Chương 1: SÁCH HÊBƠRƠ
Giờ đây chúng ta đã hoàn tất việc nghiên cứu các thư tín của Phaolô và chúng ta tiếp tục tới các thư tín tổng quát. Sở dĩ các thư nầy được gọi như thế vì chúng được gởi cho nhiều người chứ không phải chỉ dành cho những nhóm tín hữu đặc biệt. Chúng ta bắt đầu với sách Hêbơrơ. Chúng ta không biết rõ ai là tác giả của thư nầy. Người ta nghĩ đến Phaolô, nhưng lời đầu tiên trong thư không phải “Phaolô” như vẫn thường gặp trong các thư tín của ông. Có nhiều lý do chánh đáng cho thấy tại sao các học giả không tin Phaolô là tác giả của sách Hêbơrơ.
Như chúng ta đã biết qua việc nghiên cứu Kinh thánh, điều quan trọng đối với một sách trong Kinh thánh đó là: “Sách đó nói gì?” “Điều đó nghĩa là gì?” và “Điều đó có nghĩa gì đối với bạn và tôi?” Điều quan trọng đối với sách Hêbơrơ là lẽ thật được dạy trong sách ấy và việc áp dụng những lẽ thật đó cho đời sống cá nhân bạn và tôi.
Người viết sách nầy phải là một học giả có tài hùng biện vì người ấy am hiểu những gì Cựu ước và Tân ước nói về Đức Chúa Jêsus Christ. Sách có nhiều đóng góp quan trọng hơn bất cứ sách nào trong Kinh thánh, đó là sách Hêbơrơ, liên kết Cựu ước và Tân ước lại với nhau. Có bao giờ bạn tự hỏi tại sao chúng ta không còn dâng thú vật làm sinh tế chuộc tội nữa? Sách Hêbơrơ sẽ giải đáp câu hỏi đó và nhiều câu hỏi tương tự như thế.
Chủ Đề Của Sách Hêbơrơ
Khi đọc sách Hêbơrơ, bạn nên ý thức rằng sách đưa ra một chủ đề với lối lý luận sâu sắc từ đầu đến cuối. Khi bạn đọc sách nầy, hãy cố gắng làm theo chuỗi lý luận đã được thần cảm của tác giả. Hãy thử đọc sách nầy liền một mạch nếu bạn có thể sắp xếp đủ thời gian. Khi đọc và tìm kiếm chủ đề của tác giả, hãy quan sát ba từ có thể hướng dẫn bạn. Từ thứ nhất là “tốt hơn”, từ thứ hai là “tin”, và từ thứ ba là “cẩn thận”.
Tác giả viết cho người Do Thái và ông muốn họ thấy rõ rằng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn tất cả mọi Đấng mà họ tôn kính. Thực chất ý ông muốn nói rằng: “Anh em yêu mến các đấng tiên tri, nhưng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn các tiên tri đó. Chúa Jêsus là tiên tri. Đức Chúa Trời từng phán dạy qua các tiên tri, nhưng giờ đây Ngài phán qua chính Con Ngài.Con Ngài tốt hơn tất cả các tiên tri đó”.
Trong hai chương đầu của sách nầy, tác giả chỉ cho chúng ta thấy Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn các thiên sứ. Người Do Thái bảo thủ và chính thống, như người Pharisi, tin rằng có thiên sứ.
Người Do Thái cũng tôn kính Môise, vì vậy, tác giả viết rằng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn Môise. Ông đưa ra cho chúng ta bức tranh ngôn ngữ nầy: Một căn nhà có giá trị, nhưng người xây dựng căn nhà đó có giá trị vượt trội hơn căn nhà. Môise xây căn nhà, tức quốc gia Do Thái, nhưng Đức Chúa Jêsus Christ là Con, Đấng làm chủ căn nhà đó.
Kế đến, tác giả biện luận rằng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn Giôsuê, người dẫn dắt dân Ysơraên vào Đất Hứa và cho họ được an nghỉ. Tuy nhiên, Đức Chúa Jêsus Christ ban cho họ
sự an nghỉ vượt trội hơn sự an nghỉ họ nhận được khi bước vào Đất Hứa.
Rồi ông luận rằng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn tất cả các chức tế lễ. Những người Do Thái hãnh diện về chức tế lễ của họ. Bắt đầu từ chương năm, tác giả biện minh rằng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn tất cả các chức tế lễ đó.
Sau chức tế lễ, ông liên hệ đến các giao ước. Đức Chúa Trời lập giao ước với Nôê, Ápraham, Môise và Đavít. Ngài thiết lập nhiều giao ước, nhưng tác giả biện minh rằng Chúa Jêsus tốt hơn tất cả các giao ước đó.
Sau cùng, tác giả thư Hêbơrơ nói đến Đền Tạm trong đồng vắng. Nên nhớ rằng đền thờ Salômôn được xây dựng giống như kiểu mẫu của Đền Tạm mà dân Ysơraên thờ phượng khi họ lang thang trong đồng vắng. Như chúng ta đã biết, tác giả biện luận rằng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn Đền Tạm. Ông viết cho các độc giả Do Thái: “Ngài đã vượt qua đền tạm lớn hơn và trọn vẹn hơn, không phải tay người dựng ra, nghĩa là không thuộc về đời nầy” (Hêbơrơ 9:11,23-26).
Mỗi năm một lần, thầy tế lễ đi vào bên trong Đền Tạm, đến nơi được gọi là “Nơi Chí Thánh”. Thầy tế lễ sẽ mang theo huyết sinh tế vào Nơi Chí Thánh, dâng lên để chuộc tội cho cả dân sự. Tất cả điều nầy chỉ là một phần về những việc xảy ra ở trên trời khi Đức Chúa Jêsus Christ chịu chết trên thập tự giá. Điều đó có nghĩa Ngài là thầy tế lễ tối cao và đã cầu thay cho tội lỗi của cả thế gian nhờ huyết báu của chính mình. Sinh tế của Ngài đã được ứng nghiệm và xác nhận sự hợp pháp của các sinh tế bằng loài vật dâng lên cho Đức Chúa Trời thông qua thầy tế lễ và hệ thống tế lễ vốn tồn tại từ thời Môise đến thời Chúa Jêsus. Tác giả thư Hêbơrơ liên kết hai giao ước lại với nhau. Ông viết rằng sau khi Chúa Jêsus chịu chết
trên thập tự giá, người ta không cần phải dâng sinh tế chuộc tội nữa.
Chương 2:BẠN NÊN TIN ĐIỀU ĐÓ
Hai chữ chìa khóa tiếp theo là “tin” và “cẩn thận”. Tác giả của thư đã đưa ra nhiều lời cảnh báo về sự bội đạo một cách tinh vi tức là chọn một vị trí vào một thời điểm đặc biệt trong hành trình đức tin của bạn, rồi sau đó lại chọn một chỗ khác cách xa vị trí ban đầu. Quan điểm tác giả về một người bội đạo là người ấy không chỉ có một nền thần học sai lạc, mà còn là người có nền tảng thần học đúng, nhưng chẳng làm gì cả.
Thư Hêbơrơ đầy dẫy những lời khích lệ và cảnh báo. Một từ khác thường đi kèm với những lời cảnh báo nầy là “kẻo”, đôi khi được diễn tả là “hầu cho” hay “phòng khi…” (Hêbơrơ 2:1; 3:13; 4:1,11). Phần nhiều trong số những lời cảnh báo đó liên hệ đến công tác của Đấng Christ trong chúng ta, hay công tác của Ngài qua chúng ta. Những lời khích lệ trong thư Hêbơrơ thường kèm theo cụm từ “chúng ta hãy” (4:1,11; 10:22,23,24).
Khi bạn đọc thư Hêbơrơ, hãy cố gắng kiên trì tập trung vào chủ đề của sách. Đến lúc hiểu được chủ đề đó, bạn sẽ hiểu được nhiệm vụ của sách Hêbơrơ, là nhiệm vụ khích lệ tín hữu Do Thái đang chịu khổ và chán nản đến mức họ sắp lìa bỏ đức tin. Mục tiêu khác của tác giả là khích lệ người Do Thái chưa tin Chúa Jêsus hãy vượt qua những trở lực và đặt đức tin nơi
Ngài. Trong khi đề cập đến những người chưa tin Chúa, rõ ràng tác giả cũng muốn loại bỏ sự bảo đảm giả dối do những người chưa có đức tin thật nơi Chúa đưa ra.
Tác giả tiếp tục đưa ra những lời cảnh báo khi ông tập trung vào một biến cố lịch sử của người Do Thái được ghi lại trong Dân số ký chương 14. Suốt 40 năm lang thang trong đồng vắng, Đức Chúa Trời đã mười lần khuyên dân Ysơraên hãy tin Ngài qua các phép lạ mà Ngài đã thực hiện. Ngài muốn thử thách để ban đức tin, hầu họ có thể chinh phục những thành trì kiên cố trong xứ Canaan.
Họ chọc giận Chúa tới mức Ngài phải nói với họ: “Ta đã làm hết mức cho các ngươi rồi. Các ngươi sẽ chẳng bao giờ bước vào Đất Hứa đâu. Chỉ hai người trong các ngươi được vào Đất Hứa là Giôsuê và Calép vì họ tin Ta”. Tác giả cảnh báo người Do Thái không nên bắt chước đời sống thiếu đức tin của tổ phụ họ, nhưng hãy bước vào Đất Hứa thuộc linh, nơi ông gọi là “sự yên nghỉ” (Hêbơrơ 3:7-4:1).
Trong chương 3 và 4, về cơ bản, tác giả viết: “Nếu anh em nghe tiếng Chúa nhưng không chịu vâng theo, anh em sẽ giống hệt những người ấy, đi lòng vòng trong đồng vắng suốt bốn
mươi năm. Một ngày kia anh em sẽ chẳng còn nghe tiếng Chúa phán nữa. Đức Chúa Trời sẽ lìa bỏ anh em và anh em sẽ thất bại trong việc tiến vào Đất Hứa với sự sống sung mãn trong
Đấng Christ vì tiếng Chúa phán càng lúc càng nhỏ nhẹ hơn”.
Trong chương 5, tác giả muốn bàn đến một đề tài hết sức khó hiểu. Ông sắp bày tỏ rằng Đức Chúa Jêsus Christ tốt hơn tất cả các chức tế lễ trước đó. Người Do Thái hy vọng là tác giả sẽ trình bày Chúa Jêsus là thầy tế lễ theo ban thứ của Arôn hay Lêvi. Để bắt đầu phần giới thiệu, tác giả nêu ra Chúa Jêsus là thầy tế lễ đặc biệt theo ban Mênchixêđéc.
Tại đó, tác giả đặt một dấu ngoặc đơn rồi viết: “Tôi muốn nói cho anh em biết nhiều về Mênchixêđéc, nhưng không thể được”. Giữa hai dấu ngoặc đơn nầy, ông than khóc cho một thực tế là họ đã không tiến triển trong việc hiểu lời Chúa đúng như họ phải hiểu điều mà ông muốn nói với họ về Mênchixêđéc. Ông mô tả loại thức ăn thuộc linh họ cần đến để phát triển đời sống tâm linh (Hêbơrơ 5:11-14).
Khi bạn đến nhà thờ, Mục sư của bạn, người chế biến một số thức ăn thuộc linh từ Kinh thánh một cách thiêng liêng và dạy dỗ bạn. Thức ăn đó như sữa, là loại đã được chế biến sẵn dành cho trẻ em vốn có hệ thống tiêu hóa chưa phát triển. Nếu lời Chúa chỉ đến với bạn qua vị mục sư là người chuẩn bị sẵn phần Kinh thánh đó, thì sẽ khiến bạn trở nên con trẻ.
Tuy nhiên, nếu bạn học Kinh thánh một mình, nếu chỉ một mình bạn, Đức Thánh Linh và Kinh thánh thôi, thì Đức Thánh Linh sẽ dạy bạn hiểu được Kinh thánh, lúc đó bạn đang ăn thức ăn thuộc linh dùng nuôi dưỡng tâm linh bạn.
Theo Sứ đồ Giăng, kết quả của đời sống bạn khi được sanh lại là Đấng Christ ngự trị trong lòng bạn. Ông muốn bạn biết rõ là bạn không cần ai dạy mình, vì sự xức dầu ở trên bạn sẽ dạy bạn mọi điều bạn cần biết (I Giăng 2:2-27).
Hêbơrơ chương 6 có một vài câu làm rối trí những người tin kính trong nhiều thế kỷ (Hêbơrơ 6:4-12). Có người tin phân đoạn nầy có ý dạy chúng ta rằng, những tín hữu thật có thể đánh mất sự cứu rỗi. Tôi không đồng ý như vậy. Tác giả viết: “Vâng, chúng tôi tin những điều tốt hơn có liên quan đến bạn, là những điều cặp theo sự cứu rỗi”. Khi ông viết về việc được soi sáng, được nếm và được dự phần, thì không phải đang mô tả người tin là người đã kinh nghiệm sự sanh lại – sự “sanh ra mới”, mà là mô tả người đang được Đức Thánh Linh dẫn dắt đến chỗ nếm hay dự phần, nhưng họ chưa thực sự bước qua lằn mức của đức tin để được sanh lại.
Một lần nữa, tôi xin nhắc bạn rằng một trong những mục tiêu của sách nầy là để khích lệ người Do Thái, tức những người chưa tin Chúa Jêsus, công khai đặt đức tin nơi Đấng Christ. Chủ đề sách nầy có mục đích khuyên họ hãy đứng vững và chịu khổ với Chúa Jêsus, bước ra và thiết lập cam kết vững chắc với Đấng Mêsia và tin chắc vào sự cứu rỗi Chúa dành cho mình. Tôi tin rằng đó là mục tiêu của sứ điệp qua lời khích lệ rất khó hiểu nầy trong chương 6 của sách Hêbơrơ.
Các câu 4-6 của chương 6 phải được giải thích trong văn mạch của chủ đề chung và mục tiêu truyền giáo của sách Hêbơrơ. Theo tác giả, không phải ông muốn nhấn mạnh những điều đi kèm theo sự cứu rỗi. Lời khích lệ của ông qua suốt sách nầy là nhằm vào những tín hữu tuyên xưng đức tin nhưng chưa được sanh lại vì họ chưa đạt đến đức tin cứu rỗi trong đời sống theo Chúa. Tác giả cảnh báo những người nầy rằng họ giống như những người đi đến nơi họp chợ rồi nhìn, nhìn và chỉ nhìn mà chẳng bao giờ mua sắm gì cả. Lời cảnh báo của tác giả trong phân đoạn nầy là một quả trứng đến lúc phải nở ra, bằng không nó sẽ trở thành một quả trứng thối.
Được xây dựng trên các ẩn dụ của Chúa Jêsus, những gì tác giả thư Hêbơrơ muốn gởi đến độc giả của mình là để họ được sanh lại. Quan điểm của tác giả trong phân đoạn Kinh thánh khó hiểu nầy là, người từng được sanh lại sẽ không đánh mất sự cứu rỗi của họ, nhưng trước khi sự sanh lại diễn ra, họ có thể giống như một người “lạc mất” về phương diện thuộc linh. Những người nầy đang gặp nguy cơ bị “sẩy thai” khi họ đang trong giai đoạn “thai nghén” thuộc linh.
Chương 3:HƯỚNG VỀ ĐỨC TIN
Trọng tâm thực sự của sứ điệp sách Hêbơrơ được tìm thấy trong chương 11. Hêbơrơ chương 11 được biết đến như là “chương đức tin” trong Kinh thánh. Trên thực tế, chương nầy bắt đầu từ phần gần cuối của chương 10, lúc tác giả bắt đầu truyền cho độc giả một loạt lý do tại sao họ không nên lìa bỏ đức tin (Hêbơrơ 10:35). Ông bảo họ không nên lìa bỏ đức tin vì đức tin đã cứu họ. Ông khuyên họ nên nhớ lại thời điểm bắt đầu tin và được cứu. Đây là bước đột phá trong lập luận của tác giả đừng đánh mất đức tin vì đức tin đã cứu anh em!
Hình như họ đã thực sự tin Chúa và cùng với việc đó là tình yêu nồng cháy ban đầu họ dành cho Ngài. Ông nhắc họ nhớ lại kinh nghiệm nầy, họ từng chịu mất mát mọi sự thể nào vì biết rằng mình sẽ nhận được phần thưởng tốt hơn ở trên trời. Vả lại, tác giả muốn nói, anh em hãy nhớ lại kinh nghiệm đức tin và sự cứu rỗi ban đầu, rồi suy nghĩ xem điều đó có ý nghĩa gì đối với anh em. Hãy ý thức rằng anh em được cứu bởi đức tin, vì thế, dù anh em làm bất cứ công việc gì cũng đừng bao giờ đánh mất đức tin đã cứu mình.
Kế đến, trong chương 10 câu 38, ông trích dẫn lời tiên tri Ha-ba-cúc: “Người công bình sẽ sống bởi đức tin” (Habacúc 2:4). Về cơ bản, trong bối cảnh nầy tác giả viết: “Anh em không thể nào lìa bỏ đức tin vì anh em sắp cần đến nó. Không những được cứu bởi đức tin, anh em còn phải sống bởi đức tin nữa”.
Đức tin rất khó định nghĩa, nhưng bạn có thể mô tả nó. Ông viết: “Đức tin là sự biết chắc của những điều mình đương trông mong, là bằng chứng của những điều mình chẳng xem
thấy”. Hy vọng là tin chắc rằng có điều tốt hiện hữu trong thế giới nầy và một ngày kia bạn sẽ bắt
gặp điều tốt đó. Tín hữu thời Cựu ước xem điều thấy được là tốt. Đavít thách thức những người thất bại và chạy trốn bằng câu hỏi: “Ai là người khao khát sống và yêu mến những ngày lâu dài để thấy phước lành?” Sau đó ông trả lời câu hỏi của mình bằng cách đưa ra lời mời gọi: “Hãy nếm và xem Chúa tốt lành dường bao; phước cho người nào tin cậy nơi Ngài!” (Thi thiên 34:12,8). Vì đức tin là phải tin, nên phải có một bằng chứng nào đó hỗ trợ cho sự tin chắc là điều gì đó tốt lành sắp xảy ra.
Nhưng ở đây, bối cảnh của chủ đề là: “Đừng đánh mất đức tin của bạn vì đức tin là thực chất của niềm hy vọng hay nền tảng, khiến niềm hy vọng của bạn trở thành đáng tin. Đức tin là bằng chứng của những điều không nhìn thấy, đó là mục tiêu không thấy được của đức tin bạn.
Khi đức tin của bạn là đức tin của Kinh thánh, đối tượng đức tin phải là điều không thấy được. Bạn loại bỏ nhu cầu vì cớ đức tin khi bạn có đối tượng của đức tin mình và có thể nhìn
thấy nó. Khi đức tin là đức tin của Kinh thánh thì đối tượng đức tin của bạn không nhìn thấy được. Đối tượng đó giống như mùi thơm của một món ăn ngon mà bạn chưa thể nhìn thấy,nhưng mùi thơm là bằng chứng của món ăn sắp được dọn lên. Vì vậy, định nghĩa hay của đức tin có thể là: “Đức tin là hành động của lòng tin nơi một điều nào, hay một Đấng nào, bạn không thể nhìn thấy mà chỉ căn cứ vào bằng chứng có được”.
Trong trường hợp nầy, đối tượng không nhìn thấy là Đức Chúa Trời, và tác giả muốn nói rằng bằng chứng lớn lao nhất trên thế gian nầy là có một Đức Chúa Trời trở thành người, là người có đức tin. Theo Tân ước, đức tin là quà tặng của Đức Chúa Trời (Ê-phê-sô 2:8; Philip 1:29). Vì thế, người có đức tin là bằng chứng lớn nhất trên thế gian nầy cho thấy sự hiện hữu của Đấng ban đức tin đó. Ông viết: “Đức tin là thực thể của những điều ta hy vọng, là bằng cớ của những điều ta không trông thấy”. Giữa nhiều điều khác, tác giả của tập tài liệu sâu nhiệm nầy muốn nói với chúng ta rằng chính đức tin là bằng cớ minh chứng cho sự hiện hữu của Đức Chúa Trời không thấy được.
Vào lúc nầy, tác giả đưa ra cho độc giả của ông một lý do khác cho thấy tại sao họ không nên lìa bỏ đức tin, ông viết: “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài” (Hêbơrơ 11:6).
Logic trong lập luận của ông là nêu lên tất cả mọi lý do cho biết tại sao họ không nên lìa bỏ đức tin nơi Chúa. Ông chỉ ra rằng họ không nên lìa bỏ đức tin là vì nếu không có đức tin thì họ không thể đến gần Đức Chúa Trời hay sống đẹp lòng Ngài. Kế đến ông bảo họ (và cả chúng ta) rằng những người sống đẹp lòng Chúa là do họ có đức tin.
Hênóc là người có đức tin nên sống đẹp lòng Chúa và được Ngài tiếp lên. Dường như Hênóc là người bước đi gần gũi với Chúa đến nỗi một ngày kia Ngài nói với ông: “Hênóc à,giờ đây chúng ta đã đến gần nhà Ta hơn là nhà ngươi, sao ngươi không bước vào nhà với Ta?” Đức Chúa Trời chỉ đem Hênóc về nhà trên trời vì ông bước đi với Chúa và sống đẹp lòng Ngài (Hêbơrơ 11:5).
Kế đến ông nêu lên ví dụ về những người tin kính Chúa có đức tin. Đọc hết chương 11 của thư Hêbơrơ rồi gạch dưới tất cả các động từ, tức những từ chỉ về hành động. Tất cả những người ấy là anh hùng đức tin bởi vì họ làm một điều nào đó. Đó là lý do tại sao tôi nói đức tin là hành động của lòng tin nơi một Đấng nào, hay một điều nào, bạn không thể nhìn thấy nhưng chỉ căn cứ vào bằng chứng có được.
Khi Đức Chúa Trời phán bảo Nôê đóng một chiếc tàu, lúc ấy chưa có mưa. Tác giả mô tả thách thức đối với đức tin của Nôê là: “Xem những điều chưa thấy như đã thấy”. Nôê chưa bao giờ thấy mưa. Câu chuyện Nôê chiếm đến bốn chương của sách Sáng Thế Ký, được mô tả trong một câu rất sâu sắc của chương đức tin nầy: “Bởi đức tin, Nôê được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội thế gian, và trở nên kẻ kế tự của sự công bình đến từ đức tin vậy” (c.7).
Nôê là thầy giảng đạo công bình suốt thời gian 120 năm ông đóng tàu. Cách duy nhất để bạn được cứu là ở trong tàu. Phierơ cho chúng ta biết rằng con tàu là hình ảnh của sự cứu rỗi. Trong chương nầy tác giả cho chúng ta biết rằng Nôê là hình ảnh của đức tin, về những gì đức tin có ý nghĩa và về những gì đức tin có thể làm.
Nhiều người tin ẩn dụ mà tác giả đưa ra trong 12:1-2 nói chúng ta là những vận động viên đang chạy trên đường đua và “những người chứng kiến như đám mây rất lớn” trong vận động trường, đang dõi theo chúng ta từng bước. Họ đã chạy xong cuộc đua của mình. Bạn có tin rằng đó có thể là những người đã qua đời, tức những người đã đi trước chúng ta, biết những gì đang xảy ra trong cuộc sống chúng ta ngày nay không? Tác giả thư Hêbơrơ có thể thêm vào đề tài của mình trong chương đức tin, rằng chúng ta không nên lìa bỏ đức tin, vì những người chứng kiến như đám mây rất lớn, đang nhìn xem và cổ vũ chúng ta khi chúng ta đang chạy trên đường đua của đời sống mình.
Anh em là con cái Chúa, và vì là con cái nên khi anh em không vâng lời thì Ngài sẽ sửa phạt anh em. Theo tác giả thư Hêbơrơ, nếu anh em chịu đau đớn vì bị Ngài sửa phạt thì sự đau đớn đó là lời xác nhận anh em là con của Chúa. Ông viết: “Chớ coi thường sự sửa phạt của Chúa. Khi anh em bị Ngài sửa phạt thì điều đó chứng minh anh em là con của Ngài. Sự sửa phạt sẽ khiến anh em trở nên người dự phần trong sự thánh khiết Ngài”. Tác giả cũng cho chúng ta biết rằng sự sửa phạt sinh ra bông trái bình an của sự công bình.
Tác giả kết thúc những lời sâu nhiệm nầy bằng cách khích lệ chúng ta ân cần tiếp khách. Ông viết trong chương cuối rằng: “Chớ quên sự tiếp khách; có khi kẻ làm điều đó, đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết”. Kế đến ông bảo chúng ta là hãy nhớ đến những người đang trong vòng lao lý như thể chúng ta cùng chịu cảnh tù tội với họ vậy. Có nhiều tín hữu trong Hội thánh đầu tiên đang bị tù. Tác giả cũng kết thúc kiệt tác nầy bằng lời khích lệ hãy vâng lời những người lãnh đạo thuộc linh vì họ chịu trách nhiệm về sự tăng trưởng tâm linh của chúng ta.
Chương 4:THƯ GIACƠ
Giacơ là bức thư rất thực tế, một số người xem thư nầy như là “Sách Châm Ngôn của Tân ước”. Thư nầy giống như một bài bình luận liên tục về những sự dạy dỗ của Đức Chúa Jêsus Christ, đặc biệt là Bài Giảng Trên Núi. Bạn có thể tìm thấy ít nhất mười ví dụ nơi những sự dạy dỗ của Chúa Jêsus được Giacơ mở rộng và áp dụng.
Nhiều học giả tin rằng tác giả Giacơ, người viết bức thư nầy là anh em về phần xác của Đức Chúa Jêsus Christ. Giacơ chưa tin Chúa Jêsus khi Ngài thi hành chức vụ công khai trong thời gian ba năm. Sau khi phục sinh, Chúa Jêsus đã đặc biệt hiện ra với Phierơ và Giacơ, Giacơ nầy là anh em về phần xác của Chúa (I Côrinhtô 15:7).
Thật thích thú khi biết rằng sau khi tin Chúa, hầu như Giacơ được lập tức chỉ định làm một trong những người lãnh đạo hàng đầu của Hội thánh thời Tân ước. Giacơ là chủ tọa giáo hội nghị Giêrusalem được mô tả trong Công vụ các sứ đồ chương 15.
Chính Giacơ nầy là người được sứ đồ Phaolô nhắc đến trong thư ông gởi cho người Galati; ông viết rằng khi ông tới Giêrusalem, có ba người được xem như là cột trụ của Hội thánh Giêrusalem là Giăng, Phierơ và Giacơ.
Theo truyền thuyết, Giacơ bị ném xuống từ trên nóc đền thờ rồi sau đó bị thầy tế lễ cả dùng dùi cui đánh cho đến chết. Truyền thuyết trên cho biết tiếp là sau việc đó, hội đồng tôn giáo Do Thái nổi dậy chống lại thầy tế lễ cả và cách chức ông. Khi tướng Titus của đế quốc La Mã hủy phá Giêrusalem năm 70 SC, nhiều người Do Thái mộ đạo – tức những người chưa tin Chúa Jêsus – tin rằng đó là sự phán xét của Đức Chúa Trời trên thành phố nầy vì đã giết hại một người tin kính là Giacơ.
Vì Giacơ là bức thư tổng quát nên được đặt ở phần cuối của Tân ước với những thư tín tổng quát khác. Hầu hết các tác giả tin rằng thư nầy được viết sớm nhất trong tất cả các sách
của Tân ước.
Sứ Điệp Của Thư Giacơ
Khi bạn nghiên cứu nội dung của thư tín nầy, bạn sẽ thấy tại sao có người tin rằng Giacơ cố gắng đem lại sự quân bình đối với những lời dạy của sứ đồ Phaolô. Họ bảo rằng Phaolô nhấn mạnh sự xưng công bình là bởi đức tin chứ không phải bởi việc làm. Trong chương 2 của thư Giacơ, tác giả nói một cách dứt khoát với chúng ta rằng chúng ta được xưng công bình không chỉ bởi đức tin mà còn bởi việc làm nữa. Nhưng, dù được đặt ở phần cuối của Tân ước thì các thư của Phaolô vẫn được viết sau thư Giacơ. Nhiều học giả tin rằng Giacơ viết thư nầy trước khi có bất kỳ người ngoại nào tin Chúa. Đó là lý do tại sao thư Giacơ dường như quá Do Thái và gần như nghiêng về luật pháp.
Hai Loại Cám Dỗ
Trong chương đầu của bức thư nầy, chúng ta biết rằng Giacơ là người không đề cập đến mặt nổi của vấn đề (vấn đề xuất hiện như thế nào) nhưng ông đề cập đến nguồn gốc của vấn đề (thực chất của vấn đề là gì). Về phương diện nầy Giacơ rất giống Chúa Jêsus. Chúa Jêsus nhấn mạnh đến con người bề trong và kết quả bên trong. Ngài cũng nhấn mạnh thái độ của chúng ta trước hòan cảnh và động cơ thúc thúc đẩy hành động của chúng ta. Điểm chính yếu của thư Giacơ cũng giống như giá trị của những điều Chúa Jêsus nhấn mạnh qua lời dạy dỗ của Ngài.
Trong chương đầu tiên của ông, Giacơ cho chúng ta biết về nguồn gốc và tiến trình thử thách. Trong một vài bản dịch, sự thử thách được dịch là cám dỗ. Ông sẽ đưa ra sự khác biệt giữa hai sự cám dỗ nầy sau, nhưng trong trường hợp nầy ông muốn nhắc đến loại thử thách gây đau đớn. Qua lời giới thiệu, Giacơ viết: Khi anh em trải qua thử thách thì “hãy xem là đó điều vui mừng trọn vẹn”. Giacơ bảo chúng ta hãy vui mừng trong cơn thử thách vì: “Sự thử thách đức tin được định sẵn để đưa chúng ta đến sự trông cậy của đức tin”. Nếu để cho sự thử thách đức tin dẫn chúng ta đến sự trông cậy của đức tin thì sau đó chúng ta sẽ kinh nghiệm sự đắc thắng của đức tin mà Giacơ gọi là “mão triều thiên của sự sống”.
Khi bạn gặp sóng gió trong cuộc đời, thử thách thường gặp đó sẽ đưa bạn đến nơi mà bạn chẳng biết mình phải làm gì. Bạn nhận thấy rằng mình cần sự khôn ngoan vượt trội hơn sự khôn ngoan của chính bạn. Giacơ viết rằng chúng ta nên để cho sự thử thách đức tin đưa chúng ta đến sự trông cậy của đức tin. Khi thiếu khôn ngoan, chúng ta nên cầu xin Đức Chúa Trời, Đấng sẵn sàng chia xẻ sự khôn ngoan của Ngài cho chúng ta.
Khoa Giải Phẫu Tội Lỗi
Kế đến Giacơ mô tả vắn tắt một loại thử thách mà chúng ta không nên vui mừng. Đức Chúa Trời không phải là căn nguyên của sự cám dỗ đưa đến phạm tội. Trong nửa phần sau của chương 1, Giacơ đưa ra cho chúng ta điều có thể gọi là “Khoa giải phẫu tội tỗi”. Khi giảng dạy một cách dứt khoát rằng sự cám dỗ phạm tội không đến từ Đức Chúa Trời, tác giả nói cho chúng ta biết rằng loại cám dỗ nầy thậm chí cũng không đến từ ma quỉ. Sự cám dỗ phạm tội đến từ bên trong bạn và tôi.
Sự cám dỗ hoạt động theo cách sau: Trước hết là tác động của những gì bạn nhìn thấy. Kế đến là sự ham muốn, hay là một ước muốn mạnh mẽ về những gì bạn vừa thấy. Điều bạn nhìn thấy cứ như là một mảnh kim loại và ham muốn của bạn giống như một thanh nam châm có sức hút rất mạnh. Nếu bạn chẳng làm một điều gì để cắt ngang từ trường của thanh nam
châm giữa điều bạn ham muốn và đối tượng của sự ham muốn thì một ngày kia bạn sẽ phải đương đầu với sự cám dỗ.
Theo Giacơ, cám dỗ không phải là tội. Chỉ vì bị cám dỗ thôi thì bạn vẫn chưa phạm tội. Chúng ta biết rằng Chúa Jêsus đã bị cám dỗ trong mọi việc như chúng ta nhưng Ngài không phạm tội (Hêbơrơ 4:15). Bị cám dỗ chưa phải là tội, nhưng sự cám dỗ thường dẫn đến những hành vi phạm tội công khai. Khi chúng ta thất bại trước cám dỗ và đã thực sự phạm tội thì hậu quả của tội lỗi luôn luôn là sự chết (Rôma 6:23).
Thời điểm cho cuộc giải phẫu tội lỗi nầy là: nếu bạn không muốn phạm tội, bạn phải đắc thắng cuộc chiến với tội lỗi ngay tại mức ham muốn trước khi bạn đương đầu với cám dỗ.Chúa Jêsus dạy chúng ta mỗi ngày nên cầu nguyện rằng, “Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ” (Mathi-ơ 6:13).
Tóm Tắt
Trong chương đầu tiên của mình, Giacơ có ý muốn nói với chúng ta cách Đức Chúa Trời dùng mọi sự thử thách trong đời sống để tâm linh chúng ta tăng trưởng. Giacơ cũng muốn nói rằng có một vấn đề khác, đó là sự cám dỗ phạm tội. Đức Chúa Trời không phải là căn nguyên của chuỗi cám dỗ đưa đến tội lỗi và sự chết. Tội lỗi chẳng có gì tốt cả. Chương 1 thư Giacơ có thể được tóm tắt như sau: thử thách đưa đến sự sống, cám dỗ đưa đến sự chết và lời dạy về sự khác biệt giữa hai điều trên.
Chương 5:HAI THỨ TÔN GIÁO
Giacơ cho chúng ta biết rằng Lời Đức Chúa Trời là tác nhân thiêng liêng, có thể tạo nên đời sống thuộc linh trong lòng bạn và ban cho bạn kinh nghiệm tái sanh. Kế đến sự tái sanh có thể ban cho bạn năng lực để sống đắc thắng tội lỗi.
Sau lời dạy dỗ của tác giả Giacơ trong chương 1, nơi ông chia sẻ những thông tin xấu về sự cám dỗ và tội lỗi, ông chia sẻ tin vui về cách Đức Chúa Trời thi hành phép lạ cứu rỗi trong lòng chúng ta. Giacơ viết rằng chúng ta tìm được giải pháp cho nan đề cám dỗ và tội lỗi trong Lời Đức Chúa Trời. Lời khích lệ mạnh mẽ của ông về tầm quan trọng của việc vâng giữ Lời Đức Chúa Trời còn tiếp tục qua suốt chương 2. Qua đó chúng ta biết rằng Lời Đức Chúa Trời đã trồng trong chúng ta là nhân tố thiêng liêng và nếu chúng ta đáp ứng một cách thích đáng thì lời ấy có thể làm cho sự tái sanh của chúng ta diễn ra dễ dàng hơn, Giacơ đưa ra một lời khích lệ quan trọng dưới hình thức ẩn dụ rất hay, đó là “Lời Đức Chúa Trời giống như một chiếc gương soi”.
Mục đích của chiếc gương soi là chỉ ra những chỗ không hoàn chỉnh để chúng ta có thể sửa lại cho đúng. Khi bạn nhìn vào Kinh thánh là chiếc gương hoàn hảo của Chúa thì gương ấy sẽ chỉ ra luật của tội lỗi và sự chết trong đời sống bạn, vì thế bạn sẽ làm một điều nào đó liên quan đến những gì bạn thấy trong gương.
Giacơ rất giống với anh mình là Chúa Jêsus khi ông nói rằng nếu chúng ta đáp ứng với Lời Chúa như cách đáp ứng với chiếc gương soi thì chúng ta sẽ khám phá ra rằng Lời Chúa là lời hằng sống. Đó là lý do tại sao chúng ta nhận được lời khích lệ mạnh mẽ nầy từ nơi Giacơ để có thể đáp ứng một cách thích đáng với Lời Đức Chúa Trời. Giacơ chế nhạo người đọc Lời Chúa nhưng không vâng giữ bằng cách nói rằng họ giống như một người sáng nào cũng soi mặt mình trong gương. Sau khi thấy vết nhơ trên mặt mình thì người ấy cứ tiếp tục công việc mà chẳng lưu tâm gì đến vết nhơ đó cả.
Khi người tin Chúa không làm theo Lời Ngài thì họ chỉ tạo ra một tôn giáo giả chứ không phải tôn giáo thật. Tôn giáo thật vâng lời Chúa và bày tỏ qua việc thăm viếng kẻ mồ côi,người góa bụa và giữ nếp sống thánh khiết.
Hai Loại Đức Tin
Trong chương 2 của thư Giacơ, tác giả mở đầu bằng cách viết về điều mà chúng ta có thể gọi là “gương mặt giả dối” và “gương mặt thật”. Chữ “người” có nghĩa là “gương mặt” và liên quan đến con người bề ngoài của chúng ta. Giacơ viết rằng nếu chúng ta nhìn bề ngoài để đánh giá người khác dựa trên việc họ có của cải hay không thì đó là một tội vì Chúa đánh giá con người dựa trên những gì họ có ở trong lòng. Lời Chúa phán rằng: “…Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (I Sa-mu-ên 16:7).
Kế đến, Giacơ đề cập đến đức tin giả và đức tin thật. Điều nầy đặt ông vào một trong những phân đoạn Kinh thánh gây nhiều tranh luận nhất của Tân ước (2:14-26). Mặc dù người ta thấy sự nhấn mạnh về ân điển giữa Giacơ và Phaolô mâu thuẫn nhau nhưng đó chỉ là mâu thuẫn bên ngoài mà thôi. Lời Chúa Jêsus phán cũng giống như Giacơ: “Ấy vậy, các ngươi nhờ
những trái nó mà nhận biết được” (Ma-thi-ơ 7:20). Chúa Jêsus cũng đã nói rõ là người nào nghe lời Ngài dạy nhưng không làm theo là người xây nhà mình (đời sống) không có nền móng. Giacơ cũng đồng ý với Chúa Jêsus về điều đó nên ông viết rằng việc làm là bông trái luôn luôn phát triển trên cây đức tin.
Có người giải thích điều đó như thế nầy: “Chỉ riêng đức tin mới có thể cứu rỗi, nhưng đức tin cứu rỗi không bao giờ đi một mình”. Chúng ta được cứu rỗi chỉ bởi đức tin thôi, nhưng việc làm của chúng ta chứng minh đức tin đó là thật vì việc làm luôn luôn đi kèm và xác nhận tính Chương 6hợp lệ của đức tin thật.
HAI SỰ KHÔN NGOAN
Trong chương 3 của thư Giacơ, tác giả tập trung vào nguồn gốc của kỷ luật thuộc linh là điều giúp chúng ta bước đi bằng đức tin. Ông viết rằng nơi cần phải bắt đầu việc thi hành kỷ luật thuộc linh là cái lưỡi của bạn. Cách duy nhất để thực hiện việc đó là phải hiểu điều mà tác giả gọi là “sự nhu mì khôn ngoan”.
Chắc bạn còn nhớ trước đây tôi từng nói “nhu mì” có nghĩa là “thuần tính”. Trước khi một con ngựa được thuần hóa, nó là một con vật rất mạnh. Khi đã được thuần hóa, con ngựa vẫn là một con vật mạnh khỏe nhưng có thể được mô tả là “sức mạnh được điều khiển”. Và vì vậy, cụm từ “sự nhu mì khôn ngoan” có nghĩa là “sự khôn ngoan được điều khiển”. Khi nhận được sự khôn ngoan từ Đức Chúa Trời, bạn nên cầu xin Đức Thánh Linh ban ân điển và kỷ luật để áp dụng sự khôn ngoan nầy. Nói cách khác, khi Đức Chúa Trời bày tỏ sự khôn ngoan Ngài cho bạn thì bạn phải đầu phục sự hướng dẫn của Ngài như cách con ngựa chịu phục cái hàm thiếc, dây cương và sự điều khiển của người huấn luyện hay người cỡi trên nó.
Cụm từ đẹp đẽ đó đã đưa Giacơ vào buổi thảo luận về sự khôn ngoan. Ông cho chúng ta biết rằng có hai sự khôn ngoan trên thế giới nầy: một đến từ ma quỉ và một đến từ Đức Chúa Trời. Người ta nhận biết nguồn gốc của sự khôn ngoan nhờ bông trái chúng sinh ra trong khu vườn cuộc đời của chúng ta.
Tóm Tắt
Giacơ muốn chúng ta nhận biết nguồn gốc của sức mạnh đang chi phối đời sống con người. Nếu chúng ta bị cám dỗ phạm tội và phải chịu tất cả hậu quả của việc đó thì loại thử thách đó không đến từ Đức Chúa Trời. Bạn có thể bước vào mối tương giao với Đức Chúa Trời qua Lời Ngài là Lời có thể giúp bạn vượt trên những sức mạnh đó vốn được định cho việc phá hủy đời sống thuộc linh bạn.
Qua Lời đã được trồng của Đức Chúa Trời, Giacơ khích lệ chúng ta hãy nếm trải sự khôn ngoan đến từ Đức Chúa Trời và hãy gieo Lời đó trong khu vườn cuộc đời của chúng ta.
Chương 7:NGUỒN GỐC CỦA GIẢI PHÁP
Giacơ đã nói với chúng ta về khởi điểm và hệ quả của tội lỗi và sự cứu rỗi. Giờ đây ông lại muốn nói với chúng ta về khởi điểm trong sự nên thánh của chúng ta, tức là giải pháp căn bản cho vấn đề tội lỗi. Khi Giacơ viết chương 3 và 4 của bức thư nầy thì tấm lòng của ông đã được thánh hóa.
Phần nầy của bức thư có nhiều ứng dụng. Hãy để ý những điều Giacơ bảo chúng ta làm. Hãy đầu phục Đức Chúa Trời. Nếu bạn muốn hiểu bí quyết của sự nên thánh, là giải pháp cho sự quyến rũ và cám dỗ của tội lỗi, thì hãy đầu phục Đức Chúa Trời. Đầu phục Chúa là thế tấn công thuộc linh của bạn.
Kế đến hãy lắng nghe lời Giacơ mô tả về chiến lược phòng ngự thuộc linh khi bạn bị ma quỉ cám dỗ phạm tội. Rõ ràng Giacơ muốn nói rằng: “Hãy chống trả ma quỉ, thì nó sẽ lánh xa anh em. Hãy đến gần Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ đến gần anh em” (Giacơ 4:7).
Khi Giacơ đưa ra cho chúng ta ứng dụng thực tế đó đối với lời dạy của ông, một lần nữa ông lại muốn so sánh với sự dạy dỗ của Chúa Jêsus, người anh theo phần xác của ông. Chúa Jêsus dạy rằng ví dụ rất quan trọng về Người Con Trai Hoang Đàng là bức tranh mô tả về Đức Chúa Trời và tình yêu của Ngài như người cha già chạy ra ôm lấy con trai mình muốn trở
về nhà sau khi sống ở nơi phương xa tội lỗi.
Trong khi người con trai hoang đàng sống ở phương xa, người cha để cho cậu nếm trải hậu quả đáng sợ do sự chọn lựa tội lỗi của cậu. Tuy nhiên, khi người con trai đó xoay bước chân đầu tiên hướng về nhà cha mình, thì cụ già chạy ra đón mừng cậu, là bức tranh về tình yêu của Đức Chúa Trời.
Chẳng có gì vụng về hơn người cha già chạy ra, nhưng đó là cách Chúa Jêsus mô tả về tình yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho người con hoang đàng quyết định quay về nhà cha mình. Vì vậy, khi Giacơ so sánh lời khích lệ của ông với anh mình là Chúa Jêsus thì lời đó là “Hãy đến gần Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ đến gần anh em”. Giacơ nói rằng khi chúng ta bước một bước về phía Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ chạy nhanh về phía chúng ta. Trên nguyên tắc, Chúa Jêsus dạy chân lý tương tự khi Ngài dạy ví dụ về người con trai hoang đàng.
Bạn có thật sự tin Đức Chúa Trời yêu bạn không? Có người trong chúng ta có cái nhìn thật tội nghiệp về chính mình như thế; chúng ta cảm thấy rất khó tin là người khác có thể yêu thương mình, nhất là Đức Chúa Trời, Đấng biết rõ mọi điều cần biết về chúng ta. Khi chúng ta phạm tội trọng, chúng ta thấy hầu như khó có thể tin nơi tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho mình.
Căn cứ vào thẩm quyền của Lời Đức Chúa Trời, tại đây tôi phải nói với bạn rằng Ngài yêu bạn! Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho bạn cũng giống như người cha già chạy ra để xác quyết tình yêu của Chúa dành cho con trai mình. Dù bạn cảm thấy mình như thế nào thì Đức Chúa Trời vẫn cứ yêu bạn!
Trong chương 4 của bức thư rất thực tế của Giacơ, ông nói rất hùng hồn về sự khích lệ, ứng dụng và những điều giống như Chúa Jêsus. Hầu như đó là lời bình luận tại chỗ về những sự dạy dỗ của Chúa Jêsus.
Có một lời khích lệ rất hay mà qua đó tác giả nhắc nhở rằng, chúng ta ở trong tay Đức Chúa Trời; thì giờ của chúng ta ở trong tay Chúa; mọi sự thuộc về chúng ta đều ở trong tay Ngài. Chúng ta nên nhớ rằng nếu Ngài không ban ân điển, sức khỏe và sự sống cho chúng ta thì có thể chúng ta sẽ chẳng làm được gì trong những năm tháng tiếp theo.
Trong phần còn lại của bức thư, Giacơ cho chúng ta biết điều mà bạn có thể gọi là “Kết Quả Qua Giải Pháp Của Đức Chúa Trời”. Giacơ nhấn mạnh chủ đề về sự tái lâm của Đức Chúa Jêsus Christ. Cũng như các sứ đồ, ông nói rằng đó là giải pháp tối hậu cho tất cả mọi nan đề
của chúng ta trên đất. Mỗi khi các vị tiên tri nầy hay các tác giả Tân ước nói với chúng ta về sự hiện đến của Đức Chúa Jêsus thì sự ứng dụng thường rất thực tế. Trong ánh sáng của sự kiện Đấng Christ sắp tái lâm, ngay bây giờ bạn nên sống thế nào?
Ngay trong phần cuối của bức thư, ông viết một phân đoạn rất hay về điều mà chúng ta có thể gọi là “Sự sống thuộc thể của Hội thánh”. Đó là điều mà ngày nay, khi nhắc đến sự sống của thân thể, tức là chúng ta muốn nói đến sự sống của Hội thánh. Trong Tân ước, mọi thuộc viên của thân thể (Hội thánh) được khích lệ phục vụ cho tất cả những thuộc viên khác.Mọi ân tứ của Đức Thánh Linh được ban cho là để gây dựng Hội thánh.
Chương cuối cùng của bức thư nầy cũng đưa ra cho chúng ta một sứ điệp rất hay về sự chữa lành. Giacơ dạy rằng chúng ta nên dành chỗ cho sự chữa lành khi các thuộc viên trong
thân thể Đấng Christ nhóm lại với nhau. Ngày nay, điều nầy cần phải được nhắc đến cách công khai và rõ ràng. Tôi tin nơi sự chữa lành bằng đức tin. Tôi tin Chúa có thể chữa lành. Tôi không tin ý muốn của Đức Chúa Trời là luôn luôn chữa lành, nhưng tôi tin rằng Ngài có thể chữa lành và thực sự chữa lành. Sự chữa lành mà Giacơ mô tả và quy định không xảy ra
trong bối cảnh của nơi tụ họp đông người do một người có đức tin chữa bệnh điều khiển. Sự chữa lành phải xảy ra trong bối cảnh của Hội thánh tư gia.
Người mắc bệnh phải có đủ đức tin để mời các trưởng lão trong Hội thánh đến. Kế đến, các trưởng lão trong Hội thánh cũng phải đủ đức tin để đến với người bệnh khi họ được mời.Khi các trưởng lão đến, họ được chỉ dẫn là phải đặt tay trên kẻ bệnh và xức dầu cho người ấy. Giacơ nói: “Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ bệnh”. (Cũng thật thú vị khi chú thích từ ngữ chỉ dầu chính là dầu dùng trong y học. Vì vậy chúng ta có thể nói: Hãy uống thuốc đi rồi cầu nguyện).
Giacơ tiếp tục nói với chúng ta rằng nếu người bệnh có phạm tội thì người ấy phải xưng tội và phải tin chắc rằng tội lỗi mình đã được tha thứ. Đôi khi tội lỗi chưa xưng ra và chưa được tha thứ có thể là nguyên nhân chính gây ra bệnh tật.
Có nhiều nguyên tắc thực tế như thế trong bức thư ngắn ngủi nầy của Giacơ. Hãy đọc, nghiên cứu và cầu xin Đức Chúa Trời để áp dụng thư ấy vào đời sống bạn và Hội thánh bạn.
Chương 8:CÁC THƯ TÍN CỦA PHIERƠ BA ÔNG PHIERƠ
Trong Tân ước chúng ta bắt gặp ba ông Phierơ khác nhau: một Phierơ trong các sách Phúc Âm, một trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ và một trong các thư tín của ông. Trong các sách Phúc Âm, Chúa Jêsus phán: “Hỡi Si-môn, Si-môn, nầy quỉ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. Song Ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn. Vậy, đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình” (Luca 22:31-34).
Đây là một phần rất hay trong cuộc đối thoại giữa Chúa Jêsus và Phierơ, vì chữ “hối cải” đã làm phát sinh hai câu hỏi: Hối cải là gì và Phierơ đã hối cải lúc nào? Hối cải nghĩa là: “có một vòng xoay hoàn hảo”. Hối cải không phải là gia nhập Hội thánh hay chịu báp têm. Hối cải là kinh nghiệm của việc xoay lại đúng hướng. Sau khi chối Chúa, Phierơ đi ra và khóc lóc cách đắng cay. Ông học biết rằng nếu không có Chúa Jêsus thì ông chẳng là gì cả.
Sau khi phục sinh, Chúa Jêsus hiện ra cùng Phierơ. Lúc đó Chúa hỏi: “Ngươi yêu Ta hơn những kẻ nầy chăng?” Bảy trong số những người từng có mặt trên phòng cao vào lúc Phierơ
kiêu hãnh nói rằng những người ấy có thể chối Chúa nhưng ông thì không, đang có mặt lúc Chúa Jêsus hỏi Phierơ: “Ngươi yêu Ta hơn những kẻ nầy chăng?”Chúa Jêsus dùng từ Hy Lạp
“agape”, có nghĩa là tình yêu thương tận tụy hết lòng.
Lời đáp của Phierơ ở thể xác định, ông dùng từ Hy Lạp “phileo”, qua đó ông muốn nói: “Chúa biết rằng tình yêu con dành cho Ngài chẳng qua chỉ là tình bạn thôi”. Giờ đây Phierơ không còn kiêu hãnh nữa vì ông là một con người có tấm lòng tan vỡ. Chúa Jêsus đáp: “Phierơ, hãy chăn chiên Ta!” Ý Chúa Jêsus muốn nói rằng: “Ta cần một người như ngươi, một người biết thế nào là thất bại trong việc chăn chiên Ta”.
Kế đến, Chúa hỏi Phierơ: “Ngươi yêu Ta chăng?” Chúa Jêsus không nói ‘hơn những người nầy’ nhưng Ngài chỉ nói ‘ngươi yêu Ta chăng?’ Một lần nữa Chúa Jêsus lại dùng từ “agape”. Phierơ trả lời: “Chúa biết câu trả lời của con; Chúa biết con yêu Ngài chỉ bằng tình bạn thôi”. Chúa phán với Phierơ: “Hãy chăn chiên Ta”. Một lần nữa Chúa Jêsus lại có ý muốn nói: “Ta cần một người biết thế nào là thất bại trong việc chăn chiên Ta”.
Lần thứ ba Chúa dùng từ “phileo”. Nói cách khác, Ngài hỏi Phierơ: “Ngươi có còn dành cho Ta tình bạn – tức yêu Ta như một người bạn không?” Vào lúc đó, tâm hồn Phierơ tan vỡ. Ông nói: “Vâng, Chúa biết rằng con yêu Ngài bằng tình bạn thấp nhất”. Một lần nữa, Chúa phán với ông: “Hãy chăn chiên Ta!” Sau khi phục sinh, Chúa Jêsus hiện ra cùng Phierơ và Ngài cho ông biết rõ rằng dù ông đã thất bại, ông là người xứng đáng chăn nuôi bầy chiên của Ngài, Phierơ biết rằng ông chính là người đó.
Trong sách Công Vụ Các Sứ Đồ, Phierơ và cả thế giới nhận ra rằng Đức Chúa Trời có thể liên hệ với một người khi người ấy thấy mình chẳng ra gì. Tại sao Đức Thánh Linh lại sử dụng Phierơ trong dịp lễ Ngũ Tuần? Đó là vì Phierơ biết rõ bốn bí quyết thuộc linh nầy hơn những người đang có mặt tại đó:
– “Tôi không là gì nhưng Ngài là tất cả vì tôi ở trong Ngài và Ngài ở trong tôi”.
– “Tôi không có khả năng nhưng Ngài làm được mọi sự vì tôi ở trong Ngài và Ngài ở trong tôi”.
– “Không phải ý muốn tôi nhưng là ý muốn Chúa vì tôi ở trong Ngài và Ngài ở trong tôi”.
– “Không phải tôi làm nhưng Ngài làm vì tôi ở trong Ngài và Ngài ở trong tôi”.
Chúng ta có ba ông Phierơ khác biệt trong Tân ước. Đời sống thuộc linh của Phierơ trong các sách Phúc Âm đầy dẫy thăng trầm, nhưng sau đó trong Công Vụ Các Sứ Đồ chúng ta lại
bắt gặp một Phierơ khác. Phierơ nầy rất kiên định. Sau lễ Ngũ Tuần, dường như Phierơ không còn mặt yếu nữa.
Tôi từng nói tất cả những gì phải nói: Khi đọc thư Phierơ, bạn sẽ gặp ông Phierơ thứ ba. Đây là một Phierơ trưởng lão. Phierơ biết rằng ông chẳng là gì cả và ông cũng biết rằng Đức Chúa Trời có thể hành động qua người nào tự biết rằng mình chẳng là gì cả. Phierơ là một mục sư già khi ông viết các bức thư nầy.
Phierơ có ý muốn viết cho các tín hữu Do Thái bị tản lạc khắp vùng Tiểu Á, nay là nước Thổ Nhĩ Kỳ. Họ tản lạc vì bị bắt bớ. Phierơ sống ở Rôma. Khi nhắc đến Babylôn thì ông có ý muốn ám chỉ Rôma. Phierơ biết rằng cơn bắt bớ tại Rôma ngày càng nặng nề hơn và sẽ lan rộng đến khắp các tỉnh (của đế quốc La Mã) nơi các tín hữu Do Thái bị tản lạc. Lý do trước nhất khiến Phierơ viết bức thư nầy vì ông là mục sư, ông muốn yên ủi và nâng đỡ những người ấy trong cơn đau thương của họ. Dường như đó là điều được nhấn mạnh hàng đầu trong cả hai bức thư nầy.
Trước khi đọc các bức thư của Phierơ, tôi xin chia sẻ đôi điều với bạn. Phierơ không biết đọc hay biết viết. Đó là lý do tại sao ông phải nói với chúng ta ở phần cuối của một trong các bức thư nầy: “Tôi cậy Sinvanh, là kẻ tôi coi như một người anh em trung tín, viết mấy chữ nầy đặng khuyên anh em” (I Phierơ 5:12).
Bạn sẽ không tìm thấy một luận cứ có hệ thống khi đọc các thư tín của Phierơ. Ngược lại bạn có thể tìm những chân lý tốt đẹp, sâu nhiệm, tin kính, thiêng liêng nói lên thực trạng của một người hiểu biết Đức Chúa Trời và Chúa Jêsus. Đôi khi Phierơ chuyển từ chủ đề nầy sang chủ đề kia và cũng có lúc ông chia sẻ những lẽ thật thuộc linh rất khó hiểu.
Chẳng hạn, Phierơ trình bày việc Chúa Jêsus giảng cho những linh hồn bị tù. Martin Luther nói: “Chẳng ai biết ý nghĩa của phân đoạn nầy cả”. Sau khi viết phân đoạn khó hiểu nầy, Phierơ đột ngột chuyển đề tài và nói về Nôê với cơn lụt. Đề tài đó đưa ông đến chủ đề báp têm. Ông chia sẻ với chúng ta những ý nghĩ được linh cảm của ông về vấn đề báp têm. Nên nhớ rằng Phierơ không viết, ông chỉ chia sẻ từ tấm lòng của ông thôi.
Giăng là vị sứ đồ của tình yêu, Phaolô là vị sứ đồ của đức tin, còn Phierơ là vị sứ đồ của niềm hy vọng. Các thư tín của Phierơ đem lại niềm hy vọng cho những người đang chịu khổ nạn.
Phierơ mà chúng ta gặp trong các sách Phúc Âm có lẽ là một người trần tục khi ông gặp Chúa Jêsus. “Quý báu” không phải là một trong những từ mà ông thích dùng vào thời điểm đó trong cuộc đời ông. “Quý báu” là từ mà một trưởng lão thích dùng. Phierơ mà chúng ta gặp trong các thư tín của ông là mục sư lão thành Phierơ, đối với ông, Đức Chúa Trời là quý báu, Lời Chúa là quý báu, sự cứu rỗi là quý báu và dân sự Đức Chúa Trời cũng quý báu.
Chương 9:THƯ PHIERƠ THỨ NHẤT
Phierơ có ý viết thư nầy cho các tín hữu Do Thái đang bị tản lạc khắp vùng Tiểu Á. Chức vụ của Phierơ chủ yếu là với tín hữu Do Thái. Phierơ cố gắng khích lệ và an ủi họ trong cơn khổ nạn. Ông truyền cho họ một số hiểu biết kỳ diệu về lý do tại sao Đức Chúa Trời lại cho phép dân Ngài chịu khốn khổ.
Ông viết thư khi đang ở Rôma, nơi Cơ Đốc nhân đang bị bắt bớ. Ông biết rằng cơn bắt bớ nầy sẽ ngày càng tệ hại hơn và sẽ lan rộng tới các tỉnh nơi những người nhận thư nầy đang sống. Hội thánh trong thế hệ thứ nhất đã trải qua cơn bách hại dữ dội. Trên thực tế, trong 300 năm đầu của lịch sử Hội thánh, tin theo Chúa Jêsus là việc làm bất hợp pháp.
Phierơ đưa ra hai trường hợp về sự chịu khổ của những người đọc thư tín của ông. Một là, “nếu cần phải thế”. Ông tin rằng đôi khi Đức Chúa Trời phải để cho chúng ta chịu đau đớn vì điều đó là cần thiết. Điều thứ hai về sự chịu khổ mà ông nhận xét là đau khổ chỉ diễn ra “trong một lúc” mà thôi. Nói cách khác, hầu hết sự đau khổ chỉ là tạm thời.
Lần thứ ba ông quan sát sự đau khổ là lúc ông liên hệ đến đức tin quý như vàng của họ. Vàng là một kim loại quý và vàng được tinh khiết khi luyện trong lửa. Khi Đức Chúa Trời nhìn vào đời sống họ thì điều thật sự có ý nghĩa đối với Ngài là đức tin và sự tăng trưởng thuộc linh của họ (I Phierơ 1:6-7).
Khi Phierơ tập trung vào chủ đề cứu rỗi, ông đưa ra khái niệm về việc được sanh lại và được chọn. Các tiên tri đã nói tiên tri rằng sự cứu rỗi phải được rao giảng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Ông đưa ra một nhận xét rất hay, đó là khi viết, dù các tiên tri viết trong quyền năng và sự cảm thúc của Đức Thánh Linh, họ chẳng hiểu gì về điều họ viết ra. Ông nhận thấy rằng vào thời điểm mà các độc giả của ông đang sống, sự cứu rỗi nầy đã được ứng nghiệm, là điều đã được viết rõ ràng trong tác phẩm tiên tri của Lời Đức Chúa Trời.
Chúng ta không đủ tư liệu lịch sử để biết chính xác số người phải chịu chết hầu chúng ta hưởng được nhiều phước hạnh thuộc linh như ngày nay. Chẳng hạn, nghĩ đến Kinh thánh là lời được Đức Chúa Trời ban ra. Khi chúng ta bắt đầu sự hiểu biết nầy, tôi đã chia sẻ một vài ý tưởng về cách Kinh thánh được sưu tập. Một nghiên cứu đơn giản về cách chúng ta có được Kinh thánh sẽ giúp bạn nhận ra rằng chúng ta nợ những người đã hy sinh chính sự sống của họ để bạn và tôi có được Lời Đức Chúa Trời như hiện nay.
Khi chúng ta có được cái nhìn lịch sử về chủ đề cứu rỗi, Phierơ nhắc nhở rằng chúng ta chịu ơn rất nhiều người. Nếu ngày nay là thời điểm thu hoạch thì nên nhớ rằng rất nhiều người đã từng chịu đau đớn để gieo ra hạt giống, hầu cho bạn và tôi có thể thu được kết quả mà hiện chúng ta đang gặt hái (Giăng 4:36-38).
Khi Phierơ viết rằng Chúa Jêsus là “Goel” hay “người chuộc bà con” của chúng ta, là ông có ý nhắc nhở chúng ta về điều mà chúng ta học được khi nghiên cứu các sách Xuất Êdíptô ký, Lêvi ký, Phục truyền luật lệ ký và Rutơ. Cũng giống như Bôô làm cho Rutơ, Chúa Jêsus chuộc chúng ta lại cho Đức Chúa Trời qua sự chết của Ngài, và bằng cách thiết lập mối liên hệ với chúng ta qua sự phục sinh của Ngài, chúng ta được đem về cho Đức Chúa Trời (I Phierơ 1:18,19).
Cảm Nghĩ Về Sự Sanh Lại
Khi được sanh lại, bạn không cần biết kinh nghiệm đó trước khi sự sanh lại xảy ra. Bạn không cần hiểu sự sanh ra về phương diện thuộc thể để được sanh ra trên thế giới nầy. Sự sanh ra thuộc thể đã xảy đến với bạn. Sự sanh ra thuộc thể là một kinh nghiệm thụ động đối với bạn
vì bạn được sanh ra. Sự sanh lại cũng xảy đến với bạn, rồi khi nhìn lại và suy nghĩ, bạn sẽ hiểu những gì đã xảy ra với bạn.
Điều quan trọng đối với bất cứ kinh nghiệm thuộc linh chủ quan nào không phải là những đặc điểm mà là kết quả của kinh nghiệm đó. Đó là cách mà vị sứ đồ vĩ đại đã mô tả sự sanh lại cho chúng ta: “Anh em đã vâng theo lẽ thật làm sạch lòng mình, đặng có lòng yêu thương anh em cách thật thà, nên hãy yêu nhau sốt sắng hết lòng; anh em đã được lại sanh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hay hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (I Phierơ 1:22,23).
Phierơ so sánh sự sanh ra thuộc linh với sự sanh ra thuộc thể. Ông nói rằng, khi chúng ta được sanh lại thì được sanh bởi hạt giống (từ Hy Lạp là tinh dịch) không hay hư nát. Phierơ cho chúng ta biết rằng “hạt giống” không hề hư nát đó chính là Lời Đức Chúa Trời, và đức tin của chúng ta giống như một quả “trứng”. Khi chúng ta đáp ứng với Lời Đức Chúa Trời bằng đức tin thì Lời ấy giống như một “tinh trùng” không hề hư hoại, thụ tinh cho quả trứng đức tin của chúng ta. Sự sống thuộc linh được thai dựng trong chúng ta khi chúng ta tin Lời
Đức Chúa Trời.
Phierơ cũng đưa ra những sự hiểu biết sâu sắc trên phương diện thuộc linh về “cách” sanh lại khi ông nói rằng chúng ta được sanh lại là do chúng ta làm sạch linh hồn mình qua việc nghe, tin và đáp ứng với Lời Đức Chúa Trời bằng sự vâng lời.
Có bao giờ bạn tự hỏi Hội thánh thời Tân ước có mối liên hệ thế nào với dân sự của Đức Chúa Trời trong Cựu ước không? Đây là phân đoạn Kinh thánh đem cả hai lại với nhau.Trong thời Cựu ước, rõ ràng là Đức Chúa Trời muốn có một vương quốc, nhưng dân Ysơraên đến với Samuên và nói rằng họ không muốn Đức Chúa Trời là vua của họ nữa.
Sau khi vương quốc đó trải qua những thảm họa, lưu đày và 400 năm yên lặng, thì Chúa Jêsus và Giăng Báptít đến giảng về Tin Lành của nước Đức Chúa Trời, lời giảng như thế nầy: “Đức Chúa Trời vẫn muốn làm Vua các ngươi”. Chúa Jêsus giải thích: “Khi Ta nói về vương quốc của Đức Chúa Trời thì đó là vương quốc ngự trị trong lòng những người đầu phục Ngài, tôn Ngài làm Vua của đời sống họ và họ trở thành thần dân của Ngài” (Lu-ca 17:21; Giăng 3:3-5).
Phierơ viết cho những tín hữu Do Thái đang bị tản lạc khắp vùng Tiểu Á rằng họ là dân thánh và là dân của Đức Chúa Trời. Ông còn gọi họ là chức tế lễ nhà vua (I Phierơ 2:9-10). Thầy tế lễ là người bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời và cầu thay cho người khác. Những tín hữu nầy cũng là thầy tế lễ. Họ được Đức Chúa Trời sai phái đi khắp nơi trên thế giới để làm môn đồ Chúa Jêsus và vì lợi ích của những người sẽ tin nhận Chúa mà cầu thay cho họ.Ông cũng viết: “Anh em là dòng giống được lựa chọn” và “Anh em là kiều dân và là khách bộ hành trên đất”. Cùng với địa vị là dân thánh, chức tế lễ nhà vua, tuyển dân của Chúa, thì họ cũng là kiều dân và khách bộ hành trên đất.
Hôn Nhân Kiểu Mẫu
Trong chương ba của thư I Phierơ, chúng ta tìm thấy một vài lời khuyên về hôn nhân tốt nhất trong Kinh thánh. Về cơ bản, cả Phierơ và Phaolô đều nói rằng: “Hỡi quí bà, quí bà có nhìn thấy khuôn mẫu của Đấng Christ và Hội thánh Ngài không? Qua khuôn mẫu đó, quí bà là Hội thánh. Hỡi quí ông, quí ông có nhìn thấy khuôn mẫu của Đấng Christ và Hội thánh Ngài không? Đó là khuôn mẫu hôn nhân đã được linh cảm, và qua đó, quí ông giống như Đấng Christ”.
Phierơ nhấn mạnh lời khuyên về hôn nhân của ông đã được linh cảm đối với những người vợ đang sống với người chồng không vâng lời Chúa. Điều đó cho thấy người chồng là người chưa tin Chúa nên không vâng lời Ngài, hoặc có thể người chồng là tín hữu nhưng thường không vâng giữ Lời Chúa.
Trong lời khuyên của Phierơ và Phaolô về hôn nhân, người nữ được dạy là phải vâng phục chồng mình như Đấng Christ vâng phục Hội thánh. Vâng phục thật không dễ chút nào, nhưng đó chưa thực sự là nan đề lớn nhất đối với các cuộc hôn nhân giữa vòng tín hữu. Nan đề lớn nhất đó là người chồng không chịu gánh vác trách nhiệm chăm sóc vợ và con cái như Đấng Christ chăm sóc Hội thánh.
Phierơ cũng khuyên những người nữ chinh phục chồng mình mà không dùng lời nói; nếu một người chồng không vâng lời Chúa thì điều đó cho thấy người ấy không thể hiện đúng vai
trò của mình trong hôn nhân. Trước khi Phierơ viết ra lời khuyên cho một người chồng như thế, ông khuyên những người nữ trong hoàn cảnh đó là phải có đời sống thuộc linh sâu nhiệm,biết vâng phục, dịu dàng và yên lặng.
Hãy chú ý đến chữ “vâng phục” khi chúng ta xem xét khuôn mẫu hôn nhân mà Phierơ đã đưa ra. Ở cuối chương 2, Phierơ nhắc đến Chúa Jêsus và sự chết của Ngài trên thập tự giá như một Đầy Tớ Chịu Khổ, là Đấng đã được mô tả qua lời tiên tri trong Ê-sai chương 53.
Lời cuối cùng của ông nhắc đến Chúa Jêsus như là người chăn và giám mục của linh hồn bạn. Kế đó ông chỉ ra khuôn mẫu của Chúa Jêsus trong việc chăn dắt Hội thánh, rồi ông bắt đầu khuyên những người nữ bằng lời khuyên: “Hãy giống như vậy”. Ông muốn nói với những người ấy rằng họ nên vâng phục chồng mình như Hội thánh vâng phục Đấng Christ.
Chữ “vâng phục” nầy trong văn mạch mà Phierơ dùng thực sự có nghĩa là “hãy để chồng bạn chăm sóc bạn”. Đức Chúa Trời đã giao phó cho chồng bạn một trách nhiệm rất lớn.Chúa truyền lệnh cho chồng bạn là phải chăm sóc bạn như Đấng Christ chăm sóc Hội thánh. Điều đó có nghĩa là người chồng phải yêu thương vợ như Đấng Christ yêu Hội thánh, phải ban cho như Đấng Christ và phải là tất cả đối với vợ như Đấng Christ đối với Hội thánh. Phaolô cũng đưa ra những lời khuyên về hôn nhân tương tự trong thư ông gởi cho người Êphêsô (Êphê-sô 5:22-25).
Trong quân đội, bạn chỉ có một sĩ quan chỉ huy. Không thể nào có hai vị chỉ huy như thế được. Sĩ quan chỉ huy có thể trao phó quyền hành cho người khác trong nhiều vấn đề. Tuy nhiên, người ấy không thể trao phó trách nhiệm được. Nếu có gì sai trật, chỉ một mình người ấy chịu trách nhiệm thôi.
Trong lời khuyên về hôn nhân của Phierơ và Phaolô, và suốt cả Kinh thánh, Đức Chúa Trời trao phó trách nhiệm đối với vấn đề hôn nhân và gia đình cho người chồng khi Ngài truyền lệnh cho người chồng phải chăm sóc vợ như Đấng Christ chăm sóc Hội thánh. Trong lúc đó, Ngài cũng truyền lệnh cho người nữ phải để cho chồng chịu trách nhiệm về họ và con cái họ. Trách nhiệm ngụ ý là bạn có thể có hai sĩ quan chỉ huy. Phải có ai đó chịu trách nhiệm và Đức Chúa Trời đã chỉ định trách nhiệm đó là của người chồng.
Chữ đầu tiên mà Phierơ dùng để mở đầu lời khuyên dành cho người chồng ở câu 7 cũng giống như chữ ông dùng để khuyên người vợ. Khi người chồng đọc lại những chữ “cũng giống như vậy”, chúng ta nên hỏi: “Thưa cụ Phierơ, giống như điều gì ạ?” Phierơ sẽ trả lời: “Hãy quay lại và nhìn vào khuôn mẫu hôn nhân đã được linh cảm. Các con có thấy Đấng Christ và Hội thánh ở câu cuối của chương 2 không? Theo khuôn mẫu đó, người chồng là Đấng Christ. Hãy sống với vợ mình như thể các con là Đấng Christ. Các con phải yêu họ như Đấng Christ yêu Hội thánh và các con phải là mọi sự đối với vợ mình như Đấng Christ là mọi sự đối với Hội thánh”.
“Hỡi người làm chồng, hãy tỏ điều khôn ngoan ra trong sự ăn ở với vợ mình” (I Phierơ 3:7). Phierơ không bảo người chồng phải hiểu vợ mình. Có thể chúng ta là những người vợ, người chồng đã cưới nhau nhưng thậm chí không hiểu nhau. Trên thực tế, Phierơ nói với người chồng: “Hãy lấy sự hiểu biết ăn ở với vợ”. Có thể bạn không hiểu vợ mình nhưng bạn có thể biết về cô ấy.
Phierơ cũng có lời khuyên rất thực tế dành cho người chồng. Ông viết: “Hãy ăn ở với vợ”. Điều đó có nghĩa là chồng phải dành thì giờ cho vợ. Người chồng phải đặt vợ ở vị trí ưu tiên và dành thì giờ cho vợ. Bạn có thể cho rằng lời khuyên nầy không cần thiết lắm, nhưng cái khó thực sự là có nhiều ông chồng dành thì giờ ở khắp mọi nơi nhưng không làm điều đó cho vợ và các con mình.
Tóm Tắt
Khi Ghêđêôn đánh thắng dân Mađian, chúng ta đọc thấy ông và 300 người theo ông “ai cứ chỗ nấy” và đó là bí quyết để Đức Chúa Trời ban cho họ một chiến thắng lạ thường (Quan xét 7:21). Đây là những gì mà Phierơ muốn nói trong lời khuyên về hôn nhân rất quan trọng của ông. Trong hôn nhân, mỗi người nên đứng đúng chỗ của mình. Người vợ có chỗ đứng của mình. Cô ấy có vai trò, chức năng, nhiệm vụ và vị trí của mình. Người chồng cũng có chỗ đứng của mình. Anh ấy có vai trò, chức năng, nhiệm vụ và vị trí mà anh phải đứng. Khi người chồng đứng sai chỗ, người vợ không nên đẩy, kéo, trách mắng hay chỉ dạy để đưa anh ấy về đúng chỗ. Cô ấy nên đứng trong vị trí của mình, và nếu có điều nào đem người chồng
trở về vị trí của mình thì điều đó phải là gương mẫu yêu thương của cô.
Hỡi quí bà, quí bà có thấy khuôn mẫu đó không? Quí bà là Hội thánh. Quí bà nên đứng trong vị trí của mình. Quí bà nên có thái độ đối với chồng mình như Hội thánh đối với Đấng Christ.
Hỡi quí ông, quí ông có thấy khuôn mẫu đó không? Quí ông là Đấng Christ. Quí ông hãy là người chồng dành cho vợ mình như Đấng Christ là cho Hội thánh. Bởi ân điển của Đức Chúa Trời, quí vị hãy đứng trong chỗ của mình. Vai trò mà sứ đồ Phierơ chỉ định cho vợ chồng cần được đổ đầy bằng ân điển của Đức Chúa Trời. Thách thức lớn nhất được dành cho người chồng vì họ là Đấng Christ đối với vợ mình.
Những Phân Đoạn Khó Hiểu Của Thư Phierơ
Phierơ kết luận bức thư thứ nhì của ông bằng nhận xét là có nhiều điều Phaolô viết rất khó hiểu. Tôi cho rằng sứ đồ Phaolô đã hỏi Phierơ về một vài phân đoạn mà giờ đây tôi sắp xem xét đến. Tôi bắt đầu bằng việc xem xét phân đoạn khó hiểu nhất trong các thư tín của Phierơ (3:17-4:2).
Trong chỉ có 8 câu thôi mà Phierơ đã nhắc đến mười chủ đề quan trọng. Ông cho chúng ta biết rằng khi Chúa Jêsus chịu chết vì tội lỗi của cả thế gian, dù thân thể Ngài chết nhưng Thần Linh của Ngài vẫn sống, và qua chính Thần Linh đó Ngài thăm viếng những linh hồn bị tù và giảng dạy cho họ – tức linh hồn của những người chối bỏ Phúc Âm khi họ còn có cơ hội vào thời kỳ Nôê.
Hình như sau khi Đấng Christ chịu chết trên thập tự giá, trước khi thăng thiên, Ngài còn thi hành chức vụ trong thế giới thuộc linh. Theo Phierơ, Đấng Christ có nhiệm vụ giải thoát trong thế giới thuộc linh. Phân đoạn nầy có ý mô tả những điều “các thiên sứ mong được nhìn thấy” theo cách dùng từ của Phierơ, vì vậy rất khó nói một cách chắc chắn.
Mục sư Phierơ chia sẻ rằng sự cuối cùng của muôn vật đã gần và trước viễn cảnh đó họ phải sống thánh khiết như thế nào. Tại đây Phierơ đưa ra cho chúng ta một cái nhìn hết sức thú vị về ân tứ thuộc linh và các chức vụ trở nên ích lợi nhờ những ân tứ thuộc linh đó.
Theo thiên tài thuộc linh thực tiễn nầy thì hễ chúng ta có ân tứ nào thì chức vụ chúng ta sẽ hướng theo hướng đó. Nếu bạn có ơn giảng đạo thì hãy cứ giảng. Khuynh hướng thông thường đó là bạn tỏ ra sự khiêm nhường của mình bằng cách vui lòng làm mọi việc. Mỗi người làm một việc. Nhưng đó không phải là điều Kinh thánh dạy. Tất cả sự dạy dỗ của Kinh thánh về ân tứ thuộc linh nhắc nhở chúng ta rằng có nhiều ân tứ khác nhau được ban xuống cho mỗi người theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh ban các ân tứ để bày tỏ Đấng Christ và khích lệ Hội thánh của Ngài. Bạn phục vụ tôi qua ân tứ thuộc linh bạn có và tôi phục vụ bạn bởi ân tứ thuộc linh Chúa ban cho tôi.
Trong chương 4, Phierơ lại tiếp tục đưa ra lời khuyên về sự chịu khổ. Nếu bạn đang chịu khổ, Phierơ nhắc lại: “Khi bạn chịu thử thách thì đừng xem đó là việc khác thường. Đừng hoang mang vì cớ bạn gặp nan đề hay phải chịu thử thách” (I Phierơ 4:12). Chúng ta biết rằng nan đề và thử thách là những điều xảy đến thình lình, thiên tai hay thảm họa được cho là không thể xảy ra. Chúng ta không hiểu được vì sao nó lại xảy đến với mình. Hầu hết mọi người sống trên thế gian nầy đều rất thực tế. Họ biết sự đau khổ là một phần của đời sống. Và thật vậy, điều khác biệt giữa người nầy với người kia không phải là việc họ có chịu thử thách hay không mà là cách họ đối phó với cơn thử thách.
Bạn chịu trách nhiệm về chính mình. Bạn không thể chịu trách nhiệm về tất cả những gì xảy đến với bạn, nhưng bạn phải chịu trách nhiệm về những gì bạn làm khi gặp phải những việc đó. Vấn đề là, bạn sẽ đối phó thế nào với những nan đề bạn gặp?
Phong ba bão táp không từ nan bất cứ một ai trên đời, nhưng Đức Chúa Trời cũng dùng những điều đó để ban ân điển và năng lực của Ngài cho chúng ta. Đức Chúa Trời đã ban Lời Ngài cho chúng ta, đó là hệ thống niềm tin của chúng ta. Khi chúng ta xử lý những cơn bão trong đời qua hệ thống niềm tin đó, tức qua Lời Chúa, thì Đức Chúa Trời sẽ ban sự khôn ngoan cho chúng ta để đối phó với nan đề mình gặp phải. Ngài cũng ban ân điển để chúng ta áp dụng sự khôn ngoan đó. Điều đó đưa đến điều mà Phierơ gọi là “lời chứng” của chúng ta. Đức Chúa Trời cho phép những cơn bão xảy ra vì Ngài muốn chúng ta làm chứng nhân cho Ngài. Chúng ta có thể là những chứng nhân giỏi hay yếu kém nhưng hết thảy chúng ta đều
là chứng nhân.
Đối với người trung tín theo Chúa thì sự chịu khổ là một lời kêu gọi. Bạn được cứu vì có Người đã chịu khổ thay bạn. Bạn được kêu gọi để đi theo dấu chân Ngài. Bạn là một với Ngài là người dự phần trong sự đau khổ Ngài. Có người nói rằng Đức Chúa Trời không bao giờ muốn dân Ngài phải chịu khổ. Nhưng ở đây, Phierơ nói rõ ràng rằng đôi khi do ý muốn của Chúa, thậm chí Ngài kêu gọi của bạn là để chịu khổ” (I Phierơ 4:19).
Lời Dành Cho Các Trưởng Lão
Chương 5 được dành cho các trưởng lão trong Hội thánh. “Tôi gởi lời khuyên nhủ nầy cho các bậc trưởng lão trong anh em, tôi đây cũng là trưởng lão như họ”. Phierơ khiêm nhường xem mình là một trưởng lão như các trưởng lão khác. Khi nhìn lại ba ông Phierơ trong phần giới thiệu những điều viết về Phierơ, chúng ta sẽ hiểu tại sao lại như vậy. Ông bảo rằng họ nên chịu trách nhiệm chăn dắt Hội thánh, chẳng phải như người cai quản nhưng để làm gương.
Khi bạn học về cơ cấu lãnh đạo trong Hội thánh, bạn sẽ không tìm thấy bất cứ điều gì trên thế gian nầy để so sánh với tổ chức của Hội thánh. Hội thánh không nên giống như một công ty có chủ tịch, chủ nhân và công nhân. Ảnh hưởng duy nhất của một trưởng lão trên Hội thánh là làm gương. Nếu gương sống của ông gây ấn tượng tốt trên các tín hữu thì họ sẽ đến với ông để được khuyên bảo rồi làm theo lời khuyên ấy. Đó là ảnh hưởng mà người chăn bầy có được trên Hội thánh, ảnh hưởng đó không giống như trong quân đội hay trong một cơ sở thương mại.
Chúa Jêsus, thầy của Phierơ, đã nói như thế nầy: “Họ muốn người ta chào mình giữa chợ, và ưng người ta gọi mình bằng thầy! Nhưng các ngươi đừng chịu người ta gọi mình bằng thầy; vì các ngươi chỉ có một Thầy, và các ngươi hết thảy đều là anh em. Cũng đừng gọi người nào ở thế gian là cha mình; vì các ngươi chỉ có một Cha, là Đấng ở trên trời. Cũng đừng chịu ai gọi mình là chủ; vì các ngươi chỉ có một Chủ, là Đấng Christ. Song ai lớn hơn hết trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ các ngươi. Kẻ nào tôn mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống thì sẽ được tôn lên” (Ma-thi-ơ 23:7-12).
Phierơ kết thúc bức thứ thứ nhất bằng một đoạn tự thuật ngắn về cuộc đời ông. Ông viết: “Đức Chúa Trời ban mọi ơn đã gọi anh em đến sự vinh hiển đời đời của Ngài trong Đấng Christ, thì sau khi anh em tạm chịu khổ, chính Ngài sẽ làm cho anh em trọn vẹn, vững vàng, và thêm sức cho” (I Phierơ 5:10). Sau khi Phierơ tạm chịu khổ, Đức Chúa Trời làm cho ông trở nên trọn vẹn, trưởng thành hay hoàn hảo. Đức Chúa Trời đã củng cố Phierơ, ban sức mạnh và làm cho ông ổn định. Và đó chính là ông Phierơ thứ ba, người viết những lời nầy.
Câu Kinh thánh đó là câu chuyện về cuộc đời Phierơ. Ý ông muốn nói: “Đây là mục đích của sự chịu khổ: Đức Chúa Trời chỉ thử thách anh em để làm cho anh em trưởng thành, vì vậy tai ương, hoạn nạn mà anh em sắp trải qua mang ý nghĩa đơn giản là chỉ trong một lúc thôi, rồi Ngài sẽ đến và vực anh em dậy, đặt anh em trong một nơi vững chắc và làm cho anh em mạnh mẽ hơn bao giờ hết vì anh em đã trải qua kinh nghiệm của sự chịu khổ nầy”.
Chương 10:THƯ PHIERƠ THỨ HAI
Khi Phierơ viết bức thư thứ hai, ông biết mình sắp qua đời. Giống như Sứ đồ Phaolô đã trao ý muốn cuối cùng và chúc thư của ông cho chúng ta trong thư Timôthê thứ hai. Trong bức thư thứ hai của mình, Phierơ chia sẻ những lời cuối cùng của ông cho bầy chiên của Chúa, là những người mà ông hứa rằng Ngài sẽ chăm sóc họ.
“Nhắc lại là bản chất của giáo dục”. Tôi từng nghe một nhà giáo dục nói như vậy. Biết đời mình giờ đây chỉ được tính từng ngày nên vị mục sư già khoanh tay và chia sẻ nỗi lòng của ông về những điều mà ông hiểu là những người đọc bức thư nầy biết rõ ông muốn họ phải nhớ.
Trong câu mở đầu, Phierơ nói với chúng ta rằng ân điển và sự bình an có thể được gia thêm cho chúng ta qua sự hiểu biết Đức Chúa Trời và Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta.Trong câu 3 của lời mở đầu, ông nhắc nhở Hội thánh một vài điều mà có lẽ ông đã nói với họ nhiều lần: “Quyền năng lạ lùng của Ngài đã ban cho chúng ta mọi sự liên quan đến sự sống và sự tin kính”. Kế đến Phierơ nói với độc giả của ông cách họ có thể nhận được những điều đó: “…qua sự hiểu biết Đấng đã gọi anh em đến sự vinh hiển và tốt lành”. Căn cứ vào đó, Phierơ nói, “Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta lời hứa vô cùng quí báu và vĩ đại, bởi lời hứa đó chúng ta trở nên kẻ dự phần bản tính thiên thượng”.
Kết quả mối tương giao với Đức Chúa Trời và Đấng Christ, đã đem đến cho chúng ta những điều nầy cùng với sự sống và sự tin kính. Theo Phierơ, đó là những lời hứa quí báu và qua việc thực hiện những lời hứa đó, chúng ta trở nên người dự phần bản tính thiên thượng.
Ngày nay chúng ta tin rằng hiểu biết là ích lợi. Tuy nhiên, trong lãnh vực thuộc linh, Kinh thánh nói rằng những gì chúng ta nghe qua các tiên tri, qua Chúa Jêsus và giờ đây qua sứ đồ Phierơ – là những hiểu biết vô dụng. Việc áp dụng sự hiểu biết đó mới thực sự ích lợi. Hãy để ý là Phierơ không viết: “Thêm cho đức tin anh em sự hiểu biết”. Trái lại, ông viết, “Thêm cho đức tin anh em sự nhơn đức”.
Đức hạnh chẳng qua là sự ứng dụng đức tin và đó chẳng qua là sự nhơn từ. Nhơn đức là một phẩm tính. Khi bạn đã thêm sự nhơn đức vào, hay bản tánh giống như Đấng Christ cho đức tin bạn thì sau đó bạn mới nên thêm tri thức. Đó là lý do tại sao chúng ta nhấn mạnh việc áp dụng lời Kinh thánh. Điều quan trọng là: “Đoạn Kinh thánh nầy nói gì? Điều đó nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa gì đối với bạn? Và bạn áp dụng phân đoạn Kinh thánh nầy vào các lãnh vực thực tiễn của đời sống bạn như thế nào?” Chính qua việc áp dụng Lời Chúa mà Kinh
thánh trở thành sức mạnh thuộc linh như đã được ấn định. Theo Phierơ, chúng ta phải thêm cho đức tin sự nhơn đức rồi mới thêm cho nhơn đức sự học thức.
Phierơ nói tiếp: “Thêm cho học thức sự tiết độ”, hay tiết chế. “Thêm cho tiết độ sự nhẫn nhục, thêm cho nhẫn nhục sự tin kính, thêm cho tin kính là sự tử tế đối với anh em và thêm cho sự tử tế đối với anh em là tình yêu vô điều kiện”. Những điều thêm vào cho đức tin nầy tiêu biểu cho một trong những phân đoạn Kinh thánh hay nhất về chủ đề tăng trưởng thuộc linh. Kế đến, nếu người theo Chúa kinh nghiệm những điều thêm vào nầy đối với đức tin thì chúng ta sẽ được những lời hứa sau: “Nếu anh em thêm những điều nầy vào đức tin mình thì, bởi ân điển của Đức Chúa Trời, anh em sẽ lớn lên về đời sống thuộc linh, anh em sẽ kết quả và hữu dụng. Anh em có thể sống một đời sống mạnh mẽ và tốt lành cho Chúa và điều đó sẽ chứng minh rằng anh em thuộc về những người được Chúa gọi. Anh em sẽ làm chosự kêu gọi và chọn lựa của mình trở nên chắc chắn. Anh em sẽ được vào thiên đàng và cho đến khi anh em vào đó, anh em sẽ không bao giờ vấp ngã”.
Phierơ viết những lời cuối cùng về sự khôn ngoan bằng một lời chứng cá nhân: “Tôi đã ở trên Núi Hóa Hình và tôi chứng kiến Đức Chúa Jêsus Christ biến hóa”. Về thực chất, Phierơ nói với chúng ta: “Dù tôi đã có được kinh nghiệm tốt nhất, tôi vẫn muốn nói với anh em đôi điều. Lời Chúa đến với chúng ta qua sự cảm ứng chắc chắn hơn Lời mà tôi nghe tại Núi Hóa Hình”.
Phierơ nói rằng chúng ta nên đến với Lời Chúa như Ánh Sáng chiếu soi trong nơi tối tăm. Khi chúng ta đạt đến sự sáng đó thì sẽ có một điều nào đó xảy ra trong lòng mình. Phierơ mô tả một cách đẹp đẽ: “Ban ngày sẽ lộ ra và Ngôi Sao Mai sẽ mọc trong lòng anh em”. Ngôi Sao Mai mọc trong lòng anh em là gì? Ngôi Sao Mai đó là Đức Chúa Jêsus phục sinh và đang sống. Một lần nữa Phierơ lại muốn nói với chúng ta về cách Đấng Christ được sanh ra trong chúng ta.
Thật thú vị khi cả Phierơ lẫn Phaolô đều đưa ra cho chúng ta những lời khuyên rất hay về Lời Đức Chúa Trời qua những dòng chữ cuối cùng họ gởi cho Hội thánh và thế giới. Phierơ viết những lời ấy trong chương đầu tiên bức thư thứ hai của ông còn Phaolô thì thì trong chương 3 của II Timôthê. Phaolô nói rằng Lời Đức Chúa Trời đã được linh cảm còn Phierơ thì nói những gì được linh cảm là Lời Đức Chúa Trời. Phierơ nói những người viết ra lời Kinh thánh được linh cảm đã được Đức Thánh Linh cảm động giống như gió làm cho con thuyền di chuyển trên mặt nước. Phierơ liên hệ lời ông viết ra về sự linh cảm của Kinh thánh với kinh nghiệm tái sanh.
Chương 2 của sách nầy rất giống với thư Giuđe, vì vậy chúng ta không dừng lại ở đây lâu. Giống như Giuđe, II Phierơ chương 2 là một lời nguyền rủa các giáo sư giả. Trong chương 3, Phierơ viết về “Ngày của Chúa”.
“Ngày của Chúa” là một trong hàng loạt biến cố có liên quan chung đến “Sự Hiện Đến Lần Thứ Hai Của Đức Chúa Jêsus Christ”. Sự hiện đến lần thứ hai của Chúa Jêsus không phải là một biến cố nhưng là hàng loạt biến cố, gồm cả việc Hội thánh được cất lên, Cơn Đại Nạn, vương quốc của Đức Chúa Trời trên đất và sự sống lại. Nhưng biến cố sau cùng trong số đó được gọi là “Sự Hiện Đến Lần Thứ Hai Của Đức Chúa Jêsus Christ”, tức là “Ngày của Chúa”.
“Ngày của Chúa” là một biến động được nhiều tiên tri nhắc đến và gồm cả sự tiêu hủy mọi công trình trên đất. Chúa Jêsus phán: “Trời đất sẽ qua đi”. Phierơ nói rõ ràng rằng cả trời đất đều bị hủy phá. Chúng sẽ bị tan chảy bởi sức nóng khủng khiếp.
Sau vụ Hiroshima và Nagasaki (bị bom hạt nhân tàn phá), chúng ta biết rằng con người có thể làm được điều mà Phierơ và các tiên tri đã báo trước. Đức Chúa Trời đã hủy diệt thế gian bằng nước và bây giờ thế gian lại phải dành cho lửa. Theo Phierơ, điều đó sẽ xảy ra như lời các tiên tri đã nói.
Chúng ta không được nghĩ Chúa Jêsus chưa trở lại vì thời điểm tùy thuộc nơi Đức Chúa Trời. Vậy thì tại sao Ngài chờ đợi? Lý do duy nhất khiến Đấng Christ chưa trở lại và bắt đầu chuỗi biến cố nầy dẫn đến cực điểm trong “Ngày của Chúa” là vì Đức Chúa Trời muốn Tin Lành được rao giảng cho tất cả những người hư mất trên thế gian. Ngài không muốn cho một ai bị chết mất. Vì yêu thương con người nên Ngài muốn ban thêm cơ hội để họ được cứu rỗi.
Phierơ nói rằng “Ngày Của Chúa” có thể mau đến nếu chúng ta làm chứng cho Ngài và rao giảng Tin Lành cho những người chưa được cứu. Chúng ta nên tự hỏi, khi xem xét lời mô tả kinh khủng nầy về Sự Hiện Đến Lần Thứ Hai Của Đức Chúa Jêsus Christ thì: Chúng ta phải sống thế nào bởi tất cả những điều nầy rồi sẽ bị hủy hoại?
Chương 11:THƯ GIĂNG THỨ NHẤT
Tôi gọi 16 câu đầu của thứ Giăng thứ nhất là “Chiếc la bàn bảo đảm”. Bảo đảm là chủ đề của cả bức thư nầy. Bạn có sự bảo đảm chắc chắn là tội lỗi bạn đã được tha và nếu hôm nay bạn từ giã cuộc đời nầy thì sẽ được vào thiên đàng không? Nếu chưa có sự bảo đảm đó thì bạn nên đọc bức thư nầy.
Tác giả thư nầy, cũng là tác giả của sách Khải huyền và hai bức thư ngắn khác mang tên ông, luôn nói với chúng ta lý do khiến ông viết thư Giăng thứ nhất. Ông viết Phúc Âm Giăng hầu cho chúng ta tin và có sự sống đời đời. Ông viết thư nầy cho những người tin để họ có thể biết và tin chắc. Nói cách khác, ông viết thư nầy cho những người đang tìm kiếm sự bảo đảm cho sự cứu rỗi của họ. Nếu bạn chưa được bảo đảm về phương diện thuộc linh và chưa có bảo đảm chắc chắn cho sự cứu rỗi của mình thì ý Giăng muốn nói: “Tôi viết điều nầy cho bạn” (Giăng 20:30,31; I Giăng 5:13).
“Nếu một người không biết và cũng chẳng hiểu là mình không biết thì đó là kẻ ngu. Hãy lánh xa hắn. Nếu một người không biết và hiểu rằng mình không biết thì đó là trẻ con. Hãy dạy người ấy. Nếu một người biết mà lại không hiểu là mình biết thì đó là người đang ngủ. Hãy đánh thức người ấy dậy. Nhưng nếu một người biết và hiểu rằng mình biết thì người ấy là lãnh đạo. Hãy theo người”. Giăng có ý muốn viết thư nầy là cho những người biết rằng họ biết mình có sự cứu rỗi.
Mười sáu câu đầu của I Giăng, cũng giống như Phúc Âm Giăng, đưa ra cho chúng ta một cái nhìn bao quát về điều Giăng sắp sửa nói ra. Tất cả chúng ta đều cần chiếc la bàn thuộc linh. Chúng ta sẽ khám phá ra Chiếc La Bàn Đáng Tin trong bức thư về sự bảo đảm đã được linh cảm nầy. Cũng như chiếc la bàn có tám điểm, ở đây tôi cũng khám phá ra tám điểm trên Chiếc La Bàn Bảo Đảm của sứ đồ Giăng: Điểm thứ nhất trên đó là những sự kiện về Phúc Âm.
Giăng nói rằng đức tin dựa trên các sự kiện. Đức tin không phải là bước đi trong bóng tối hay được biến đổi thình lình dưới ánh sáng. Khi học trong chương sách đức tin của Kinh thánh, chúng ta thấy đức tin được đặt trên bằng chứng. Đức tin là thực thể của niềm hy vọng. Đó là sự khác biệt giữa hy vọng và đức tin. Nếu không có bằng chứng căn bản cho niềm hy vọng thì tất cả những gì chúng ta có thể làm đó là chỉ hy vọng thôi. Nhưng đức tin luôn được xây dựng trên nền tảng có bằng chứng hẳn hoi.
Khi mở đầu thư nầy Giăng có ý muốn viết về sự phục sinh của Đấng Christ bằng việc nói cách khái quát với độc giả của mình: “Hãy nghe đây, chúng tôi là những người chứng kiến tận mắt và đã thực sự thấy Ngài rất gần. Chúng tôi đã đặt ngón tay mình lên các dấu đinh trên bàn tay Ngài; đặt tay mình trên sườn Ngài. Đức tin của chúng tôi nơi Đấng Christ phục
sinh được đặt nền tảng trên các sự kiện”.
Khi bạn so sánh các sách Tin Lành Giăng và các sách khác trong Tân ước, có hai sự kiện Phúc Âm nổi bật: sự chết của Chúa Jêsus và sự phục sinh của Ngài. Về cơ bản, Phaolô viết cho tín hữu Côrinhtô: “Đức Chúa Jêsus Christ đã chết vì tội chúng ta, theo lời Kinh thánh; Ngài đã sống lại từ cõi chết, theo lời Kinh thánh. Đó chính là Tin Lành. Đó là điều tôi đã dạy anh em tại thành Côrinhtô. Đó là điều anh em tin và nhờ đó anh em được cứu” (I Côrinhtô 15:1-4).
Điểm kế tiếp trên “Chiếc La Bàn Bảo Đảm” là đức tin. Bạn phải đặt đức tin vào hai sự kiện đó của Phúc Âm. Điểm thứ hai là đức tin nơi các sự kiện. Điểm thứ ba là kết quả của việc đặt đức tin nơi sự chết của Chúa Jêsus, là điểm tạo nên tất cả sự khác biệt trên thế gian! Tội lỗi bạn đã được tha!
Điều Giăng muốn gây dựng cho chúng ta ở đây trong Chiếc La Bàn Bảo Đảm nầy đơn giản là: Nếu bạn thực sự có đức tin nơi sự chết của Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá thì tội lỗi bạn sẽ được tha thứ. Kết quả của việc đặt đức tin nơi sự chết của Đức Chúa Jêsus Christ là sự tha thứ. Điều tôi muốn nói ở đây là sự tha thứ trọn vẹn.
Trong tiếng Hy Lạp, thì hiện tại nói về một thời điểm liên tục. Bởi vậy, đôi lúc gặp thì hiện tại thì bạn có thể xen vào chữ “tiếp tục” (continuously). “Nếu chúng ta tiếp tục xưng nhận tội mình, Ngài sẽ tiếp tục tẩy sạch tội chúng ta. Ngay tức khắc huyết Đấng Christ tiếp tục tẩy sạch chúng ta khỏi mọi điều bất chính”. Tha thứ là kết quả của đức tin nơi sự chết của Đức Chúa Jêsus Christ.
Điểm kế tiếp trên chiếc la bàn bảo đảm là kết quả của đức tin nơi sự phục sinh của Đấng Christ.Bạn có thể biết Ngài và bước vào mối thông công với Đấng Christ hằng sống.
Thông công có nghĩa đại khái như đồng hội đồng thuyền. Như Đức Chúa Jêsus bước vào con tàu nhỏ bé của Phierơ và đổ đầy cá vào đó, Ngài có thể bước vào con tàu của bạn đời sống bạn – và ở với bạn. Điều đó có nghĩa là mọi tài nguyên của Ngài là của bạn. Nếu bạn ở trong mối thông công với Ngài thì mọi điều bạn có cũng là của Ngài. Thông công là điểm thứ tư trên Chiếc La Bàn Bảo Đảm.
Điểm thứ năm trên Chiếc La Bàn Bảo Đảm là bước theo Đấng Christ. Khi người ta nói chuyện với Chúa Jêsus thì họ tin Ngài, Ngài thường phán: “Hãy theo Ta!” Giăng muốn nói đi nói lại: “Chúng ta biết mình ở trong Ngài vì chúng ta giữ điều răn Ngài và làm theo mọi điều Ngài truyền dạy chúng ta” (2:6). Đó là cách để chúng ta biết mình có đức tin thật và có sự sống đời đời.
Sau khi theo Chúa, điểm tiếp theo trên chiếc la bàn là tự do. Trong nhiều chữ giống như vậy, Chúa Jêsus đã nói trong Tin Lành Giăng chương 8 rằng: “Nếu các ngươi hằng ở trong đạo Ta thì thật là môn đồ Ta”. Theo Chúa, hay thông qua việc làm môn đồ rồi phát triển đức tin. Nhưng khi mô tả về việc làm môn đồ, Chúa Jêsus phán: “Nếu các ngươi hằng ở trong đạo Ta (Ngài không nói bao lâu), các ngươi sẽ biết lẽ thật (và chữ Ngài dùng ở đây có nghĩa là “biết qua mối thông công”) và khi các ngươi biết lẽ thật thì lẽ thật sẽ cho các ngươi được tự do” (Giăng 830-35).
Giăng nói: “Ta viết những điều nầy cho các con hầu cho các con không phạm tội. Nếu các con phạm tội thì tin vui đó là các con có Đấng Cầu Thay bên Đức Chúa Cha và tội lỗi các con sẽ được tha thứ. Nhưng Ta viết những điều nầy cho các con để các con không phạm tội” (I Giăng 2:1). Bạn thấy đó, được tự do khỏi tội lỗi là điều có thể xảy ra.
Một điểm khác nữa trên Chiếc La Bàn Bảo Đảm là điều chúng ta có thể gọi là “sự đầy dẫy”. Trong 1:4, Giăng nói: “Ta viết cho các con để niềm vui của các con được đầy dẫy”.Những gì chúng ta có là thật và tốt nhưng còn hơn thế nữa. Giăng muốn chúng ta kinh nghiệm trọn vẹn. Chúng ta có thể gọi đó là “sự đầy dẫy”.
Tôi gọi điểm thứ tám trên Chiếc La Bàn Bảo Đảm là kết quả. Chúa Jêsus cho các môn đồ biết cách để họ kết nhiều quả vì Ngài muốn niềm vui của họ được trọn vẹn (Giăng 15:11). Giăng tin rằng kết quả nào đó cho Đức Chúa Trời qua kinh nghiệm của chúng ta với Đấng Christ, sẽ đem đến sự bảo đảm cho cuộc hành trình thuộc linh của chúng ta.
Đối với kinh nghiệm thuộc linh, cũng như mọi thứ khác, chúng ta thường theo cách suy nghĩ lấy mình làm trung tâm. Qua việc đó tôi được gì? Nhưng khi chúng ta xem sự qui đạo của Saulơ người Tạtsơ, chúng ta thật sự trưởng thành khi đưa ra câu hỏi nầy: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì cho Ngài?” Khi Chúa trả lời cho chúng ta thì Kinh thánh gọi đó là “kết nhiều quả”.
Để kết luận, tám điểm trên Chiếc La Bàn Bảo Đảm là: sự kiện, đức tin, tha thứ, thông công, bước theo, tự do, đầy dẫy và kết quả. Nếu bạn thấy mình chưa kết quả, hay chưa được đầy dẫy thì hãy quay lại điểm khởi đầu của chiếc la bàn và kiểm lại tám điểm trên la bàn của bạn một lần nữa.
Chương 12:SỰ XỨC DẦU BẢO ĐẢM
Trong chương 2, Giăng nói tiếp cho chúng ta cách có thể biết mình tin và có sự sống đời đời. Ông nói rằng chúng ta có thể biết mình tin khi chúng ta yêu mến anh em mình. Giăng viết: “Ai yêu mến anh em mình thì người ấy ở trong Đấng Christ. Đó là một tín hữu thật. Nhưng hễ ai không yêu mến anh em mình thì còn ở trong sự tối tăm”.
Kế đến ông nói rằng nếu chúng ta yêu mến Đức Chúa Cha hơn thế gian thì chúng ta mới biết mình có đức tin thật và có sự sống đời đời. Tại đây Giăng liên tưởng đến qui tắc của thế gian. Thế gian có một hệ thống niềm tin gồm những giá trị thế tục, lối sống và tư tưởng. Ý Giăng muốn nói rằng nếu chúng ta sống cho thế gian nầy và yêu mến nó thì chúng ta không yêu mến Đức Chúa Trời được.
Giăng đưa ra nhiều phương cách nữa để chúng ta xác quyết sự bảo đảm của mình. Trong chương 2 ông nói: “Chúng ta biết rằng mình biết vì Đức Thánh Linh giữ chúng ta trong niềm tin thuần khiết”. Ở đây có một ý mà Giăng thực sự muốn nói, đó là “Bạn biết rằng bạn biết bởi vì bạn biết”.
Trong câu 20, ông nói với chúng ta rằng: “Anh em được được Đức Thánh Linh xức dầu và anh em biết mọi sự”. Kế đến trong câu 27 ý ông muốn nói: “Sự xức dầu nầy anh em có, là sự xức dầu anh em từng tiếp nhận đã dạy dỗ anh em”. Để diễn giải và tóm tắt, Giăng nói: “Sự xức dầu nầy có thể dạy dỗ anh em. Và khi sự xức dầu mà anh em đang có dạy anh em những vấn đề thuộc linh, anh em có một lời xác nhận khác về đức tin và sự sống đời đời của anh em. Anh em sẽ không biết những vấn đề mà sự xức dầu dạy dỗ mình nếu anh em không có sự sống đời đời. Nếu Đức Thánh Linh đang sống trong anh em và dạy dỗ anh em thì lúc ấy anh em khám phá ra một bí quyết khác bảo đảm cho đức tin và sự sống đời đời của mình”.
Một trong những trách nhiệm của Đấng Xức Dầu đang sống trong chúng ta đó là dạy chúng ta lẽ thật thuộc linh. Hóa ra nền tảng giáo lý về mối thông công trong Hội thánh Tân ước rất chuẩn mực. Phaolô viết: “Nếu không bởi Đức Thánh Linh thì chẳng ai xưng Đức Chúa Jêsus là Chúa”. Giăng bảo rằng đây là bài trắc nghiệm thuộc linh vì qua đó chúng ta có thể kiểm chứng một người: Bạn có tin rằng Chúa Jêsus là Đấng Christ không? Đó là câu hỏi thích hợp để khi cần, bạn có thể hỏi để biết một người đang đặt niềm tin của họ vào đâu.
Khi hỏi câu hỏi trên, có người đã trả lời tôi rằng: “Ngài không phải là Đấng Christ. Có một vài đặc điểm của Đấng Christ trong Ngài, nhưng đức Phật hay Gandhi cũng có các đặc điểm đó. Nhiều người có Christ trong họ, nhưng Chúa Jêsus không phải là Đấng Christ”. Giăng nói rằng nếu chúng ta nói Chúa Jêsus không phải là Đấng Christ thì chúng ta nghịch lại Đấng Christ và chúng ta là kẻ nói dối vì Chúa Jêsus chính là Đấng Christ (I Giăng 2:22).
Trong chương 3, Giăng nói với chúng ta rằng có hai hạng người trên thế gian nầy. Chúng ta có con cái Đức Chúa Trời và con cái ma quỉ. Giăng nói rằng nếu có ai nói khác đi thì chẳng qua do người ấy quá đơn sơ thôi. Trong chương 3, Giăng nói như thế nầy: “Ai phạm tội là con cái của ma quỉ”. Con cái ma quỉ phạm tội một cách rõ ràng, thường xuyên và liên tục. Chính công việc của họ là phạm tội. Nhưng con cái Đức Chúa Trời thì không có thói quen phạm tội. Con cái Đức Chúa Trời không tạo nên thói quen phạm tội. Gương mẫu của họ không phải là gương phạm tội liên tục hay phạm tội theo thói quen.
Khi tôi đọc chương một, thì hiện tại trong tiếng Hy Lạp tiêu biểu cho thời gian liên tục. Giăng không có ý nói rằng con cái Đức Chúa Trời không thể phạm tội, hay họ sẽ chẳng bao giờ phạm tội. Ông có ý nói rằng khi họ phạm tội, họ rơi vào tội lỗi. Tội lỗi không phải là điều tự nhiên đối với họ. Con cái ma quỉ thì có thói quen phạm tội và phạm tội liên tục. Con cái Đức Chúa Trời thì không giống như vậy. Khi biết được chuẩn mực của đời sống chúng ta đã thay đổi đột ngột và chuẩn mực đó không phải để phạm tội thì chúng ta biết rằng mình tin và có sự sống đời đời.
Ở phần cuối của chương 3, Giăng viết một phân đoạn quan trọng khác về sự bảo đảm. Khi bạn ngã lòng, hay như Giăng viết ở đây: “Khi lòng bạn xét đoán bạn”, có phải vì cảm giác đó mà bạn bị hư mất không? Hoặc khi lòng bạn không đoán xét bạn thì điều đó có bảo đảm sự sống đời đời cho bạn không? Không! Khi lòng bạn đoán xét bạn thì hãy nhớ điều nầy:Đức Chúa Trời còn lớn hơn lòng bạn nữa. Đức Chúa Trời lớn hơn cảm giác của bạn rất nhiều. Sự cứu rỗi của bạn không dựa trên điều hay thay đổi như bạn cảm nhận. Sự cứu rỗi đó dựa trên thực tế chắc chắn đó là bạn tin và vâng lời Chúa (3:19-22).
Chương 13:SỰ XƯNG TỘI ĐƯỢC XÁC NHẬN
Trong những câu mở đầu chương 4, Giăng cho chúng ta biết cách thử các thần. Ông cảnh báo chúng ta rằng có nhiều thần giả dối trên thế gian nầy và chỉ cho chúng ta cách nhận biết sự khác biệt giữa các thần thiện lành và thần của ma quỉ: “Phàm thần nào xưng Đức Chúa Jêsus Christ lấy xác thịt mà ra đời, thần đó là bởi Đức Chúa Trời; còn thần nào không xưng Đức Chúa Jêsus, chẳng phải bởi Đức Chúa Trời. Đó là thần của Kẻ địch lại Đấng Christ”.
Làm sao để một thần xưng nhận rằng Đức Chúa Jêsus lấy xác thịt mà ra đời? Vị sứ đồ của tình yêu đã trả lời cho câu hỏi nầy. Khi chúng ta yêu mến nhau là chúng ta đang xưng nhận Đức Chúa Jêsus lấy xác thịt mà ra đời. Bằng cách nầy, Giăng muốn nói với chúng ta rằng khi chúng ta kinh nghiệm Thánh Linh của Đấng Christ yêu thương bên trong và qua xác thịt của con người chúng ta, chúng ta sẽ khám phá ra một phương cách khác để nhận biết mình có đức tin và có sự sống đời đời. Cả Giăng và Phaolô đều đồng ý với nhau rằng bông trái của Thánh Linh là tình yêu thương (Galati 5:22,23).
Kế đến, ông đưa ra mười lý do tại sao chúng ta phải yêu mến nhau (4:7-21). Trước hết, chúng ta phải yêu mến nhau vì tình yêu thương đến từ Đức Chúa Trời. Chỉ những ai có tâm linh xưng nhận tình yêu của Đấng Christ thì người ấy mới có thể yêu thương được vì tình yêu chân thật đến từ Đức Chúa Trời.
Chúng ta phải yêu thương vì đây là cách bạn có thể biểu lộ mình là môn đồ thật của Đấng Christ giữa những người chỉ xưng mình là môn đệ của Ngài: kẻ nào yêu thì sanh bởi Đức Chúa Trời. Ai không yêu thì không sanh bởi Đức Chúa Trời. Đó là cách đơn giản nhất để thử các thần.
Lý do thứ ba Giăng đưa ra cho biết vì sao chúng ta phải yêu thương được tìm thấy trong chương 4, câu 8. Chúng ta phải yêu thương vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương. Bản chất của Đức Chúa Trời là yêu thương. Tình yêu là bản chất của Ngài. Nếu bạn nói rằng mình sanh bởi Đức Chúa Trời thì sự nhận diện ra bạn phải là tình yêu.
Trong các câu 10 và 11, Giăng nói chúng ta phải yêu thương vì chúng ta đã được ban cho gương mẫu vĩ đại của tình yêu. Giăng chỉ vào Đức Chúa Jêsus Christ, Đấng chịu chết trên thập tự giá, rồi nói: “Đó là tình yêu… vì Ngài yêu chúng ta như thế nên chúng ta cũng phải yêu mến nhau”. Cho nên, bằng cớ tỏ ra bạn đang sống theo Phúc Âm đó là bạn yêu bằng tình yêu vô điều kiện.
Trong câu 16, Giăng viết: “Đức Chúa Trời tức là sự yêu thương, ai ở trong sự yêu thương, là ở trong Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời ở trong người ấy”. Hãy biết rằng Đức Chúa Trời luôn ở quanh bạn, như một Đức Chúa Trời yêu thương, là Đấng yêu thương những người chịu đau khổ thông qua bạn. Tình yêu là bản chất của Đức Chúa Trời. Bởi vậy, nếu bạn bước đi trong sự yêu thương như Đức Chúa Trời thì bạn sẽ ở trong Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời ở trong bạn. Tôi tin rằng khi điều đó xảy đến thì bạn sẽ tìm thấy một phương cách khác để biết rằng bạn tin và có sự sống đời đời.
Trong chương 4 câu 17, Giăng nói rằng chúng ta phải yêu mến nhau, vì khi thực hiện điều đó thì trong cõi đời đời, chúng ta sẽ không run sợ khi bị đoán xét. Khi nghĩ đến sự phán xét,bạn có nghĩ rằng mình sẽ dạn dĩ đến gần ngai phán xét của Đấng Christ không? Giăng nói rằng nếu chúng ta yêu thương đúng như điều đáng phải có, thì chúng ta sẽ dạn dĩ đến gần ngai phán xét.
Giăng cũng viết trong câu 17 rằng chúng ta cần phải yêu thương vì “Chúa thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian nầy”. Chúng ta mang bản chất của Đấng Christ trong thế gian nầy. Nếu Đấng Christ sống trong chúng ta và tình yêu vô điều kiện nầy tự biểu lộ và bày tỏ qua chúng ta thì điều nầy sẽ là sự thật: “Chúa thể nào thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian nầy”.
Trong I Giăng 4:18 Giăng nói rằng chúng ta phải yêu mến nhau vì “Tình yêu trọn vẹn cất bỏ sự sợ hãi”. Nếu bạn yêu một cách trọn vẹn thì sự sợ hãi sẽ bị cất bỏ. Khi bạn hiểu được
tình yêu của Đấng Christ, và đặc biệt là điều đó có ý nghĩa thế nào đối với tình yêu bạn dành Chúa và cho anh em mình, thì bạn sẽ hiểu được tình yêu trọn vẹn cất bỏ sự sợ hãi bằng cách nào. Chúng ta sợ đánh mất sự sống và tất cả những gì mình có. Nếu yêu Chúa cách trọn vẹn thì chúng ta từ bỏ sự sống mình vì Chúa và hiến dâng mọi sự cho Ngài. Vậy chúng ta còn sợ gì nữa?
Kế đến, Giăng nói với chúng ta trong chương 4 câu 20 rằng chúng ta phải yêu mến nhau vì tình yêu theo chiều thẳng đứng dành cho Chúa và tình yêu theo chiều ngang dành cho anh em mình không thể tách rời nhau được. Người nào nói rằng mình yêu Đức Chúa Trời mà lại ghét anh em mình là kẻ nói dối. Chúng ta phải yêu mến nhau vì ai yêu Đức Chúa Trời thì
cũng phải yêu anh em mình.
Lý do thứ mười cho biết tại sao chúng ta phải yêu mến nhau được Giăng đưa ra dưới hình thức một điều răn: “Chúng ta đã nhận nơi Ngài điều răn nầy: Ai yêu Đức Chúa Trời, thì cũng phải yêu anh em mình”. Có một ý nghĩa nằm trong lý do thứ mười mà Giăng đưa ra cho biết vì sao chúng ta phải yêu mến nhau nên được xem là lý do duy nhất mà ông cần nhắc đến: Chúa Jêsus đã truyền dạy rằng chúng ta phải yêu mến nhau.
Trong chương 5, Giăng nói rằng đức tin là chìa khóa cho sự bảo đảm của chúng ta, ông viết: “Đức tin là sự thắng hơn thế gian”. Chúng ta thắng hơn thế gian nhờ đức tin. Và nếu chúng ta đã có đức tin đắc thắng nầy, thì đó là một lời khẳng định khác nữa về sự bảo đảm của mình.
Trong chương 5, Giăng nói rằng qua kinh nghiệm có ba lời chứng đem đến cho chúng ta sự bảo đảm. Khi đề cập tới nước, có lẽ Giăng liên hệ đến phép báp têm bằng nước. Thực chất của phép báp têm bằng nước là khiến cho một người không còn làm môn đồ bí mật của Chúa Jêsus nữa.
THƯ GIĂNG II & III
Thư Giăng II & III nhấn mạnh đến lẽ thật mà Đức Chúa Jêsus Christ đã dạy. Qua Giăng II & III, Giăng nói như một nhà thần học vì ông đề cập đến lẽ thật Đức Chúa Jêsus đã dạy và chúng ta đứng vững trong sự trung thành với lẽ thật đó. Đối với ông, chẳng có niềm vui nào lớn hơn niềm vui về những con cái bé mọn của mình bước đi trong lẽ thật mà Đức Chúa Jêsus đã dạy. Khi Giăng viết các bức thư ngắn ngủi nầy thì lẽ thật đó đã bị bóp méo và xuyên tạc.
Vị sứ đồ của tình yêu khuyên những người lãnh đạo đang đọc thư ông là hãy nghiêm khắc với những người không dạy đúng theo những gì mà Đức Chúa Jêsus đã dạy. Tà giáo, hay sự xuyên tạc những lời dạy dỗ của Chúa Jêsus, xuất hiện rất sớm trong lịch sử Hội thánh vì qua các bức thư nhỏ nầy bạn sẽ nghe ông nói: “Nếu người nào không tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, nếu họ không đáp ứng được bài kiểm tra về tín lý thì ngay cả việc dùng bữa cũng đừng mời họ. Thậm chí không được chúc phước cho họ. Đừng liên hệ gì với họ hết”.
Khi viết các bức thư nầy, Giăng đề tựa cho bức thư thứ hai của ông là “gởi bà được chọn”. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì đây là bức thư duy nhất trong cả Kinh thánh gởi cho một phụ nữ. Hình như Giăng có mối thông công trong chức vụ với người phụ nữ được chọn nầy.
Nhưng Giăng cũng gặp khó khăn với một số người, như Điôtrép, theo Giăng thì ông ấy là “người ưng đứng đầu”. Ông mô tả nhân vật nầy trong câu 9 và 10 của thư Giăng thứ ba. Các mục sư ngày nay tìm được sự an ủi qua việc vị sứ đồ trưởng lão yêu dấu là Giăng từng có một người trong Hội thánh của ông không ngừng làm cho ông phải đau đớn.
Chương 14:THƯ GIUĐE
Trong bức thư được linh cảm của Giuđe, chúng ta tìm thấy một cuốn sách chỉ có một chương nhưng lại rất giống với chương thứ hai của II Phierơ. Đối tượng của bức thư ngắn ngủi nầy là những người theo tà giáo, hay các giáo sư giả. Tác giả của bức thư nầy là một người có tên Giuđa. Các học giả kết luận rằng người nầy là anh em về phần xác với Đức Chúa Jêsus.
Giuđe nói với chúng ta rằng ông dự tính viết một bài luận thuyết về đề tài cứu rỗi, nhưng ông đã thay đổi ý định vì có một số người giảng dạy những giáo lý sai trật. Họ dạy rằng vì Đức Chúa Trời là Đấng nhân từ nên Ngài không bao giờ sửa phạt con cái Ngài. Giuđe lo lắng về những người dường như đã chối bỏ đức tin vì họ nghe và tin sự dạy dỗ sai lạc nầy.
Giuđe tập trung vào chương 14 của sách Dân số ký, trong đó chúng ta đọc thấy rằng cả một thế hệ của tuyển dân Đức Chúa Trời đã ngã chết trong đồng vắng. Họ đi lòng vòng trong suốt 40 năm vì không có đức tin để chiếm xứ Canaan. Đức Chúa Trời cho phép hai ngoại lệ. Calép và Giôsuê được vào đất Canaan vì họ hết lòng tin cậy và sống theo ý Chúa.
Giuđe nhắc nhở các giáo sư giả về cái chết của thế hệ đó. Các giáo sư giả nầy nói với dân sự rằng họ có thể làm gì tùy thích và Đức Chúa Trời sẽ chẳng quan tâm gì đến điều đó cả, cứ như thể Đức Chúa Trời như là một ông cụ già nào đó vậy. Thánh Kinh dạy chúng ta rằng ngoài đặc tính yêu thương của Đức Chúa Trời còn có một phương diện khác – đó là cơn giận
và sự đoán xét – vì Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết.
Một ví dụ khác mà Giuđe đưa ra là về sự sa ngã của các thiên sứ. Giuđe viết rằng các thiên sứ sa ngã bị ném xuống tận vực sâu không đáy. Đức Chúa Trời không ngồi yên và nhìn các thiên sứ không chịu làm theo ý muốn Ngài mà chẳng làm một điều gì đối với họ hết.
Ví dụ thứ ba mà Giuđe đưa ra là về hai thành phố Sôđôm và Gômôrơ – thể nào hai thành phố nầy đã bị hủy diệt bằng lửa và diêm sinh. Giuđe có ý nhấn mạnh đến sự đoán xét của Đức Chúa Trời qua các ví dụ nầy và ông muốn chia sẻ cho các giáo sư giả và những người tin theo sự giảng dạy sai lạc của các giáo sư ấy.
Giuđe nói cho chúng ta biết rằng các giáo sư giả giống như “bọt nước dơ bẩn dọc theo bờ biển do các lượn sóng hỗn độn để lại”. Họ giống như “các ngôi sao đi lạc lao vào chốn tối tăm mà Đức Chúa Trời đã dành cho chúng”. Số phận của các ngôi sao đi lạc cũng giống như số phận các thiên sứ sa ngã.
Giuđe rất lo lắng cho những người là nạn nhân của giảng dạy sai lạc nầy. Ông viết rằng chúng ta phải cố gắng phục hồi những người nầy. Chúng ta nên cố gắng đem họ ra khỏi lửa mà không làm bỏng chính mình.
Giuđe kết luận bức thư của ông bằng những lời khích lệ dành cho những người mới được phục hồi. Đây là những lời khuyên rõ ràng và thực tế về việc sống ngay thật trong đức tin. Tôi rất thích những lời khuyên nầy của Giuđe. Giuđe nói: “Hãy học cách cầu nguyện trong sức mạnh và quyền năng của Đức Thánh Linh”. Và kế đến, tôi thích câu nầy: “Hãy giữ mình trong phạm vi mà tình yêu Đức Chúa Trời có thể chạm đến và ban ơn lành trên anh em”.
Qua nhiều thế kỷ, các vị mục sư đã dùng lời cầu nguyện tạ ơn kết thúc bức thư Giuđe để kết thúc buổi nhóm: “Vả, nguyền Đấng có thể gìn giữ anh em khỏi vấp phạm và khiến anh em đứng trước mặt vinh hiển mình cách rất vui mừng, không chỗ trách được, là Đức Chúa Trời có một, là Cứu Chúa chúng ta, bởi Đức Chúa Jêsus Christ là Chúa chúng ta, được sự vinh hiển, tôn trọng, thế lực, quyền năng thuộc về Ngài từ trước vô cùng và hiện nay cho đến đời đời! A-men”.
Chương 15:SÁCH KHẢI HUYỀN
Qua những câu mở đầu của sách Khải huyền, chúng ta đọc thấy sứ đồ Giăng đang ở trên đảo Bátmô vì cớ đức tin của ông. So sánh Thánh Kinh với lời truyền khẩu, chúng ta kết luận rằng Giăng bị đày ra hòn đảo hoang vắng nầy. Các học giả không đồng ý với nhau là ông ở đó một mình hay sống tại đó như một lao công nô lệ. Trong lúc sống tại đó, ông đã kinh nghiệm sự khải thị của Đức Chúa Jêsus Christ. Chữ “khải thị” có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp “apocalypses”, nghĩa là “vén màn”.
Ngôn Ngữ Tượng Trưng Của Chúa Cứu Thế
Sự khải thị nầy được “tỏ ra” cho Giăng, nghĩa là nó được ban cho Giăng trong “ngôn ngữ tượng trưng”. Người Do Thái có một “ngôn ngữ tượng trưng” rất hay trong Kinh thánh và chúng ta sẽ thấy ngôn ngữ đó được minh chứng qua sách Khải huyền. Bạn nên nhớ rằng chữ “tượng trưng” là một trong những từ đặc biệt của Giăng (Giăng 20:30,31; 2:11; 21:25). Trong sách Khải huyền, những biểu tượng, hay những điều tượng trưng nầy, là những điều tượng trưng về Kinh thánh. Bạn sẽ tìm gặp những điều tượng trưng nầy tại một nơi khác trong Kinh thánh, và nếu bạn tìm gặp chúng và hiểu được ý nghĩa của chúng tại nơi ấy thì điều đó sẽ giúp bạn hiểu được những điều tượng trưng đó mang ý nghĩa gì trong sách Khải huyền.
Khi nghiên cứu sách Khải huyền, bạn hãy lập một biểu đồ cho riêng mình. Vì bạn phải cần đến nhiều trang cho biểu đồ nầy nên tôi đề nghị bạn dùng một cuốn sổ tay lớn có nhiều trang. Hãy kẻ những đường dọc trên biểu đồ nầy để tạo ra nhiều cột. Ở cột thứ nhất của biểu đồ nầy, hãy ghi chữ “Tượng trưng”. Liệt kê những điều tượng trưng hay biểu tượng tìm được trong sách ở cột thứ nhất – chẳng hạn: con ngựa trắng, biển pha lê, bốn con thú, bảy chơn đèn…
Trong cột thứ hai, hãy ghi trên đầu cột “Sự Khải thị cá nhân”. Hãy cầu xin Đức Thánh Linh vén bức màn và chỉ cho bạn thấy những điều tượng trưng đó có nghĩa gì. Sau đó hãy ghi sự khải thị cá nhân đó vào cột thứ hai.
Ngay trên đỉnh của cột thứ ba, hãy ghi: “Thánh Kinh đối chiếu”, và hãy liệt kê trong cột đó điều tượng trưng đặc biệt nầy được tìm thấy tại một nơi khác trong Kinh thánh. Nếu bạn có cơ hội sử dụng vài cuốn chú giải Kinh thánh tốt, hãy ghi trong cột kế tiếp bản chú giải đó cho bạn thấy mỗi điều tượng trưng mang ý nghĩa gì.
Sau đó, trong cột cuối của biểu đồ, hãy ghi ra kết luận sau cùng của bạn. Nếu bạn thực hiện nhiệm vụ nầy một cách hoàn hảo, bạn sẽ có một biểu đồ 150 trang của sách Khải huyền.
Chìa Khóa Để Mở Sách Khải Huyền
Khi bạn đã hiểu rõ giá trị của ngôn ngữ tượng trưng rất hay của sự khải thị được ban cho Giăng, bạn sẽ nhận ra rằng hầu như đây là cuốn sách được Đức Chúa Trời viết cho dân sự Ngài bằng mật mã. Cũng như bất kỳ bức thông điệp nào đã được mã hóa, để hiểu được nó, bạn cần phải có chìa khóa để giải mã.
Chìa Khóa Thứ Nhất
Chìa khóa thứ nhất là Đức Thánh Linh. Nếu không có Đức Thánh Linh thì bạn không thể nào hiểu được những điều thuộc linh. Điều đó rất đúng, đặc biệt là khi bạn đọc sách Khải huyền. Chúa Jêsus nói với các môn đồ rằng Ngài sẽ ban Đức Thánh Linh cho họ, Đấng mà Ngài gọi là Đấng Yên Ủi, và Đấng ấy sẽ nói cho họ biết những việc hầu đến.
Chìa Khóa Thứ Hai
Chìa khóa thứ hai để mở bức thông điệp được mã hóa nầy là những biểu tượng, hay những điều tượng trưng, là những biểu tượng trong Kinh thánh. Nếu bạn là người Do Thái, bạn biết rõ Cựu ước thì những điều tượng trưng nầy không có gì xa lạ đối với bạn. Chẳng hạn, trong chương 4, cửa trên trời mở ra và bạn thấy một người ngồi trên ngai. Người ấy trông như bích ngọc và mã não, và chung quanh ngai Ngài đang ngồi có một chiếc cầu vồng giống như lục bửu thạch.
Một người Do Thái sẽ biết rằng trong Xuất Êdíptô ký chương 28, thầy tế lễ tối cao phải mặc một chiếc áo che ngực trên có đính 12 viên ngọc tượng trưng cho 12 chi phái Ysơraên.
Viên ngọc thứ nhất bằng mã não. Viên ngọc đó tượng trưng chi phái lớn nhất của Ysơraên là chi phái Rubên. Viên ngọc cuối cùng bằng bích ngọc. Viên ngọc đó tượng trưng cho chi phái Bêngiamin. Lục mã não là viên ngọc thứ bảy, tượng trưng cho chi phái Giuđa. Trong tiếng Hêbơrơ, các tên nầy đều có ý nghĩa. Rubên có nghĩa là “Nầy, con trai tôi!” Bêngiamin nghĩa là “con trai của tay phải tôi” và Giuđa nghĩa là “ngợi khen”. Thật vậy, những gì bạn có được trong ngôn ngữ tượng trưng ở đây là: khi bạn nhìn lên thiên đàng qua cánh cửa, có một ngai và Đấng ngồi trên ngai đó được mô tả bằng những viên ngọc nầy đang nói với chúng ta: “Nầy, con trai ta, con trai của tay hữu ta! Hãy ngợi khen Ngài!”
Có một cụm từ được tìm thấy nhiều lần trong sách cuối cùng của Kinh thánh: “Ta là Anpha và Ômêga”. Mẫu tự đầu tiên trong bảng chữ cái Hy Lạp là anpha, mẫu tự cuối cùng là ômêga. Điều đó được giải thích theo cách thông thường cho chúng ta: “Ta là đầu tiên và cuối cùng”. Chúng ta sắp nhận được sự khải thị của một Đấng là Đức Chúa Jêsus Christ; là Đấng mà chính Ngài là đầu tiên và cuối cùng.
Sự Thờ Phượng Đời Đời
Trong chương 4 và 5, bạn có một thời điểm ca ngợi và thờ phượng tốt đẹp được tổ chức trong cõi đời đời. Những điều tốt đẹp đang xảy ra tại đó. Đức Chúa Cha chuyển trung tâm thờ phượng trên thiên đàng từ nơi Ngài sang Đức Chúa Con, Chiên Con, Đấng như đã bị giết. Đức Chúa Trời có ý muốn nói rằng: “Hãy thờ phượng Con Ta. Thờ phượng Con Ta vì những gì Con ấy đã làm, trong ánh sáng của những điều Ngài đã có, hiện có và còn đến mãi mãi, hãy
thờ phượng Con Ta!”
Vì đây là những biểu tượng trong Kinh thánh nên bạn có thể thấy tại sao những người kinh điển các sách trong Kinh thánh lại đặt sách Khải huyền sau cùng. Điều kiện tiên quyết để hiểu sách Khải huyền, cuốn sách cuối cùng của Kinh thánh, là phải hiểu 65 sách trước đó của Kinh thánh.
Có một vài biểu tượng khác mà tôi muốn dùng để minh họa cho bí quyết quan trọng nầy. Hãy quan sát, chẳng hạn như Khải huyền 1:4; 4:5 và 5:6 bạn được nghe đến “bảy vì thần của Đức Chúa Trời”.
Những người gán ý nghĩa quan trọng cho những con số trong Kinh thánh nói với chúng ta rằng số bảy là số trọn vẹn, hay hoàn hảo. Điều nầy gợi ý rằng bảy Thần Của Đức Chúa Trời tượng trưng cho Linh đa hợp, bao hàm toàn diện, trọn vẹn của Đức Chúa Trời, hay là sự diễn đạt hoàn hảo về Đức Chúa Trời. Về bản chất, Đức Chúa Trời là thần linh. Tuy nhiên, nhiều
học giả tin rằng sự diễn tả nầy: “bảy Thần của Đức Chúa Trời”, đưa chúng ta quay về với lời tiên tri của Êsai.
Qua lời tiên tri Êsai, ông hoàng của các tiên tri đã rao ra lời tiên tri về Đấng Mêsi vĩ đại qua hình bóng bảy thần của Đức Chúa Trời. Lời tiên tri của Êsai được ứng nghiệm trọn vẹn qua sự khải thị nầy được ban cho sứ đồ Giăng về bảy thần của Đức Chúa Trời. Êsai viết: “Có một chồi sẽ nứt lên từ gốc Y-sai, một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái. Thần của Đức Giêhôva sẽ ngự trên Ngài, tức là (1) thần khôn ngoan và (2) thông sáng, (3) thần mưu toan và (4) mạnh sức, (5) thần hiểu biết, (6) thần kính sợ và (7) thần thờ phượng Đức Giêhôva”. Trong câu tiếp theo, Êsai tiếp tục nói về niềm vui thích của Ngài là nơi Linh thờ phượng (Êsai 11:1-3).
Ý Êsai muốn nói với chúng ta rằng khi Đấng Mêsi đến, Đức Chúa Jêsus Christ sẽ là sự bày tỏ trọn vẹn về Đức Chúa Trời, Đấng mà trong bản chất của Ngài vốn là Thần Linh. Theo tiên tri Êsai, Đức Chúa Jêsus Christ không chỉ bày tỏ trọn vẹn bản chất chiên con thuộc linh nầy của Đức Chúa Trời, mà qua nhân tính của mình, Ngài còn phản ánh một đời sống thực sự đầy dẫy Thần Linh hay được kiểm soát bởi Thánh Linh. Giăng muốn nói với chúng ta rằng lời tiên tri của Êsai đã được ứng nghiệm khi Chúa Jêsus đến.
Chúng ta thấy có bảy ngọn đèn đứng trước ngai trên thiên đàng. Chúng ta biết bảy ngọn đèn nầy tượng trưng cho bảy Thần của Đức Chúa Trời. Sau đó chúng ta đọc thấy: “Tôi thấy
có một Chiên Con ở đó như đã bị giết; Chiên Con có bảy sừng và bảy mắt, là bảy vì thần của Đức Chúa Trời sai xuống khắp thế gian” (5:6).
Các học giả tin rằng các sừng tượng trưng cho quyền năng và các mắt tượng trưng cho sự khôn ngoan trong Kinh thánh. Vì thế, Chiên Con nầy, Đấng như đã bị giết, là sự bày tỏ về bảy thần của Đức Chúa Trời. Và sự bày tỏ trọn vẹn về chiên con nầy của Thần Đức Chúa Trời cũng bày tỏ đầy đủ quyền năng và sự khôn ngoan của Ngài khi Chiên Con bị giết.
Thần của Đức Chúa Trời rất quan trọng trong chức vụ của Chúa Jêsus. Ngài có Thần thông sáng, nghĩa là Ngài có tri thức trọn vẹn về Lời Đức Chúa Trời. Ngài cũng có Thần hiểu biết, nghĩa là Ngài có sự hiểu biết trọn vẹn về Lời Đức Chúa Trời và ý muốn của Cha Ngài.
Chúa Jêsus cũng có Thần khôn ngoan vì Ngài giữ trọn Lời Đức Chúa Trời và dạy người khác cách vâng giữ Lời ấy. Và kế đến là Thần mưu luận là một phần của sự bày tỏ trọn vẹn về Thần của Đức Chúa Trời. Khi Chúa Jêsus giảng dạy Lời Đức Chúa Trời và cách áp dụng lời ấy vào đời sống của những người Ngài gặp gỡ thì Ngài bày tỏ Thần mưu luận. Khi Ngài chia sẻ Lời Đức Chúa Trời với dân chúng và họ áp dụng Lời ấy vào đời sống thì Thánh Linh đã xức dầu cho Lời ấy bằng quyền năng rất lớn. Đó chính là lúc Thần mạnh sức được bày tỏ qua Chúa Jêsus.
Và kế đến là thần thờ phượng được bày tỏ rất rõ ràng trong đời sống Chúa Jêsus. Êsai nói rằng Ngài vui thích trong Thần thờ phượng. Khi đọc 4 sách Phúc Âm, chúng ta thấy rằng khi Đức Chúa Jêsus không thi hành chức vụ giữa dân chúng thì suốt đêm Ngài ở một mình, hoặc thức dậy trước khi mặt trời mọc để cầu nguyện và thờ phượng Cha Ngài.
Cửa Mở Ra Trên Trời
Trong chương 4, câu 1, chúng ta đọc thấy rằng khi Giăng được mời gọi bước đến với Ngài để “lên đây, ta sẽ cho ngươi thấy điều sau nầy phải xảy đến”, đó là tiếng kèn đưa Giăng đi vào khải thị về thiên đàng. Nhiều người tin rằng đây là biểu tượng của Thánh Kinh tượng trưng cho Hội thánh được cất lên. Phaolô viết rằng sự cất lên của Hội thánh sẽ được loan báo bằng tiếng kèn (I Têsalônica 4:16; I Côrinhtô 15:22).
Khi Giăng nhìn qua cánh cửa mở ra trên trời nầy, ông thấy ngai là biểu tượng chính trên thiên đàng. Trước ngai đó Giăng thấy biển pha lê. Trong đền tạm và Đền thờ Salômôn, có một chậu rửa để thầy tế lễ, với tư cách là người đại diện cho tội nhân, tắm rửa sạch sẻ trước khi đến gần Đức Chúa Trời để cầu thay cho họ. Sự dạy dỗ dành cho chúng ta ở đây là chúng ta phải được tẩy sạch trước khi đến gần Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết. Thầy tế lễ cứ liên tục đến với Đức Chúa Trời trong vai trò người đại diện cho tội nhân vì họ cũng cần được tha thứ thường xuyên. Trong biển pha lê trước ngai, nước trở nên cứng như pha lê, điều đó tượng trưng cho sự tẩy sạch thường xuyên và đời đời.
Trong chương 5, một cuốn sách được mở ra với bảy ấn và tất cả những ai trên thiên đàng đều cố tìm một người để tháo ấn và mở sách ra. Chẳng ai đủ tư cách và bằng lòng mở sách nầy. Biểu tượng nầy trong Thánh Kinh đem chúng ta trở lại với sách Rutơ và ý niệm về người chuộc bà con. Khi một người như Bôô muốn chuộc một phụ nữ như Rutơ, món nợ của người nữ đó được niêm trong một cuộn sách. Ông không được phép mở niêm và nhìn vào bên trong cuộn sách cho đến khi ông chứng tỏ mình đủ tư cách và công bố ước muốn chuộc lại người phụ nữ ấy.
Sứ điệp của cảnh nầy trên thiên đàng là nơi ấy đầy dẫy những người cần được cứu chuộc, nhưng tại nơi ấy lại chẳng có ai đủ tư cách hoặc sẵn sàng chuộc họ. Giăng khóc vì chẳng có ai làm người cứu chuộc. Lúc ấy, chúng ta nghe một tin vui: “Đừng khóc, hãy nhìn xem, Sư Tử của chi phái Giuđa, Chồi của Đavít, đã đắc thắng và có thể tháo ấn và mở sách ra”. Ý nghĩa của biểu tượng nầy là, Chúa Jêsus có đủ tư cách và Ngài sẵn sàng, Ngài đã đắc thắng để chuộc chúng ta. Ngài đã cứu chuộc chúng ta (5:5).
Khi cửa mở ra trên trời, chúng ta thấy có 24 ngai nhỏ ở chung quanh ngai trên thiên đàng, và có 24 trưởng lão ngồi trên các ngai nầy. Các trưởng lão nầy tượng trưng cho những người lãnh đạo dân sự của Đức Chúa Trời – có lẽ là 12 chi phái Ysơraên và 12 sứ đồ.
Chìa Khóa Thứ Ba
Chìa khóa thứ ba là chìa khóa giúp chúng ta giải mã bức thông điệp đã được mã hóa của Đức Chúa Trời gởi cho dân sự Ngài, là nhiệm vụ đã giao cho Giăng. Hình thái nhiệm vụ đó là nguyên tắc chung về sự Khải thị mà Giăng đã tiếp nhận trên đảo Bátmô. Chương 1 câu 19 cho chúng ta thấy nhiệm vụ và nguyên tắc chung đó. Giăng được hướng dẫn để “chép lấy những sự ngươi đã thấy, những việc nay hiện có và những việc sau sẽ đến”.
Trong chương 1 sách Khải huyền, chúng ta biết được kinh nghiệm của Giăng. Những gì Giăng thấy trong chương 1 mô tả phần đầu trong nhiệm vụ của ông khi ông được bảo “Viết lại những điều mà ngươi thấy” và gởi sự khải thị đã được ghi chép đó cho bảy Hội thánh tại Tiểu Á vào thời đó.
Giăng quay lại để nhìn, cũng giống như Môise quay lại nhìn bụi gai cháy trong đồng vắng (Xuất 3:3,4). Giăng quay lại để nhìn xem tiếng đã nói với mình, và khi quay lại nhìn, tiếng đó lại nói với ông. Hãy quan sát động từ Giăng dùng để mô tả kinh nghiệm của ông cho chúng ta. Giăng nói, khi “vừa quay lại, tôi thấy. Và khi thấy Ngài, tôi ngã xuống chân Ngài như chết”. Biểu tượng cho thấy dường như điều kiện tiên quyết để có được kinh nghiệm sâu nhiệm với Đức Chúa Trời là phải quay lại.
Sứ đồ Giăng đang hoàn tất phần đầu nhiệm vụ của mình khi ông ghi lại kinh nghiệm đó. Sau khi Giăng được bảo “hãy chép lại những điều mà ngươi đã thấy”, tiếp đó ông được hướng dẫn để “chép lại những điều đang xảy ra”. Khi Giăng viết các bức thư gởi cho các Hội thánh ở vùng Tiểu Á, ông hoàn tất phần hai nhiệm vụ của mình trong chương 2 và 3.
Nói tóm lại, chương 1 liên hệ đến những điều Giăng thấy qua kinh nghiệm của ông. Chương 2 và 3 là phần thứ hai trong nhiệm vụ của ông, là phần mà ông phải “chép lại những điều đang xảy ra”, tức là những điều đang diễn ra tại bảy Hội thánh vùng Tiểu Á. Các Hội thánh nầy là Êphêsô, Simiệcnơ, Bẹtgăm, Thiatyrơ, Sạtđe, Philađenphi và Laođixê, là những Hội thánh có thực.
Nên nhớ là trong chương 1 sách Khải huyền, Giăng thấy bảy chơn đèn bằng vàng? Khải thị của ông về Đấng Christ là Ngài đứng giữa các chơn đèn đó. Chúa cho Giăng biết rằng bảy chơn đèn đó là các Hội thánh. Giăng cũng được Ngài cho biết rằng Đấng đứng giữa các chơn đèn đó là Đấng Christ. Dù các Hội thánh đó có quá nhiều nan đề nhưng Đấng Christ phục sinh và đang sống vẫn ngự giữa Hội thánh Ngài. Mặc dù chẳng bao lâu sau đó các Hội thánh nầy có thể sa ngã, nhưng đừng nên quên rằng Đấng Christ vẫn bước đi giữa Hội thánh Ngài.
Về cơ bản, nội dung thư gởi cho Hội thánh Êphêsô là: “Ngươi đã bỏ lòng yêu mến ban đầu”. Điều đó làm tôi ngạc nhiên vì Timôthê là người coi sóc Hội thánh đó. Phaolô nói với Hội thánh Philíp rằng ông sai Timôthê đến với họ vì ông biết rằng chẳng ai yêu mến Chúa như Timôthê. Anh ấy vốn là trung tâm chú ý của mọi người. Giờ đây, qua bức thư gởi cho Hội thánh được Timôthê coi sóc, dường như Đấng Christ phục sinh đang hỏi họ: “Điều gì khiến cho tình yêu của các ngươi thay đổi?” Nếu bạn cảm thấy rằng Chúa yêu mến con người qua bạn thì đừng bao giờ quên là bạn có thể đánh mất kinh nghiệm làm một phương tiện mà qua đó Đấng Christ yêu thương những người Ngài đã ban cho bạn để bạn yêu bằng tình yêu của Ngài.
Chìa Khóa Thứ Tư
Phần nhiệm vụ lớn nhất đã được giao cho Giăng bắt đầu ở phần đầu của chương 4: “Hãy chép lại những điều sẽ xảy ra sau nầy”. Phần lớn sách Khải huyền có liên quan đến những việc sẽ xảy đến trong tương lai.
Muốn tập trung vào chiếc chìa khóa số 4 bạn phải hiểu niên đại của các chương từ 6 đến 19 của sách Khải huyền. Các chương 4 và 5 là ngôn ngữ tượng trưng rất đẹp mô tả sự thờ phượng sẽ diễn ra ở trên trời. Nhưng khi bạn đọc đến chương 6 của sách Khải huyền, giọng văn thay đổi và trở nên hết sức khó hiểu.
Một loạt các biến cố được biết đến như là sự Tái Lâm của Đức Chúa Jêsus Christ bao trùm cả một giai đoạn dài. Phần lớn thời gian bị che khuất từ biến cố đầu tiên cho đến khi biến cố sau cùng xảy ra. Thời gian chính xác là bao lâu còn tùy thuộc vào cách bạn giải thích những biến cố nầy và cách bạn sắp đặt các biến cố đó theo thứ tự thời gian. Một trong các biến cố ngắn nhất là thời kỳ bảy năm được biết đến như là “Cơn Đại Nạn”. Đức Chúa Jêsus đã mô tả biến cố đó trong bài giảng của Ngài trên núi Ôlive (Ma-thi-ơ 24:21-29).
Nhiều học giả tin rằng Cơn Đại Nạn là thời kỳ bảy năm. Cơn Đại Nạn nầy là những gì đã được mô tả trong các chương từ 6 đến 19 của sách Khải huyền. Tất cả các chương đó, từ chương 6 trở đi, khi các con ngựa đó xuất hiện, mọi diễn biến kéo dài cho đến giữa đoạn 19, tập trung về một phần nhỏ kéo dài bảy năm thuộc trong số các biến cố nầy gọi là “Sự Tái Lâm của Đức Chúa Jêsus Christ”.
Cơn Đại Nạn được mô tả trong phần nầy của sách Khải huyền như là hàng loạt các sự đoán phạt. Khi bạn đọc sách Khải huyền của Giăng về các cơn đoán phạt nầy, bảy ấn được mở ra. Mỗi khi một ấn được mở thì lại có một sự đoán phạt kinh hoàng và khủng khiếp! Kế đến bạn đọc về bảy tiếng kèn. Mỗi khi một trong bảy tiếng kèn nầy thổi lên thì bạn cũng thấy có một cơn đoán phạt khủng khiếp như vậy.
Các ấn được mở ra trong chương 6, các kèn được thổi lên trong các chương 8 và 9. Sau đó, trong chương 16, bạn sẽ đọc về bảy bát. Các bát nầy được đổ ra và mỗi khi một bát được đổ ra thì có một sự phán xét đi kèm.
Một số người tin rằng sự phán xét của các ấn, các tiếng kèn và các bát nầy là những sự phán xét liên tục. Một số khác lại tin rằng chỉ có một giai đoạn phán xét nhưng lại được mô tả bằng ba cách khác nhau. Giữa các sự phán xét nầy, bạn thấy có lời buộc tội, hình như được thêm vào lời giải thích về các cơn đoán phạt đó. Tuy nhiên, những lời giải thích nầy trong chương 17, từ câu 10 đến 15 và từ câu 17 đến 19 lại không theo đúng thứ tự niên đại một cách rõ ràng.
Chìa Khóa Thứ Năm
Chiếc chìa khóa thứ năm để mở sứ điệp của sách Khải huyền ra là: đừng cho rằng mình biết rõ thời điểm của các biến cố nầy tức những biến cố được giấu kín trong sách Khải huyền. Tôi biết rất ít về niên đại có thể chấp nhận được mà tôi đề nghị. Theo Chúa Jêsus, chẳng có ai biết ngày và giờ khi sự cuối cùng xảy đến – các thiên sứ không biết, thậm chí Con Đức Chúa Trời cũng không biết nữa. Chỉ một mình Cha biết mà thôi (Mathiơ 24:36). Khi các sứ đồ và các môn đồ đầu tiên hỏi Chúa Jêsus về kế hoạch khôi phục nước Ysơraên của Ngài, Ngài đáp rõ ràng rằng họ chẳng nên biết kỳ hạn và ngày giờ về các sự kiện nầy vì Đức Chúa Cha đã quyết định giữ kín việc đó (Công vụ 1:7). Vả lại, tôi xin thưa, nếu các thiên sứ không biết, nếu Con Đức Chúa Trời nói rằng Ngài không biết và nếu chỉ một mình Cha biết thôi, thì chúng ta còn có thể làm gì khác hơn là có thái độ khiêm nhường khi cố gắng xếp “kỳ hạn và ngày giờ” của các biến cố nầy lại với nhau?
Một trong các biến cố nầy là sự cất lên của Hội thánh. Sau khi Hội thánh được đem ra khỏi thế gian, như chúng ta từng hy vọng, thì sẽ có Cơn Đại Nạn trên đất. Kế đến là sự tái lâm hiển nhiên của Đấng Christ trong đó Ngài trở lại, không chỉ đem Hội thánh Ngài ra khỏi thế gian mà còn cùng với Hội thánh cai trị thế gian nữa. Có người tin rằng triều đại đó là một vương quốc có thực sẽ kéo dài trong một ngàn năm. Những người tin được chia ra theo cách họ giải thích các biến cố nầy. Nhiều tín hữu sẽ không đồng ý với bạn về bất cứ niên đại nào bạn đưa ra hay cách bạn giải thích các biến cố nầy. Hãy khiêm nhường về các niên đại và lời giải thích của bạn về các biến cố nầy.
Chìa Khóa Thứ Sáu
Mục đích của chúng ta khi khi đọc sách Khải huyền là để thờ phượng Chúa hơn là chỉ đọc để hiểu thôi. Điều nầy hết sức quan trọng. Chúa hứa ban phước cho người đọc và giữ những lời được viết trong sách nầy (22:18). Có nhiều lẽ thật thuộc linh trong sách nầy đặc biệt là qua những bức thư gởi cho các Hội thánh – mang tính cách dạy dỗ và bồi linh. Có nhiều lẽ thật trong sách Khải huyền mà chúng ta cần phải hiểu và cần được khích lệ vâng theo. Người theo Chúa có khuynh hướng thờ phượng theo sự hiểu biết về sách nầy hơn là thờ phượng Đức Chúa Trời và Đấng Christ phục sinh là Đấng ban sự khải thị cho Giăng.
Vị sứ đồ yêu dấu làm theo bí quyết nầy trong hai trường hợp ở gần cuối sách. Chúng ta đọc thấy Giăng gieo mình xuống dưới chân của thiên sứ là người đã giải thích những biểu tượng nầy cho ông và ông đã thờ lạy thiên sứ. Dĩ nhiên là chúng ta có thể hiểu lý do vì sao ông lại làm như vậy, nhưng thiên sứ bảo ông: “Đừng làm như vậy, tôi cũng là đầy tớ của Đức Chúa Trời giống như ông và các anh chị em khác là những người giữ lời chứng của Đức Chúa Jêsus” (19:10; 22:8).
Đây là lời tuyên bố rõ ràng về mục đích của việc đọc sách Khải huyền. Mục đích đó là đọc sách Khải huyền không phải chỉ để hiểu nhưng giống như cách bạn đọc sách Tin Lành Giăng, đó là để gặp Chúa Jêsus. Sau đó là thờ phượng Chúa Jêsus mà bạn gặp, và thờ phượng Đức Chúa Trời! Hãy để sách Khải huyền gia tăng cảm giác về sự tin kính, sự ngạc nhiên và sự thờ phượng của bạn. Và khi bạn đọc sách nầy, hãy bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Chìa Khóa Thứ Bảy
Chìa khóa thứ bảy đó là hãy tự hỏi: “Vì sao Đức Chúa Trời lại cho chúng ta biết những việc tương lai?” Cũng như chúng tôi đã từng gặp nhiều lần trước đây, khi Đức Chúa Trời vén màn và nói với chúng ta vài điều về cách tất cả những điều đó sẽ chấm dứt, Ngài có một mục đích đối với sự khải thị đó.
Dường như sự áp dụng như thế nầy: “Trên tinh thần của những điều ta đã tỏ cho ngươi thấy sắp xảy ra đằng sau bức màn, ngay bây giờ ngươi phải là hạng người nào trong vị trí hiện nay? Đời sống thánh khiết nào ngươi cần phải sống?” Chúa muốn tác động trên đời sống hiện tại và mỗi ngày của chúng ta qua ánh sáng của những điều Ngài đã bày tỏ trong cuốn sách
cuối cùng của Kinh thánh nầy.
Chìa Khóa Thứ Tám
Hãy cẩn thận về những mơ ước viễn vông khi bạn nhìn phía sau bức màn và thấy những điều sắp xảy ra có liên quan đến cõi đời đời. Kinh thánh nói cho chúng ta biết đời sống bên kia mồ mã bằng cách dùng biểu tượng. Nhiều người giải thích lối trình bày nầy của Kinh thánh theo cách họ muốn cõi đời đời phải có. Nếu bạn thực sự muốn biết về đời sống bên kia thế giới và mồ mã thì bạn nên đọc sách nầy với tâm trí rộng mở.
Chìa Khóa Thứ Chín
Chúng ta tìm được chiếc chìa khóa thứ chín trong chương 4 và 5. khi bạn nhìn qua cánh của mở trên trời, hãy quan sát mỗi biểu tượng đã đề cập trong hai chương sách rất hay đó được mô tả liên quan đến vị trí của nó với ngôi đặt ở trung tâm của thiên đàng. Chiên Con đang ngự giữa ngai. Hai mươi bốn ngai nhỏ được đặt quanh ngai. Sấm sét từ nơi ngai phát ra.Bảy chơn đèn và biển pha lê ở trước ngai. Quanh ngai có tiếng của nhiều thiên sứ.
Trong chương 4 và 5, bạn nghe các thánh ở quanh ngai Đức Chúa Trời đang hát bài ca mới. Thật đẹp đẽ biết bao! Tuy nhiên, bạn cũng nghe tội nhân chào đón Chiên Con là Đấng ngự trên ngai đó, nhưng họ không được dành cho một chỗ nào liên quan đến ngai. Chúng ta phải
kết luận rằng tội nhân đang từ địa ngục chào đón Chiên Con vì họ không có chỗ trên thiên đàng. Điều đó thật kinh khủng!
Chìa Khóa Thứ Mười
Hãy để ý trong sách Khải huyền có hai quang cảnh được thuật lại đồng thời với nhau. Quang cảnh trên thiên đàng được thuật lại trong các chương 4, 5, 19, 20, 21 và 22, và cùng lúc đó, một quang cảnh dưới đất cũng được thuật lại trong các chương 6, 8, 9, 16 và 20. Các chương 19 và 20 nằm ngay chính giữa vì chúng thuật lại cả hai quang cảnh.
Chìa Khóa Thứ Mười Một
Đây chính là sự khải thị của Đức Chúa Jêsus chứ không phải cuốn sách về các sự khải thị. Từ đầu cho đến cuối, đây là sự khải thị liên tục của Đức Chúa Jêsus Christ. Chỉ khi bạn tìm được Chúa Jêsus trong sách Tin Lành Giăng và ngay cả trong Cựu ước thì bạn mới tìm được Ngài trong sách Khải huyền. Hãy xem Đấng Christ bày tỏ Ngài chính là Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa.
Chìa Khóa Thứ Mười Hai
Giăng đã được cho biết rằng ông sắp nhận được sự khải thị về những điều phải xảy đến sau nầy (4:1). Vì Đức Chúa Trời Toàn Năng là Đức Chúa Trời công bình, trên đất lại có quá nhiều sự bất công nên phải có sự công bình làm nền tảng như những sự phán xét đã được bày tỏ cho sứ đồ Giăng và được mô tả trong sách Khải huyền nầy.
Chìa Khóa Thứ Mười Ba
Dù chúng ta nên đọc để thờ phượng hơn là chỉ để hiểu, khi đọc sách Khải huyền chúng ta nhận ra rằng có nhiều điều mình có thể hiểu. Chúa hứa ban phước cho người nào đọc sách nầy, thực sự lắng nghe sứ điệp của sách và áp dụng sứ điệp đó vào đời sống mình (22:18).
Chìa Khóa Thứ Mười Bốn
Một khi bạn đọc cuốn sách cuối cùng nầy của Kinh thánh, hãy xem sách đó cùng tất cả sứ điệp của nó cũng như tất cả những phân đoạn khác trong Kinh thánh có đề cập đến những việc sau cùng là thuyết mạt thế (là thuyết có liên quan đến những việc sau cùng). Tất cả các phân đoạn nầy của Kinh thánh, từ các tiên tri cho đến những sự dạy dỗ của Chúa Jêsus và các sứ đồ, sẽ thách thức bạn bằng câu hỏi: “Những gì bạn học được về toàn thể bản chất của những việc hầu đến đã tác động đến những gì bạn tin tưởng, giá trị của bạn cũng như cách bạn sống cuộc đời mình hôm nay như thế nào?”
Qua sự khải thị nầy chúng ta học biết rằng các thánh đồ hát bài ca mới ỏ quanh ngai đến từ mọi chi phái, mọi thứ tiếng, mọi dân tộc và mọi quốc gia (5:9). Khi nghĩ về cách họ có mặt ở quanh ngai thì điều đó tác động thế nào đến cái nhìn của bạn về Đại Mạng Lịnh của Đức Chúa Jêsus Christ và công tác của Chúa là Đấng muốn xây dựng Hội thánh Ngài khắp thế giới ngày nay?
Lời Đức Chúa Trời bắt đầu bằng câu hỏi Ngài dành cho con người: “Ngươi ở đâu?” Kinh thánh kết thúc việc đối mặt với chúng ta bằng một câu hỏi đáng sợ khác: ngươi sẽ ở đâu khi những biến cố được mô tả trong sách Khải thị đáng sợ nầy của Đức Chúa Jêsus Christ xảy ra? Thực ra chỉ có hai khả năng. Hoặc là bạn ở trên thiên đàng cùng với các thánh đồ ca ngợi Chúa ở quanh ngai, hoặc là bạn cùng với những tội nhân khác từ dưới địa ngục chào đón Chiên Con. Sự đáp ứng của bạn với Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ bây giờ sẽ quyết định bạn ở đâu trong ngày ấy.
Qua nhiều thế kỷ trong lịch sử Hội thánh, hàng triệu người đã đặt đức tin nơi Chúa qua việc đọc cuốn sách cuối cùng nầy của Kinh thánh. Lời cầu nguyện của tôi là, nếu bạn chưa tin Đức Chúa Jêsus Christ làm Cứu Chúa của đời sống mình và chưa tôn Ngài là Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa, thì việc khảo cứu tóm tắt nầy về sách Khải huyền sẽ giúp bạn thực hiện những quyết định trên vì chúng sẽ định đoạt cho số phận đời đời của bạn.
Biên Soạn: Dick Woodwar
Nguồn tài liệu: HỘI HỢP TÁC TRUYỀN GIÁO QUỐC TẾ TRƯỜNG CAO ĐẲNG THÁNH KINH