trời mặc khải chính Ngài cho con người qua sự hiến tế như được diễn tả trong sách Xuất Êdíptô ký và Lêvi ký. Con bò đực chỉ về sinh tế chuộc tội cho con người.
Con người ở giữa các sinh vật sống đưa chúng ta đến với Tin lành, nơi Đức Chúa Trời trở thành Người. Đức Chúa Trời ở giữa chúng ta ba mươi ba năm. Có một số người cho rằng chim ưng là hình bóng Đức Chúa Trời. Con Người sống giữa chúng ta, “thực sự là Người và cũng thực sự là Chúa” như bài tín điều đã nói. Sự nhập thế của Chúa Jêsus là cao điểm mặc khải về chính mình Ngài cho thế gian.
Các bánh xe có thể tượng trưng cho việc đang và sẽ tiếp tục mặc khải của Đức Chúa Trời, có lẽ các bánh xe đó bao gồm luôn cả những tiên tri là người công bố khải tượng, bởi lẽ linh của các vật sống ở trong các bánh xe. Đó là những điều có thể thông giải được về khải tượng đầu tiên của Êxêchiên.
Sau khi nhận được khải tượng, Êxêchiên cũng nhận được sứ mạng từ Đức Chúa Trời (chương 2). Điều nầy có thể gọi là “Từng trải về sự kêu gọi” của Êxêchiên. Bạn có nhớ kinh nghiệm về việc đến với Chúa của Êsai không? Tất cả những tiên tri và người của Đức Chúa Trời trong Cựu ước đều có từng trải được gọi đến và sai đi. Khi từng trải đã đem họ đến với Đức Chúa Trời, thì kế đến họ sẽ có từng trải “ra đi” cho công việc Ngài.
Các tiên tri và người của Đức Chúa Trời trong Cựu ước có từng trải về sự kêu gọi đôi khi kéo dài suốt nhiều năm, như trong trường hợp của Môise. Ông có tám mươi năm để từng trải về sự kêu gọi và bốn mươi năm sau đó từng trải sự sai đi. Đó là lý do vì sao bốn mươi năm từng trải sự ra đi nầy của ông thật đầy năng lực; bốn mươi năm từng trải sự ra đi đó xuất phát từ từng trải của tám mươi năm trước ông được kêu gọi đến với Chúa.
Trong chương một, khải tượng về bốn sinh vật sống và các bánh xe là từng trải về sự kêu gọi. Lúc Êxêchiên được sai phái, dân Giuđa đã đánh mất khải tượng của Đức Chúa Trời, họ không còn Giêrusalem, không còn đền thờ, không còn Lời của Đức Chúa Trời, không còn sự thờ phượng. Cho nên, người lãnh đạo thuộc linh trong thời kỳ đó như Êxêchiên rất cần khải tượng thiêng liêng của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời ban cho Êxêchiên khải tượng về chính Ngài bằng nhiều cách. Trước hết Êxêchiên luôn lặp đi lặp lại rằng: “Có lời của Đức Chúa Trời phán với tôi”. Đó là sự thật của tất cả các tiên tri. Êxêchiên cũng nói: “Tay của Đức Chúa Trời đặt trên tôi”. Êxêchiên được biết đến như là một tiên tri của Đức Thánh Linh bởi vì ông thường nhắc đến Đức Thánh Linh nhiều hơn các vị tiên tri khác. Nhưng điều làm cho Êxêchiên trở thành người duy nhất giữa vòng các tiên tri, đó là việc ông nhìn thấy các từng trời mở ra và ông đã thật sự nhìn thấy vinh quang của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời ban khải tượng nầy cho Êxêchiên để giữ dân sự của Đức Chúa Trời không bị diệt vong. Khải tượng nầy cũng được ban cho Êxêchiên để ông có thể phục vụ với tư cách một tiên tri trong một thời điểm và nơi chốn vô cùng khó khăn, đó là trại tù tại Babylôn.
Người Canh Giữ Thuộc Linh
Bài giảng tuyệt vời của Êxêchiên được ghi lại trong chương ba. Bài giảng nầy được gọi là: “người canh giữ nhà Ysơraên”. Ẩn dụ nầy dựa trên phong tục về các thành phố có tường bao bọc thường xuyên bị những kẻ thù tấn công. Salômôn cũng dùng ẩn dụ nầy khi ông viết rằng nếu Đức Chúa Trời không canh giữ thành thì người canh thức canh uổng công (Thi thiên 127:1). Phải luôn có một người canh gác đứng trong tháp canh vào ban đêm để canh gác và lắng nghe động tĩnh của kẻ thù. Ẩn dụ của Êxêchiên bắt nguồn từ trách nhiệm quan trọng của người canh giữ, để báo động cho dân chúng trong thành khi có kẻ thù xuất hiện. Bài giảng của Êxêchiên bắt đầu: “Khỏi bảy ngày, có Lời của Đức Giêhôva phán cùng ta như vầy: Hỡi con người, Ta đã lập ngươi lên đặng canh giữ nhà Ysơraên; khá nghe lời từ miệng Ta, và thay Ta răn bảo chúng nó… Trái lại, nếu ngươi răn bảo kẻ dữ, mà nó không từ bỏ sự dữ cùng đường xấu mình, thì nó sẽ chết trong tội lỗi nó; còn ngươi, thì giải cứu được linh hồn mình” (16-17, 19).
Khi Giêrêmi quở trách các tiên tri giả, ông nói cách mạnh mẽ: “Các ngươi không cảnh cáo dân dự về tội lỗi của họ và thiếu cố gắng để giải cứu chúng khỏi các tai vạ”. Êxêchiên nói sâu xa hơn: “Khi ta nói với kẻ dữ rằng: Mầy chắc sẽ chết! nếu ngươi không răn bảo nó, không nói với nó đặng khuyên nó từ bỏ đường xấu để cứu mạng mình, thì người dữ đó sẽ chết trong tội lỗi nó; nhưng ta sẽ đòi huyết nó nơi tay ngươi. Trái lại, nếu ngươi răn bảo kẻ dữ, mà nó không từ bỏ sự dữ cùng đường xấu mình, thì nó sẽ chết trong tội lỗi nó; còn ngươi, thì giải cứu được linh hồn mình” (18-19).
Sứ đồ Phaolô tin điều đó trong thời đại của ông. Ông viết: “Vì chúng tôi ở trước mặt Đức Chúa Trời là mùi thơm của Đấng Christ, ở giữa kẻ được cứu, và ở giữa kẻ bị hư mất: Cho kẻ nầy, mùi của sự chết làm cho chết; cho kẻ kia, mùi của sự sống làm cho sống. Ai xứng đáng cho những sự nầy?” (IICôrinhtô 2:15-16).
Áp dụng thuộc linh cho chúng ta là: Nếu bạn chia sẻ Tin lành cho một người nào đó và họ tiếp nhận, như thế bạn là mùi của sự sống cho người đó. Nhưng nếu bạn chia sẻ Tin lành với một người nào mà họ từ chối, như thế bạn là mùi của sự chết đối với họ, bởi vì bạn đã khiến cho họ không thể nói rằng: “Tôi không biết, tôi chưa bao giờ nghe”. Nếu bạn tin Kinh thánh là Lời được linh cảm của Đức Chúa Trời, thì chúng ta nên hiệp ý với Êxêchiên trong việc tin rằng chúng ta là những “người canh giữ” linh hồn của những người chúng ta tiếp xúc trong cuộc sống.
Đó là lý do vì sao Êxêchiên nhấn mạnh đến Đức Thánh Linh trong các bài giảng của ông. Giống như Phao lô, Êxêchiên tìm kiếm năng lực trong Đức Thánh Linh cho nhiệm mạng trọng đại của mình. Phao lô viết: “Năng lực của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời”. Phao lô tin rằng khi ông chia sẻ Tin lành cho mọi người, chẳng hạn như người Côrinhtô, thì điều đó không phải đến từ ông, bèn là từ Đức Thánh Linh (IICôrinhtô 3:5; ICôrinhtô 2:3-5). Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể ban cho chúng ta năng lực để làm một người canh giữ thuộc linh.
Chương 9: TRŨNG XƯƠNG KHÔ
Nhiều mục sư rao giảng Lời Đức Chúa Trời cả cuộc đời, vẫn mãi yêu thích bài giảng mà Êxêchiên đã giảng về một nghĩa trang, có thể nơi đây là một cánh đồng chết chóc, nhiều người ngã chết bởi những cuộc tàn sát. Khi đọc, chúng ta thấy Êxêchiên được đưa đến một cánh đồng đầy xương khô (chương 37). Nhiệm vụ của Êxêchiên được Đức Chúa Trời giao là hãy đi giảng cho những hài cốt khô ấy.
Nói theo lối ẩn dụ, đây là một thách thức mà một mục sư thường phải đối diện khi đứng trước hội chúng vào mỗi Chúa nhật. Một mục sư nói rằng khi Chúa trở lại, Hội thánh của ông sẽ được sống lại trước tiên bởi vì Phao lô đã viết: “Kẻ chết trong Chúa sẽ được phục sinh trước hết” (ITêsalônica 4:16). Đôi khi ông tự nhủ, những bộ xương khô nầy có thể sống lại được chăng? Tôi có thể rao giảng theo cách của tôi và sứ điệp của tôi sẽ được mạnh mẽ bởi Đức Thánh Linh, và sự sống thuộc linh có tuôn đổ vào đời sống của những người nầy được không? Êxêchiên vâng mạng Chúa truyền, đi giảng cho các xương khô: “Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống chăng?Ta thưa rằng: Lạy Chúa Giêhôva, chính Chúa biết điều đó!
Ngài bèn phán cùng ta rằng: Hãy nói tiên tri về hài cốt ấy, và bảo chúng nó rằng: Hỡi hài cốt khô, khá nghe lời Đức Giêhôva. Chúa Giêhôva phán cùng những hài cốt ấy rằng: Nầy,Ta sẽ phú hơi thở vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống” (Êxêchiên 37: 3-5).Dân Giuđa giống như các bộ xương khô. Đức Chúa Trời thách thức Êxêchiên: “Ngươi nghĩ rằng những xương khô nầy có thể sống chăng?” Trong Kinh thánh, Đức Chúa Trời luôn thách thức các tiên tri về khải tượng của họ. Chúng ta quan sát thấy Êxêchiên không nói: “Vâng, tôi tin rằng chúng sẽ sống”. Thay vì vậy, ông nói: “Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa biết”.Vị tiên tri không phạm tọâi với Chúa dầu ông không thật sự tin rằng các xương nầy sẽ sống. Thế rồi Đức Chúa Trời phán với ông: “Hãy giảng cho các xương nầy”.
Vậy Êxêchiên bắt đầu giảng cho các bộ xương khô nầy. Sau khi giảng một lúc, Êxêchiên nghe có tiếng động, tiếng lách cách, và các xương bắt đầu ráp lại với nhau. Sau khi đã ráp lại với nhau từng bộ, nhưng xương vẫn không có gân và thịt. Êxêchiên lại được lịnh “hãy rao giảng”. Khi ông rao giảng, gân và thịt mọc ra trên các bộ xương ấy.
Khi nhóm hiệp đội quân xương đã có thịt và cơ bắp, nhưng Êxêchiên vẫn chưa trả lời được câu hỏi của Đức Chúa Trời: “Các xương nầy có thể sống được chăng?” Những xác chết nầy vẫn chưa sống lại được; không có hơi thở trong các xác đó. Vậy có mạng lịnh từ Đức Chúa Trời: “Hãy giảng về hơi thở”. Trong Kinh thánh, từ chỉ về gió, hơi thở và Thánh linh đều giống nhau. Hơi thở chỉ về Đức Thánh Linh. Đây là nguyên tắc mà bạn tìm thấy được trong suốt Kinh thánh: tách rời khỏi Đức Thánh Linh, người rao giảng sẽ uổng công vô ích.
Bất cứ một tiên tri nào cũng biết rằng nếu không có Đức Thánh Linh ngự trên người ấy, nâng đỡ và dùng bàn tay mạnh sức hoặc xức dầu cho họ, thì mọi cố gắng của họ đều không
đạt được gì hết. Khi Êxêchiên giảng về Thánh Linh, hơi thở đã vào trong các xác nầy đểtrở nên một đội quân mạnh mẽ.
Ứng dụng chủ yếu cho dân Giuđa qua sứ mạng mà Êxêchiên rao giảng là: “Ta sẽ phục hồi các ngươi từ chỗ phu tù. Ta có thể và sẽ đưa các ngươi trở về từ Babylôn, trở về xứ sở của
các ngươi. Ta sẽ phục hồi sự hưng thịnh của Ysơraên”.
Áp dụng thứ hai của sứ điệp vĩ đại nầy cho chúng ta một hình ảnh liên quan đến chức vụ gây dựng Hội thánh ngày nay. Sự rao giảng Tin lành gây dựng Hội thánh. Các xương khô ám chỉ về những người hư mất. Ngày nay có hơn sáu tỷ người trên thế giới, thì có bao nhiêu người biết về Chúa Jêsus? Có bao nhiêu người sống với Chúa Jêsus? Có bao nhiêu người được Thánh Linh ngự trị, và được biến đổi bởi Ngài? Chỉ có một số ít. Đây là một thách thức mà ngày nay Hội thánh cần phải đối diện. Áp dụng thuộc linh về bài giảng của Êxêchiên cho các xương khô là sự thách thức nầy: Hội thánh của Chúa Jêsus Christ có thể được mạnh mẽ bởi Đức Thánh Linh để thực hiện sứ mạng đem Tin lành của Chúa Jêsus Christ đến với người hư mất trong thế giới nầy không?
Bạn có phải là một trong các bộ xương khô nầy không? Có phải bạn là người bị hư mất vì chưa bao giờ nghe về Tin lành cứu rỗi không? Phải chăng sứ điệp nầy có thể áp dụng cho bạn bởi vì bạn chỉ lưu tâm đến sự sống đời nầy mà quên đi “đời sống đích thực?” Bạn có hơi thở Thánh linh của Đức Chúa Trời trong đời sống và trong chức vụ của bạn không? Dẫu hoàn cảnh của bạn có ra sao, thì cũng không khó khăn như Êxêchiên đã đối diện khi thức giấc vào mỗi buổi sớm mai. Nếu Đức Chúa Trời có thể làm cho các xương khô sống lại cho Êxêchiên, thì Ngài cũng có thể làm điều đó cho bạn và tôi.
Nếu Đức Thánh Linh sống trong bạn, bạn sẽ làm gì để gây dựng Hội thánh? Bạn không cần phải là một nhà truyền đạo mới có thể chia sẻ Tin lành cho người khác. Bạn phải tin rằng Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ xức dầu cho Lời của Ngài trong khi bạn chia sẻ. Có thể nói rằng một người truyền giáo là một người ăn mày chỉ cho người ăn mày khác nơi có bánh.
Nếu bạn là một trong những người ăn mày nầy thì hãy nói cho người ăn mày khác về nơi có bánh, nói theo cách thuộc linh, thì bạn phải hiểu sự kết hợp đầy năng lực giữa sự cầu nguyện và chia sẻ lời Chúa.
Trong sách Công vụ đoạn hai, chúng ta thấy các sứ đồ sống với nhau trong sự hiệp một thuộc linh trọn vẹn. Họ chia sẻ tài sản và lương thực cho nhau họ thực hiện một chủ nghĩa xã hội thuần túy. Các sứ đồ là những người phục vụ hoặc đứng ra phân phối thực phẩm, song chính điều nầy dễ khiến họ xa khỏi chức vụ chăn bầy. Chúng ta thấy họ đã có một quyết định rất quan trọng. Họ chọn ra ban chấp sự đầu tiên và nói: “Các ông trông nom công việc nầy, còn chúng tôi sẽ dâng mình cho sự cầu nguyện và giảng dạy lời Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời đã chúc phước trên quyết định của họ, là sứ đồ cần phải biệt riêng ra cho sự cầu nguyện và giảng dạy lời Đức Chúa Trời.
Đây là một sự kết hợp tương tự được Êxêchiên sử dụng cho chức vụ của ông. Có người cho rằng khi chúng ta nhóm họp với nhau, nếu không có ai được thay đổi, thì chẳng có việc gì xảy ra. Khi chúng ta rao giảng lời Đức Chúa Trời, nếu chúng ta chỉ đưa ra những thông tin, kiến thức, thì sẽ chẳng có tác động gì cho người nghe. Tuy nhiên, nếu chúng ta noi gương Êxêchiên và các sứ đồ, chúng ta sẽ thấy rằng khi sự cầu nguyện đi trước sự giảng dạy, nhiều điều sẽ xảy ra. Đời sống của những người nghe lời Đức Chúa Trời sẽ được thay đổi mãi
mãi.
Khi bạn được ủy thác công bố Tin Lành của Đức Chúa Trời, khi bạn rao giảng cho “các hài cốt khô”, thì cũng phải giảng về Hơi thở, về Thánh Linh. Bạn phải trông đợi Đức Chúa Trời xức dầu Thánh Linh mạnh mẽ trên từng lời bạn nói ra khi rao giảng hay chia sẻ Tin lành cho người khác. Khi quyền năng của Ngài tuôn đổ dồi dào trên bạn và lời bạn nói ra, thì các xương nầy sẽ hồi sinh.
Chương 10: TIÊN TRI ĐANIÊN
NHỮNG TÍN HỮU ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NGƯỜI BABYLÔN
Đaniên là sách thứ tư, cũng được gọi là “đại tiên tri” và là người thứ ba trong số các tiên tri bị phu tù. Khi thành Giêrusalem bị sụp đổ, Đaniên khoảng mười bốn tuổi. Vào thời điểm đó không có nhiều người bị lưu đày đến Babylôn, chỉ có một số ít người được chọn lựa, trong đó có Đaniên và ba bạn trẻ của ông. Tất cả bọn họ cùng bị đưa đi làm phu tù.
Nêbucátnếtsa là vua Babylôn ra chỉ dụ: “Ta muốn các tầng lớp quý tộc, các vương hầu và các thanh niên khôn ngoan phải được giáo dục tại các trường học của ta”. Đức Chúa Trời dùng sắc lịnh của kẻ cai trị ngoại đạo để đặt một chức vụ có tính chiến lược vì mục đích tốt lành cho dân sự của Ngài tại Babylôn, đến nỗi vào thời điểm đó, hầu hết mọi người phu tù bị đưa đến Babylôn đều có một số ảnh hưởng nào đó trong vương triều của Nêbucátnếtsa.
Gương Mẫu Và Những Lời Khuyên Bảo
Mười hai chương sách Đaniên có thể được chia làm hai phần bằng nhau. Sáu chương đầu là sự tường thuật về lịch sử. Từ chương bảy đến chương mười hai là các khải tượng tiên tri.
Câu chìa khóa cho phần tường thuật lịch sử trong chương 1-6 là một câu được tìm thấy trong Tân ước: “Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng ta là kẻ ở gần cuối cùng các đời”(ICôrinhtô 10:11).
Trong Cựu ước, bạn thấy đời sống thuộc linh của hầu hết dân sự của Đức Chúa Trời có lúc lên, lúc xuống. Tuy nhiên, điều đó không đúng với Giôsép và Đaniên. Cả hai đều được trưởng thành hoàn toàn trong nền văn hóa thù địch của sự xung đột chính trị trong khắp đế quốc. Cả hai người đều là những người sống ngay thẳng nhất mà bạn gặp được từ trong Lời của Đức Chúa Trời. Trong khi Giôsép như cánh tay phải của Pharaôn vua Êdíptô, thì Đaniên trưởng thành trong nền văn hóa thù địch của Babylôn và nền chính trị của Pherơsơ.
Ông sống qua hai triều đại của Nêbucátnếtsa và Bênxátsa. Ông chứng kiến đế quốc Babylôn rơi vào tay đế quốc Pherơsơ. Ông sống lâu và giữ chức vụ tiên tri trong suốt thời kỳ bảy mươi năm lưu đày. Ông quá già yếu để hồi hương cùng với các phu tù khác, nhưng ông chứng kiến sự hồi hương của họ.
Vai trò của Đaniên là bày tỏ cho dân Giuđa làm thế nào để đương đầu với sự phu tù, một nhiệm vụ mà ông bắt đầu lúc chỉ mới mười bốn tuổi. Đaniên đương đầu với sự phu tù một cách dũng cảm và là một gương mẫu tuyệt vời cho dân Giu-đa – và cho chúng ta ngày nay.
Sự Kiên Quyết Của Đaniên
Sứ đồ Phaolô viết: “Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào”(Rôma 12:2). Câu nầy có thể được diễn giải như sau: “Đừng để cho thế gian dồn ép bạn vào khuôn đúc của nó, nhưng hãy để Đức Chúa Trời uốn nắn tâm trí bạn từ bên trong”.
Đây là một sự thách thức cho các tín hữu trong thời Tân ước, và cũng được áp dụng tương tự cho Đaniên khi ông đến Babylôn.
Không lâu sau, Đaniên nhận ra những áp lực trên đời sống của ông là phải sống sao cho phù hợp với phong tục của người Babylôn. Ông được chọn và bị buộc phải vào trường huấn luyện ở Babylôn, được những nhà thông thái của Nêbucátnếtsa dạy dỗ để cho đến một ngày, họ sẽ trở thành những người lãnh đạo giỏi của Babylôn. Vấn đề đầu tiên đưa đến cho Đaniên chính là nguồn thực phẩm dồi dào của người Babylôn. Các thực phẩm đó gồm thịt heo và các loại thực phẩm không sạch khác được dọn cho các chàng thanh niên Giuđa: “Vả,Đaniên quyết định trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống, nên cầu xin người làm đầu hoạn quan để đừng bắt mình phải tự làm ô uế”(Đaniên 1:8).
Tên của Đaniên có nghĩa là “Đức Chúa Trời là quan xét của tôi”. Đaniên bước đi trước mặt Đức Chúa Trời, cầu xin Đức Chúa Trời xem xét mọi hành động của ông. Ba người bạn của ông cũng được đặt tên có ý nghĩa thuộc linh. Misaên có nghĩa là “Ai giống như Đức Chúa 51 52 Trời?”, Hanania nghĩa là “Giêhôva ban ân huệ” và Axaria là “được Giêhôva vùa giúp”.
Điều đầu tiên người Babylôn làm là đổi tên những thanh niên Hêbơrơ nầy. Tên của Đaniên được đổi thành Bêntơxátsa, có nghĩa là ”thần Bel bảo hộ cuộc sống”. Bel là tên của một vị thần của người Babylôn. Người Babylôn cố tình muốn cho Đaniên tin rằng ông ở dưới sự bảo hộ của một vị thần ngoại giáo. Misaên được đổi thành Mêsắc, là tên thần Mađốc của người Babylôn. Tên của Hanania được đổi thành Sađơrắc tức là tên thần mặt trăng của người Babylôn. Tên của Axaria được đổi thành Abếtnêgô, có nghĩa là “tôi tớ thần khôn ngoan của người Babylôn” (Đaniên 1:7).
Nêbucátnếtsa nói với bốn thanh niên: “Chúng ta sẽ làm cho các ngươi thành người Babylôn”. Nhưng Đaniên và ba bạn trẻ đã đối đầu với Nêbucátnếtsa và cả đế quốc Babylôn khi họ có ý muốn nói: “Các ông làm cho chúng tôi thành người Babylôn, nhưng chúng tôi sẽ làm cho các ông thành người tin cậy Đức Chúa Trời”.
Chương bốn sách Đaniên cho chúng ta thấy Nêbucátnếtsa, một bậc kỳ tài đã thâu tóm thiên hạ thành đế quốc Babylôn rộng lớn, nay tuyên xưng đức tin nơi Đức Chúa Trời. Đây là một chương tuyệt vời trong Kinh thánh. Điều gì làm cho Nêbucátnếtsa tuyên xưng đức tin vào Đức Chúa Trời? Mọi sự bắt đầu khi Đaniên không chịu bị ô uế bởi thực phẩm không sạch của người Babylôn mà chọn thực phẩm thanh sạch.
Thông Giải Điềm Chiêm Bao
Không lâu sau đó, Đaniên và ba bạn của ông gặp một sự đối đầu khác. Nêbucátnếtsa có một giấc chiêm bao, và điều nầy khiến cho ông rất bối rối. Ông triệu tập tất cả các nhà thông thái và nói với họ: “Hãy nói cho ta biết ta đã mơ thấy gì và giải nghĩa điềm chiêm bao đó”.
Bạn hãy hình dung, đây là một nan đề rất lớn cho các nhà thông thái Babylôn. Không những chỉ khó giải nghĩa mà còn làm thế nào để biết được điềm chiêm bao đó là gì? Đó là điều mà Nêbucátnếtsa yêu cầu. Khi vua đưa ra thách thức nầy trước các nhà thông thái, thì họ trở nên hoảng loạn. Khi một người chuyên quyền như Nêbucátnếtsa yêu cầu bạn làm một điều gì đó, thì hoặc là bạn phải làm hoặc là bạn gặp một rắc rối lớn.
Họ tâu với nhà vua: “Chẳng có người nào trên đất nầy có thể tỏ ra việc của vua; vì chẳng có vua nào, chúa nào, người cai trị nào đem việc như thế hỏi đồng bóng, thuật sĩ, hay người
Canh đê nào. Vì sự vua đòi là hiếm có, và không ai có thể tỏ cho vua được, chỉ có các vì thần không ở với loài xác thịt” (Đaniên 2:10 -11). Câu trả lời đó làm cho Nêbucátnếtsa tức tối đến nỗi ông ra lệnh tử hình các nhà thông thái. Điều đó có nghĩa là bao gồm luôn cả Đaniên và các bạn của ông bởi vì họ là học trò của các nhà thông thái nầy.
Khi hạn định tử hình đã đến, với sự khôn ngoan và khéo léo, Đaniên hỏi: “Tại sao sắc lịnh của nhà vua lại nghiêm khắc như vậy?” Người thi hành án tử hình trả lời: “Nhà vua và các nhà thông thái có sự bất đồng với nhau. Các nhà thông thái nói rằng các thần linh của họ không sống trong con người, và vì thế cho nên họ không thể thuật cho vua biết về những gì mà ông đã mơ thấy”.
Phản ứng của Đaniên có thể được tóm lược như thế nầy: “A! đó là chỗ họ sai lầm, bởi vì Đức Chúa Trời thì sống trong con người”. Đaniên đến gặp vua và xin nhà vua cho ông một hạn định hầu cho ông có thể thuật lại và giải nghĩa chiêm bao. Rồi Đaniên nói với ba người bạn về việc ông phải làm, rồi họ bắt đầu cầu nguyện. Đêm hôm đó, trong một khải tượng, Đức Chúa Trời đã bày tỏ một cách siêu nhiên về chiêm bao của Nêbucátnếtsa và ý nghĩa về điềm chiêm bao đó cho Đaniên.
Nêbucátnếtsa đã nghe Đaniên, và thực chất cuộc đối thoại đó là: “Hỡi chàng trai trẻ kia, ta biết ngươi có thể thuật cho ta về điềm chiêm bao và giải nghĩa cho ta”. Đaniên trả lời:“Chỉ có Đức Chúa Trời có thể làm điều mà vua yêu cầu các nhà thông thái làm, thưa vua,các nhà thông thái của vua đã sai lầm. Đức Chúa Trời ở với loài người và Ngài tỏ cho tôi biết về giấc chiêm bao vua đã thấy và ý nghĩa của chiêm bao đó nữa”. Khi Đaniên thuật lại điềm chiêm bao và giải nghĩa cho vua, thì nhà vua sấp mặt xuống, và từ đó trở đi, vua 53 54 luôn nói về Đaniên như là “người có thần linh của Đức Chúa Trời ở cùng” (Chương 2).
Sự giải nghĩa của Đaniên về điềm chiêm bao cho vua Nêbucátnếtsa chỉ là một trong năm phép lạ được ghi lại trong sách Đaniên, chứng tỏ thực tế đó là một việc siêu nhiên. Bốn phép lạ kia là: Ba bạn của Đaniên bị ném vào lò lửa hực (chương ba), sự tuyên xưng đức tin của Nêbucátnếtsa (chương bốn), bàn tay viết trên tường (chương năm), sự giải cứu Đaniên trong hang sư tử (chương sáu).
Qua những phép lạ trên, Đaniên và ba người bạn của mình đã chứng tỏ rằng đức tin có thể đương đầu với những thời kỳ đen tối nhất. Họ có đức tin, tin một cách tuyệt đối vào quyền năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời. Họ tin tuyệt đối vào quyền năng của sự cầu nguyện, và sự quan phòng của Đức Chúa Trời dành cho họ tại Babylôn.
Bạn có bao giờ bị khủng hoảng trong đời sống, tưởng chừng như vô vọng, không thể chịu đựng nổi và phải đối đầu với các nan đề vô phương giải quyết không? Sự khủng hoảng mà Đaniên và ba bạn của ông phải đối đầu tại Babylôn là điều không thể tránh khỏi, không thể chịu đựng nổi và vô phương giải quyết. Họ đã tỏ cho chúng ta biết cách để sống với cơn khủng hoảng ấy, bằng cách họ đã vượt qua được cơn khủng hoảng của họ tại Babylôn.
Khi bạn suy gẫm về các phép lạ trong sách Đaniên, hãy tự hỏi chính mình bằng những câu hỏi sau: Bạn có tin vào quyền năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời không? Bạn có tin vào năng lực của sự cầu nguyện không? Bạn có tin vào sự quan phòng và mục đích của Đức Chúa Trời khi đặt bạn vào một vị trí để làm sáng danh Ngài không? Bạn có tin những điều đó cách tuyệt đối không?
Chương 11: VINH HIỂN TẠI BABYLÔN
Đây không phải là sự nghiên cứu theo cách của một học giả, nhưng là một sự khảo sát về mặt thuộc linh xuyên suốt Kinh thánh, có một vài bối cảnh trong lịch sử mà bạn phải đánh giá đúng để hiểu rõ sứ điệp sách Đaniên. Kinh thánh quen dùng thời trị vì của các vua hoặc của các Sêsa để đặt niên lịch cho các sự kiện trong Kinh thánh, như trong câu mở đầu câu chuyện giáng sinh trong sách Tin lành Luca chương hai.Trong sự kiện ở chương bốn sách Đaniên, Nêbucátnếtsa là vua đế quốc Babylôn. Trong chương năm sách Đaniên chúng ta thấy con trai của Nêbucátnếtsa là Bênxátsa làm vua.
Trong câu kết thúc chương năm và câu đầu của chương sáu sách Đaniên, chúng ta thấy người Mêđi (Pherơsơ) xâm chiếm Babylôn và Đariút làm vua Mêđi. Theo cách nầy, chúng ta được biết sáu chương đầu của sách Đaniên nói về bảy mươi năm lịch sử Babylôn.
Lịch sử chứa đựng các sự kiện được gói gọn trong Kinh thánh trải qua nhiều thời kỳ của các đế quốc như Aicập, Asyri, Babylôn, Pherơsơ, Hylạp và Lamã. Hai đế quốc chồng lên nhau trong sách Đaniên, đế quốc Babylôn, kết thúc sau bảy mươi năm, và đế quốc Pherơsơ với 127 tỉnh thành thuộc Mêđi Batư, cũng nằm trong bối cảnh lịch sử của sách Êxơtê. Một trong những lời tiên tri của Đaniên, có liên quan đến bốn đế quốc nầy: Babylôn, Pherơsơ, Hylạp và Lamã.
Điều nầy giúp chúng ta hiểu sự sắp xếp lịch sử trong sách Đaniên, và đánh giá đúng sự huy hoàng và vinh hiển của vua Nêbucátnếtsa. Nếu bạn có cơ hội nghiên cứu về thành Babylôn, xem sự miêu tả về thành phố do một học giả nghiên cứu về lịch sử thời Cựu ước: “Đó là ngôi nhà chung của hơn hai triệu người, và vườn treo Babylôn là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ. Sử ký cho chúng ta biết rằng bức tường thành bao quanh thành phố với chu vi hơn 100km và khoảng 25km ở mỗi cạnh. Tường thành cao 110m và dày 30m. Móng sâu xuống đất khoảng 13m để cho kẻ thù không thể đào hầm xuyên qua được. Có khoảng 400m được chừa trống giữa thành phố và tường thành cặp theo chung quanh tường thành. Tường thành được bảo vệ từ phía bên ngoài với một hào rộng và sâu đầy nước, có 250 tháp canh trên mặt tường thành”.
“Thành phố được chia ra làm hai phần gần bằng nhau bởi sông Ơphơrát. Cả hai dải đất đều được bảo vệ trong tường xây bằng gạch, có 25 cổng nối với các con đường thủy bộ. Một cây cầu được xây trên các trụ bằng đá, dài khoảng 1km và rộng 11m, cùng với nhiều cầu quay khác được xếp lại khi đêm xuống. Có một đường hầm dưới sông, rộng 7m và cao 4m.Trong cuộc chiến thời xưa, đây là một thành phố bất khả xâm phạm”.
Trong thời Đaniên, Babylôn không phải là thành phố hàng đầu, nhưng nó được thống lãnh bởi một đế quốc hùng mạnh nên tồn tại cho đến lúc đó, một đế quốc chỉ kéo dài bảy mươi năm. Đaniên đã ở đó từ lúc đế quốc khởi đầu cho đến khi suy vong. Ông là bạn và cũng là quân sư của vua. Nêbucátnếtsa là nhà cai trị thiên tài và đầy uy quyền, đã dựng nên đế quốc Babylôn. Ông lãnh đạo đế quốc nầy bốn mươi năm trong số bảy mươi năm tồn tại của đế quốc.
Uy quyền của Nêbucátnếtsa là tuyệt đối. Chúng ta đọc trong chương năm: “Vì cớ Ngài đã ban cho người quyền to, thì hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng đều run rẩy trước mặt người, và sợ hãi người. Người muốn giết ai thì giết, và muốn để ai sống thì để. Người nâng ai cao lên hay hạ ai thấp xuống thì tùy ý người”(19). Thật khó cho nhiều người hiện nay có thể đánh giá đúng về uy quyền tuyệt đối của vị vua độc tài như Nêbucátnếtsa. Tuy nhiên, khi bạn đánh giá con người nầy theo lịch sử, bạn sẽ nhận ra rằng đúng là một phép lạ vĩ đại mà Kinh thánh ký thuật lại khi ông tuyên xưng đức tin nơi Đức Chúa Trời của Đaniên.
Sự nhận diện kỳ diệu của Đaniên về giấc chiêm bao của Nêbucátnếtsa, và giải nghĩa chiêm bao đó (chương 2), đã ảnh hưởng sâu sắc đến con người cai trị thế giới nầy. Trong chiêm bao đó, Nêbucátnếtsa nhìn thấy hình dạng của một người. Đầu bằng vàng,ngực bằng bạc, bụng và đùi bằng đồng, ống chân bằng sắt, bàn chân bằng sắt pha đất sét.
Đaniên giải nghĩa đó là bốn vương quốc lớn. Khi Đaniên giải nghĩa chiêm bao của Nêbucátnếtsa, ông nói: “Vua là cái đầu bằng vàng bởi vì ngày nay vua cai trị toàn thế giới, nhưng sự cai trị của vua không kéo dài, vương quốc của vua sẽ sụp đổ và một vương quốc khác chiếm lấy. Đó là phần bằng bạc của tượng nầy. Vương quốc nầy là Pherơsơ không lớn mạnh như vương quốc của vua. Vương quốc bằng đồng là Hylạp, sẽ tiếp nối. Cuối cùng vương quốc được mô tả chân bằng sắt là Đế quốc Lamã”. Mười ngón chân ám chỉ về mười nước thuộc về đế quốc Lamã.
Hình như, Nêbucátnếtsa lòng đầy kiêu ngạo khi nghe mình là “cái đầu bằng vàng”. Cho nên ông đã làm một pho tượng bằng vàng và buộc mọi người phải cúi xuống thờ lạy pho tượng đó. Từ lúc đó, ông đi xa trong việc thay đổi tôn giáo! Nhưng như chúng ta thấy, sự làm chứng của Đaniên và ba bạn là một ảnh hưởng sâu sắc và thay đổi cuộc đời Nêbucátnếtsa khiến ông tuyên xưng đức tin nơi Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống.
Sự Ăn Năn Của Nêbucátnếtsa
Trong giấc chiêm bao của Nêbucátnếtsa, có một hòn đá được đục ra từ núi, nhưng không bởi tay người ta. Hòn đá siêu nhiên nầy rơi trên bàn chân pho tượng Nêbucátnếtsa, bàn chân bằng sắt và đất sét. Điều đó khiến cho cả pho tượng sụp đổ, tan rã và bị thổi đi khắp nơi như trấu trên sân đập lúa. Sự giải nghĩa của Đaniên bày tỏ toàn cảnh các vương quốc cho Nêbucátnếtsa, các vương quốc được ví sánh như vàng, bạc, đồng, sắt một ngày kia sẽ bị một vương quốc siêu nhiên chinh phục, vương quốc của Đức Chúa Trời. Chúng ta không biết chính xác Đức Chúa Trời sử dụng đời sống và lời nói của Đaniên như thế nào để chinh phục Nêbucátnếtsa, nhưng thật kỳ diệu, trong chương bốn chúng ta đọc: “Ta lấy làm tốt lành mà rao cho các ngươi những dấu lạ và sự lạ mà Đức Chúa Trời Rất Cao đã làm ra đối với ta. Ôi! Những dấu lạ của Ngài lớn lao là dường nào! Những sự lạ của Ngài mạnh sức là dường
nào! Nước Ngài là nước còn mãi mãi, và quyền thế Ngài từ đời nọ đến đời kia”( 2-3).
Trong chương sách kỳ diệu nầy, Nêbucátnếtsa lại có một chiêm bao khác. Ông thấy một cái cây cao lớn lạ thường, mọi người trên khắp thế gian đều thấy nó. Các nhánh của nó đầy những trái, có đủ cho mọi người trên thế gian ăn. Rồi có một thiên sứ từ trời xuống kêu lớn tiếng: “Hãy đốn cây và chặt nhành nó; hãy làm rụng lá và vãi trái nó ra; hãy cho thú vật tránh khỏi dưới nó, và chim chóc khỏi nhành nó! Dầu vậy, hãy để lại gốc của rễ nó trong đất, mà cột nó bằng một dây xích sắt và đồng, nơi giữa cỏ xanh trong đồng ruộng; cho nó bị
sương trên trời thấm ướt; và cho người cùng các loài thú chia phần cỏ dưới đất!”(4: 14-15).
Thiên sứ nói tiếp: “Cho lòng người bị đổi đi, và người được ban cho lòng thú; và trải qua bảy kỳ trên người”(16) Thiên sứ nói rằng việc nầy xảy ra với mục đích cho thế gian biết rằng: “Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người; Ngài muốn ban cho ai tùy ý, và lập kẻ rất hèn hạ trong loài người lên đó”(17).
Nhà vua kể điềm chiêm bao đó cho Đaniên. Khi vị tiên tri nầy nghe xong, ông ngồi bối rối và im lặng trong một giờ, kinh ngạc về ý nghĩa của giấc chiêm bao. Cuối cùng ông nói:“Thưa chúa, nguyền cho điềm chiêm bao đến cho những kẻ ghét chúa và sự giải nghĩa cho kẻ thù nghịch chúa!” (19).
Sau khi nhà vua nghiêm trang chờ đợi Đaniên giải nghĩa điềm chiêm bao, Đaniên nói: “Người ta sẽ đuổi vua ra khỏi giữa loài người, và chỗ ở vua sẽ ở giữa những thú vật trong đồng. Vua sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, và sẽ được thấm nhuần sương móc trên trời; bảy kỳ sẽ trải qua trên vua, cho đến khi vua nhận biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý”(25).
Tuy nhiên, Đaniên tiếp tục nói rằng Đức Chúa Trời sẽ phục hồi vương quốc cho Nêbucátnếtsa khi ông nhận biết sự tể trị của Đức Chúa Trời. Sau đó Đaniên nài khuyên: “Vậy nên,hỡi vua, xin hãy nghe lời tôi khuyên vua: hãy lấy sự công bình mà chuộc tội lỗi, hãy thương xót những kẻ nghèo khó để chuộc những điều gian ác mình. Như vậy sự bình an vua còn có thể lâu dài hơn nữa”(27).
Sau đó dường như Đaniên viết một vài câu diễn tả sự ứng nghiệm lời giải nghĩa điềm chiêm bao nầy. Sau khi sự thử thách kinh khiếp nầy kết thúc, Nêbucátnếtsa đã viết vắn tắt lời tuyên xưng đức tin và ngợi khen dâng lên Đức Chúa Trời chân thật của Đaniên. Ông ngước mắt lên trời và ngợi khen, dâng vinh hiển và làm sáng danh Đức Chúa Trời chí cao.
Chúng ta thấy Đức Chúa Trời có một mục đích cho Nêbucátnếtsa qua từng trải đáng sợ nầy: Đức Chúa Trời chí cao cai trị trên vương quốc của loài người. Nêbucátnếtsa phải sống như thú vật trong bảy năm cho đến khi ông học xong điều cần phải học. Thật là một sự nhận thức lớn lao mà ông nhận được từ Đức Chúa Trời trong bảy năm để làm cho người cai trị thế
giới nầy phải khuất phục.
Phải chăng có một lúc nào đó trong cuộc đời chúng ta phải trải qua sự buồn rầu, bởi vì Đức Chúa Trời muốn bày tỏ cho chúng ta biết rằng Ngài có quyền tể trị trên thế giới nầy và trên cuộc đời chúng ta? Khi điều đó xảy ra, nó sẽ kéo dài cho đến khi bạn thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Chúa là Đức Chúa Trời của con! Ngài có quyền. Ngài tể trị và có uy quyền tuyệt đối trên cuộc đời con!”
Chương 12: NHỮNG KHẢI TƯỢNG VÀ SỰ MẶC KHẢI CỦA ĐANIÊN
Sáu chương đầu của sách Đaniên là phần lịch sử và dễ hiểu. Giống như sách Khải huyền, các sách tiên tri Êxêchiên và Xachari, sáu chương sau thì lại vô cùng khó hiểu. Sự giải nghĩa của Đaniên về điềm chiêm bao đầu tiên của Nêbucátnếtsa trong chương hai, cho chúng ta một kiểu mẫu để hướng dẫn chúng ta khi thử giải nghĩa những sự mặc khải và khải tượng khó hiểu trong sách Đaniên. Chỉ qua sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh mới có thể cho chúng ta sự hiểu biết về những khải tượng được mặc khải tiên tri về những công việc vĩ đại của Đức Chúa Trời cho thế giới chúng ta.
Đây là một số bước cần thực hiện để chúng ta có thể hiểu được khải tượng và mặc khải trong sách Đaniên. Trước hết, hãy xem xét các biểu tượng trong khải tượng. Ví dụ, khải tượng đầu tiên trong số các khải tượng khó giải nghĩa của Đaniên, được ký thuật trong chương bảy, các biểu tượng trong khải tượng nầy tương tự như điềm chiêm bao đầu tiên của Nêbucátnếtsa.
Bốn hướng gió bắt đầu thổi và xô xát trên biển lớn và có bốn con thú lớn xuất hiện. Con thú thứ tư dữ tợn và rất mạnh, nó hủy diệt các con thú khác, nhưng trước khi có sự hủy diệt đó, có mười sừng mọc ra từ con thú. Rồi có một sừng nhỏ mọc ra giữa mười sừng đó, cái sừng nhỏ đó có mắt và một cái miệng lớn nói những lời vĩ đại và mạnh mẽ.
Thứ hai, hãy quan sát những hành động và sự tác động giữa các biểu tượng. Hãy xem xét sự giải nghĩa được ban cho, đó là một sứ điệp được xức dầu. Sau khi bạn xem xong rồi,trong sự cầu nguyện, hãy cầu xin Đức Thánh Linh bày tỏ cho bạn biết ý nghĩa đó là gì. Hãy tự vấn: “Điều nầy nói gì, điều nầy có nghĩa gì đối với họ và có ý nghĩa gì đối với tôi?”
Sự giải nghĩa về điềm chiêm bao của Đaniên trong chương bảy bảo chúng ta hãy xem lại bốn vương quốc lớn kia. “Bốn con thú lớn đó là bốn vua sẽ dấy lên trên đất. Nhưng các thánh của Đấng Rất Cao sẽ nhận lấy nước, và được nước làm của mình đời đời, cho đến đời đời vô cùng”(17-18). Vương quốc thứ tư sẽ xuất hiện trên đất và tàn phá khắp đất. Mười sừng là mười vua ra từ vương quốc nầy. “Mười cái sừng là mười vua sẽ dấy lên từ nước đó; và có một vua dấy lên sau, khác với các vua trước, và người đánh đổ ba vua. Vua đó sẽ nói những lời phạm đến Đấng Rất Cao, làm hao mòn các thánh của Đấng Rất Cao, và định ý đổi những thời kỳ và luật pháp; các thánh sẽ bị phó trong tay người cho đến một kỳ, những kỳ, và nửa kỳ”(24-25).
Trong Kinh thánh, bất cứ khi nào đề cập đến cái sừng, chúng đều được ám chỉ về thế lực, sức mạnh. Giống như cái sừng của con thú dùng để húc các con thú khác. Mười sừng và cái
sừng nhỏ nầy cũng ám chỉ về thế lực hoặc vương quốc. Có nhiều người diễn dịch vương quốc thứ tư nầy là đế quốc Lamã hồi sinh. Trong điềm chiêm bao của Nêbucátnếtsa, chân bằng sắt vương quốc thứ tư – ám chỉ đế quốc Lamã. Một số người tin rằng khải tượng nầy ám chỉ về vương quốc Lamã hồi sinh nhưng xảy ra trong tương lai. Người khác thì nói không phải,vương quốc thứ tư mạnh mẽ hơn tất cả các vương quốc đã qua. Đó là bức tranh về vương quốc của Đức Chúa Trời và là mô tả tiên tri về việc Đức Chúa Trời trút cơn thạnh nộ.
Theo ý kiến của tôi, chúng ta không nên giải nghĩa theo cách suy đoán đối với các lời tiên tri của Đaniên. Dầu cho chúng ta đúng hoặc sai về các chi tiết, chúng ta phải nhớ một chân lý từ lời tiên tri trong chương bảy nầy: Nếu bạn là người của Đức Chúa Trời, thì bạn là một phần tử trong vương quốc chiến thắng. Tất cả những khải tượng nầy đều kết thúc lạc quan.
Vương quốc của Đức Chúa Trời chinh phục tất cả các vương quốc khác và là một vương quốc còn lại đời đời.
Khải Tượng Về Bảy Mươi Tuần Lễ
Khải tượng đáng quan tâm nhất của Đaniên hoặc sự mặc khải tiên tri được gọi là “khải tượng về bảy mươi tuần lễ”. Đaniên ký thuật cho chúng ta là đang khi ông đọc sách tiên tri Giêrêmi, ông nhận thấy đây là lúc dân sự của Đức Chúa Trời hồi hương từ Babylôn. Êsai và Giêrêmi đều tiên đoán sau khi dân Giuđa bị phu tù tại Babylôn được bảy mươi năm, họ sẽ được hồi hương. Cuối chương năm và đầu chương sáu, ông đang ở trong thời kỳ cai trị của Đariút vua Mêđi, ông sống vào thời điểm cuối cùng hạn định bảy mươi năm phu tù.
Trong khi Đaniên dâng lời cầu nguyện trong chương chín, ông hoàn toàn bị tràn ngập trong cảm nhận rằng hạn định cuối cùng của bảy mươi năm đang đến gần. Khi Đaniên đang cầu nguyện cho điều đó, ông xưng tội của chính mình và của dân sự. Đaniên là một người có phẩm hạnh trong sạch nhất trong Kinh thánh, ông liệt mình vào hàng những tội nhân trong dân sự qua cách nói như thế nầy: “Tội lỗi chúng tôi” và “chúng tôi là tội nhân”, ba mươi hai lần như vậy trong bài cầu nguyện của ông.
Đaniên cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ. Ông thưa: “Hỡi Đức Chúa Trời tôi, xin ghé tai và nghe. Xin mở mắt nhìn xem những nơi hoang vu của chúng tôi, và thành đã được xưng bởi danh Ngài! Không phải cậy những sự công bình mình mà chúng tôi nài xin Ngài, nhưng cậy những sự thương xót cả thể của Ngài”(Đaniên 9:19) Trong bài cầu nguyện của mình, rõ ràng
ông rất phấn khích bởi vì Đức Chúa Trời sẽ tha thứ và phục hồi dân Ngài.
Khi Đaniên đang cầu nguyện, thiên sứ Gápriên hiện ra với ông và phán: “Lời phán dặn đã ra từ khi ngươi bắt đầu nài xin; và ta đến để tỏ lời đó cho ngươi, vì ngươi đã được yêu quí lắm. Vậy hãy suy nghĩ sự đó và hãy hiểu biết sự hiện thấy”(9:23). Đây là sự đáp lời của Đức Chúa Trời cho lời cầu xin của Đaniên, là một trong những lời tiên tri chính xác nhất được tìm
thấy trong Kinh thánh. Khải tượng nầy là “Có bảy mươi tuần lễ định trên dân ngươi và thành thánh ngươi, đặng ngăn sự phạm phép, trừ tội lỗi, làm sạch sự gian ác, và đem sự công bình
đời đời vào, đặng đặt ấn tín nơi sự hiện thấy và lời tiên tri, và xức dầu cho Đấng rất thánh” (9:24).
Xen lẫn giữa tin mừng về sự hồi hương sắp xảy ra là một sứ điệp về sự hiện đến của Đấng Mêsi – Đức Chúa Jêsus Christ. Giải nghĩa lời tiên tri kỳ diệu nầy có liên hệ đến vài phép tính đơn giản. Đức Chúa Trời phán với Đaniên rằng khi sự phu tù đến hạn định bảy mươi năm, thời gian giữa sự phu tù và sự hiện đến của Đấng Mêsi sẽ là bảy lần bảy mươi năm hoặc 490 năm. Các năm nầy có thể chia thành các tuần lễ trong năm (chu kỳ bảy năm), và luân phiên, bảy mươi tuần lễ sẽ được ngắt ra như sau: bảy tuần lễ, sáu mươi hai tuần lễ, và một tuần. Ở giữa một tuần đó, Đấng chịu xức dầu sẽ bị “cất đi”, hoặc phải bị giết.
Niên đại của lời tiên tri nầy là vào thời kỳ Siru ban chiếu chỉ cho dân sự hồi hương tái thiết đền thờ Giêrusalem. Có ba cuộc hồi hương như vậy, nhưng chủ yếu xảy ra trong năm 475 TC. nếu bạn lấy sáu mươi hai tuần lễ cộng với bảy, và nhân số đó với bảy, bạn có 483 năm. Ngược dòng lịch sử kể từ năm 475 TC đến năm 26 SC, các nhà học giả nói rằng đó là năm Đấng Christ bắt đầu chức vụ công khai. Được tính là một tuần trong năm (hoặc bảy năm), theo cách đó, giữa tuần lễ, Đấng Thánh bị cất đi. các học giả tin rằng chính xác ba năm rưỡi kể từ năm 26 SC là thời điểm Chúa Jêsus bị đóng đinh.
Trong khi các học giả tranh cãi về các chi tiết, có một điều rõ ràng về lời tiên tri nầy, đó là sự tiên đoán chính xác một cách lạ lùng về thời điểm hiện đến và sự đóng đinh của Đấng Mêsi cũng như sự khởi đầu Vương quốc của Ngài, không có thời điểm kết thúc. Đây là vương quốc được dự đoán trong điềm chiêm bao thứ hai, khải tượng của Nêbucátnếtsa, mà Đaniên đã giải nghĩa (2:34-35, 44-45). Vương quốc được diễn tả là một hòn đá lớn đập vào bàn chân bức tượng là hình ảnh của bốn vương quốc và làm cho chúng đổ xuống tan tành như tro trấu.
Phần của bức tượng mà hòn đá đập vào ám chỉ về Đế quốc Lamã. Sự tiên báo chính xác và mạnh mẽ về việc Chúa Jêsus bắt đầu vương quốc của Ngài trong thời kỳ Đế quốc Lamã,Vương quốc của Đức Chúa Trời được Chúa Jêsus lập ra đã tồn tại đến bây giờ hơn hai ngàn năm, và không kết thúc.
Áp Dụng Cá Nhân Về Lời Tiên Tri Nầy
Giải nghĩa và áp dụng lời tiên tri kỳ diệu nầy, đó là những người dự phần vào trong Vương quốc đời đời sẽ có cuộc sống vĩnh cửu, vì họ là một phần tử trong Vương quốc đời đời. Nói theo lối ẩn dụ, nếu bạn là một tín hữu, là một người thuộc về dân của Đức Chúa Trời, thì bạn là một chiến sĩ của đoàn quân chiến thắng trong cuộc chiến giữa thiện và ác. Cuộc chiến giữa thiện và ác đã xảy ra hằng ngàn năm trước và còn tiếp diễn trong nhiều lãnh vực trong thế giới hôm nay. Vị trí luôn luôn thay đổi; thiện và ác có nhiều phương diện khác nhau, nhưng cuộc chiến đó vẫn tiếp diễn kể từ khi Cain giết em mình là Abên.
Công Dân Thiên Quốc
Sứ đồ Phaolô viết rằng chúng ta là công dân Thiên quốc và Kinh thánh cho biết những tín hữu là khách bộ hành trong thế gian nầy, đang tìm kiếm một thành do Đấng Xây Dựng và Sáng Tạo là Đức Chúa Trời. Dân sự của Đức Chúa Trời được ví như một dòng sông chảy qua thế gian nầy vào trong thành của Đức Chúa Trời là nơi có sự vui mừng lớn khi dòng sông chảy qua đó (Hêbơrơ 11:13-16; Thi thiên 46:4,5).
Bạn có phải là thần dân của Vương quốc vĩnh cửu của Ngài và được chia sẻ sự đắc thắng mà chính Ngài và Cha Ngài chắc chắn đắc thắng không? Chúa Jêsus là Vua trên muôn vua,Chúa trên muôn Chúa, là Đấng lãnh đạo cuối cùng chinh phục các thế lực của ma quỷ trên thế gian nầy. Nếu chúng ta là môn đồ đích thực, là chiến sĩ trong đoàn quân thuộc linh của Ngài. Chúng ta có thể sẽ bị tổn thất trong suốt cuộc chiến, nhưng chúng ta sẽ chiến thắng. Chúng ta sẽ sống với sự thật nầy: Đây là một địa vị mà chúng ta được dự phần trong sự chiến thắng của Ngài, mà địa vị đó quyết định tính chất đời đời của chúng ta.
Biên Soạn: Dick Woodwar
Nguồn tài liệu: HỘI HỢP TÁC TRUYỀN GIÁO QUỐC TẾ TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÁNH KINH