Chân Giả Luận (Bản Hiệu Đính 2011)
Lời Nói Đầu
Kính thưa quý bạn đọc,
Chân Giả Luận là một tác phẩm đã được biên soạn và lưu hành cách đây khoảng năm mươi năm. Chúng tôi không biết danh tính của tác giả, và cũng không được biết tác giả hiện còn đang sống hay đã về nước Chúa. Nhưng chúng tôi tin rằng vì tình thương trong Chúa, tác giả đã bỏ công biên soạn ra tác phẩm này với mục đích giúp chúng ta có một nhận thức đúng đắn về Đấng Chân Thần, là Đấng chúng ta phải thờ, để chúng ta không đi lầm đường lạc lối.
Vì nguyên tác đã được biên soạn cách đây nhiều năm, do đó lời văn đã xưa cổ; có nhiều từ ngữ hiện nay không còn thông dụng nữa.
Vì vậy chúng tôi xin mạn phép được làm mới lại tác phẩm: Chúng tôi không thay đổi ý chính của nguyên tác, mà chỉ thay thế một số từ ngữ cổ, và sửa lại lời văn theo tiếng Việt hiện đại. Với ý định đó, chúng tôi hy vọng tác phẩm này tiếp tục phục vụ cho công tác rao truyền đạo Đức Chúa Trời cho dân tộc Việt Nam.
Chúng tôi ước mong quý vị bỏ chút thời gian tìm hiểu điều “Chân” và “Giả” được trình bày trong tác phẩm này, để quý vị có sự lựa chọn đúng đắn cho con đường còn lại của đời mình.
01. Xem Địa Lý
Hỏi: Những việc người đời thường làm như xem địa lý, chọn ngày, xem số, xem quẻ, xin xăm có hợp lý không?
Đáp: Không. Vì đó đều là những việc mê tín, dị đoan mê hoặc lòng người, có ảnh hưởng xấu, và gây nhiều tai hại cho nhân quần xã hội. Chúng tôi xin biện giải như sau:
Người xưa xây nhà, làm mồ mả, cũng xem địa lý, nhưng chỉ là để chọn nơi đất cao ráo, không ứ nước (thủy), và chọn hướng xây để tránh ngọn gió (phong) quá nóng hoặc quá lạnh. Vì vậy thuật xem địa lý cũng còn được gọi là “thuật phong thủy.”
Về sau người ta tin rằng con cháu hiền, ngu, giàu hay nghèo đều do nhà cửa, và mồ mả có được xây dựng trên khu vực đất tốt hay không. Từ đó, ý nghĩa ban đầu của việc xem địa lý đã bị thay đổi. Ngày nay, người ta xem địa lý là để chọn được mảnh đất mà họ tin là tốt, với mong muốn là con cháu được giàu sang phú quí. Thuật này do ông Quách Phát đời nhà Tấn bày ra. Trước tiên là người Trung Quốc tin theo; sau lan tràn sang Việt Nam. Đa số dân chúng vốn sẵn tính ham mê giàu sang nên bị thuật này mê hoặc; do đó tệ trạng này được lưu truyền cho đến ngày nay.
Chúng ta thử nghĩ: Tổ tiên của chúng ta khi còn sống, chưa chắc đã có thể che chở cho con cháu, huống chi khi đã là người chết rồi thì có quyền phép gì mà phù hộ cho con cháu được giàu có sang trọng? Vả lại, nếu thuật phong thủy là thật, thì trước đời nhà Tấn, khi chưa có nó, chẳng lẽ không có người giàu sang hay sao?
Người xưa có bài thơ chế giễu thầy địa lý như sau:
Thầy địa? Sao thầy nói viễn vong?
Chỉ nam, chỉ bắc, chỉ tây, đông.
Thế gian bằng có đất vua chúa,
Sao chẳng đem chôn tổ phụ ông?
Bài thơ ấy chắc hẳn đã làm cho các thầy địa lý phải ngậm miệng.
Thuật xem địa lý có hại cho sự tiến bộ của xã hội vì người ta chỉ trông chờ vào dương cơ, âm phần để mưu cầu phú quý mà không lo đến những việc thực tế hơn. Người làm phong thủy còn mang tội bất hiếu, và phạm vào luân thường đạo lý vì dùng hài cốt của tổ tiên làm môi giới để cầu phú quý cho mình.
02. Chọn Ngày, Định Hướng, Xem Tuổi
Thời xưa bên Trung Quốc, có một người họ Việt thường đến triều cống vua Thành Vương nhà Châu. Vì người họ Việt hay bị lạc đường khi về, Châu Công sáng chế một chiếc xe chỉ nam để đưa ông về. Cái địa bàn ngày nay được chế tạo theo chiếc xe chỉ nam ấy.
Còn Giáp Tý thì do vua Hoàng đế truyền cho ông Đại Náo đặt ra: lấy giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí làm thiên can; lấy tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi làm địa chí; hai bên hợp lại thành Giáp Tý.
Như vậy, việc sáng chế ra xe chỉ nam là để chỉ đường; còn việc sáng lập ra Giáp Tý là để ghi chép năm và tháng, chứ không phải vì việc xây nhà hay làm mồ mả. Người xưa làm việc gì cũng không cần chọn ngày, chọn giờ hay xem phương hướng. Ngày nay, các nước Tây phương cũng vậy. Vậy mà công việc của họ cũng vẫn thuận lợi, không có hại gì cả. Người Việt Nam bắt chước những tập tục của người Trung Quốc, cứ làm việc gì hay đi đâu đều phải xem lịch để chọn ngày, hoặc rước thầy chọn hướng. Thật là phí công vô ích vì không hiệu nghiệm gì cả.
Có hai đám cưới cùng tổ chức một ngày, một giờ, nhưng về sau kết cuộc khác nhau. Hoặc hai cửa hàng khai trương cùng ngày, cùng giờ, nhưng về sau việc kinh doanh thành, bại cũng không như nhau. Vậy thì chọn ngày mà làm gì? Quyền giáng họa, ban phước đều thuộc về Đức Chúa Trời. Làm lành được phước, làm dữ mang họa, đều do mình cả, không can hệ gì đến ngày, giờ và phương hướng.
Trong thời thượng cổ, không ai xem tuổi, chọn ngày cho việc cưới xin.
Hễ trai và gái xứng đôi, tâm đầu ý hợp thì ấy là thiên duyên Trời định, ngày nào thuận tiện thì tiến hành hôn lễ.
Đời nhà Hán, rợ Hung nô cường thịnh ở phương Bắc, luôn lăm le muốn cưới công chúa của vua Trung Quốc cho đông cung thái tử của họ. Ông Lữ Tài bày mưu lập kế, diễn trò Bát Sơn Giao Chiến để ngăn trở việc cầu hôn này, rồi lấy con gái của thường dân thế vào. Vậy mà từ đó về sau, người đời cứ tưởng là việc thật nên mỗi khi dựng vợ gả chồng cho con cháu đều tránh cái tuổi nằm về cung bát sơn tuyệt mạng, và cầu cho được lục hiệp trường sinh.
Việc mê tín xem tuổi ấy đã tạo ra không biết bao nhiêu là thảm trạng trong gia đình! Nhiều gia đình tan nát, để bỏ nhau, thậm chí có nhiều người phải tự tử để tránh sự ép uổng của gia đình hủ lậu vì không lấy được người mình yêu mà phải lấy người mình không yêu.
Người tin Chúa không xem tuổi khi kết hôn. Nam nữ kết hôn với nhau đều vâng phục ý Chúa. Xưa có câu: “Lương duyên do túc đế, giai ngẫu tự Thiên thành.”
03. Đoán Số
Thuật đoán số do ông Quỉ Cốc Tử, là người đời Chiến quốc nước Trung Quốc đặt ra. Thuật đoán số của ông lấy năm, tháng, ngày, giờ sinh kết hợp với thiên can, địa chỉ của một người theo ngũ hành sinh khắc, rồi suy đoán người ấy sẽ trường thọ hay chết yểu, giàu sang hay nghèo hèn. Thuật này chỉ có thể lừa gạt kẻ nông cạn, còn người khôn ngoan, có sự hiểu biết chắc không ai tin.
Đó là vì trong cùng một năm, một tháng, một ngày, một giờ, khắp cả thế giới chắc có rất nhiều người được sinh ra. Trong số những người ấy ắt hẳn giàu sang, nghèo hèn không giống nhau; thậm chí hai đứa con sinh đôi về sau nên, hư cũng khác.
Vậy thì việc xem số lấy gì làm chắc chắn? Phải biết rằng họa, phước do quyền của Đức Chúa Trời. Ngài lấy họa, phước mà thưởng người hiền, phạt kẻ dữ, hoặc thử cả hai. Nếu người mới sinh ra mà số mạng đã được định sẳn cho sự giàu sang, hay nghèo hèn, sống lâu hay chết yểu mà không chờ đợi xem việc làm của họ như thế nào, thì cũng như cha mẹ độc đoán yêu đứa con này, ghét đứa kia, mà không căn cứ vào việc nó ngỗ nghịch hay vâng lời. Chúng tôi thiết nghĩ ở thế gian này không có cha mẹ nào như thế cả. Đức Chúa Trời rất công bình, há chẳng tùy theo việc làm của mỗi người mà thưởng, phạt công minh sao?
04. Xem Tướng
Từ xưa đến nay, loài người được Đức Chúa Trời tạo dựng ra, bên trong có lục phủ ngũ tạng, ngoài có lông, thịt, xương, da, tay, chân, mắt, mũi. Từ bậc vua quan đến kẻ thường dân, tựu chung đều giống nhau, chỉ khác nhau nơi các hình thức thấp, cao, gầy, mập, cùng các màu da trắng, đỏ, đen, vàng. Kẻ nghèo ăn cơm gạo lứt, canh rau, ở nhà tranh vách đất, kẻ giàu ăn cao lương mỹ vị, ở nhà rộng lầu cao, Vì thế khí sắc không giống nhau. Như vậy có lý nào căn cứ vào hình thể bên ngoài mà đoán định tương lai cho được?
Xưa kia, vua Võ Đế đời nhà Hán đọc câu sách tướng rằng: “Bất cứ ai nhân trung dài một tấc, thì sống được 100 tuổi.” Ông Đông Phương Sóc đứng cạnh bên nghe được liền cười xòa. Vua hỏi: “Ngươi cười ai?” Ông trả lời: “Tôi cười ông Bành Tổ đời xưa, vì ông ấy sống đến 800 tuổi, ắt hẳn nhân trung dài đến tám tấc, thế thì mặt ông ấy dài biết bao nhiêu!” Câu nói ấy dù chỉ là một câu nói khôi hài, nhưng cũng đủ nêu ra sự sai lầm của sách ma y thần tướng.
Trên thế gian có nhiều người ngoại hình giống nhau như khuôn, nhưng tâm tính khác nhau một trời một vực. Ví dụ như vua Thuấn và Hạng Võ đều trùng đồng (đồng tử), nhưng tại sao một người nhân đức, còn một người thì bạo ngược? Gương mặt Dương Hổ và Khổng Tử giống nhau như khuôn đúc, thì tại sao một người gian ác, một người lại là thánh nhân? Khổng Tử nói rằng:
“Nếu lấy tướng mạo mà xét đoán người, thì ta đây đã mất Tư Võ.” Sao quí vị không tin lời Khổng Tử mà lại tin lời thầy tướng?
Người ta có thể xem tướng như xem cách ăn nói, đi đứng mà biết qua tâm tính một người. Ấy cũng như bác sĩ quan sát thần sắc bên ngoài của bệnh nhân thì biết đại khái bịnh nặng hay nhẹ, hàn hay nhiệt. Còn như nói rằng xem tướng mà đoán được lành, dữ, họa, phúc về sau là điều vô lý.
05. Bói quẻ, Xin Xăm Và Đoán Chữ
Bói quẻ, xin xăm, đoán chữ (hoặc chiết tự) là những trò chơi, không khác gì các trò chơi như thò lò, bông vụ; may thì trúng, rủi thì sai, không có gì đảm bảo. Có khi bói ra tốt nhưng sự việc lại xảy ra xấu, có khi đoán việc lành mà thành ra dữ. Khi nào tình cờ không ứng nghiệm thì đổ lỗi cho thần không giáng. Tại sao chúng ta không nghĩ rằng bói một trăm lần, chắc cũng có vài lần trúng? Cũng như người chưa biết bắn, tập bắn cả ngày, thế nào cũng bắn trúng một vài phát. Đó không phải là bắn giỏi mà đó chỉ là sự ngẫu nhiên mà thôi.
Xưa kia, Khuất Nguyên đến xin Thiềm Doãn một quẻ bói. Ông Thiềm Doãn liền nói rằng: “Cái thước có chỗ ngắn, cái tấc có chỗ dài, vật có chỗ không đủ, trí có chỗ không sáng, số có chỗ không kịp, thần có chỗ không thông. Cứ dùng theo lòng ông, làm theo theo đạo của ông, rùa và thỏ không biết việc ấy.”
Xem như thế, người xưa vốn biết bói quẻ là vô ích. Việc xin xăm cũng như thế. Xin xăm có khi linh, cũng có khi không linh. Đấy là do tình cờ, không phải do ông tiên, ông thần nào cả. Người nào tin điều ấy, chẳng những không ích lợi gì mà lại còn có hại nữa. Còn đa số những kẻ đoán chữ đều nghèo, không có sinh kế, nên sa vào nghề lừa gạt người. Họ mưu lợi cho người khác mà không mưu lợi được cho bản thân mình. Nếu có ai gạn hỏi cho đến khi họ không giải thích được nữa, thì họ nói rằng: “Tôi vẫn biết là thuật lừa dối, nhưng vì nhà nghèo, không dừng được mà phải mưu sinh bằng nghề này.” Ôi! Người đời sao không nghe lời ấy mà tỉnh ngộ?
06. Các Thần Giả
Hỏi: Chúng tôi vẫn nên tin theo Đạo Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu Christ, nhưng từ xưa đến nay, từ nước Trung Quốc cho đến nước ta, người dân trên thờ các vị nhật, nguyệt, tinh tú, dưới thờ sơn xuyên xã tắc cùng các vị thiên thần, nhân thần; trong số những vị ấy, không có được vị nào là chân thần hay sao, mà các ông lại nói không đáng thờ?
Đáp: Dân ta từ xưa đến nay nhiễm thói tục mê tín đa thần của người Trung Quốc. Bất cứ họ thờ vị nào, thì chúng ta cũng bắt chước thờ vị ấy. Tóm lại, có hai loại thờ:
Thứ nhất là thờ vật thọ tạo như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, v.v. Vả lại, Đức Chúa Trời đã dựng nên trời, đất để che chở cho loài người.
Ngài dựng nên mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao để soi sáng cho loài người.
Ngài cũng tạo ra muôn vật để loài người dùng hoặc ăn, cũng như cha mẹ mua sắm nhà cửa, trang bị bàn ghế, vật dụng v.v. để cho con cái vậy. Bây giờ con cái không hiếu kính cha mẹ, mà lại hiếu kính nhà cửa, bàn ghế, không phải lỗi đạo lắm hay sao? Chúng ta đã biết trời, đất, muôn vật có một Đấng Chủ Tể, và chúng ta luôn chịu ơn Ngài, thì chúng ta nên thờ Đấng Tạo Hóa chứ không nên thờ các vật thọ tạo kia.
Thứ hai là họ tôn thờ người chết làm thần, như Ngọc Hoàng, Lão Quân, Quan Công, Thành Hoàng, Thổ Địa, Diêm Vương, cùng các thần khác nữa. Tiếp theo đây, chúng tôi xin lược kể lai lịch và sự tích các thần ấy để quí độc giả thử suy xét có nên thờ các thần ấy không.
07. Ngọc Hoàng
Lịch sử nhà Tống cho biết Ngọc Hoàng tên là Trương Nghi, người huyện Hành Đường, phủ Chân Định, được sinh ra vào cuối đời nhà Hán. Trương Nghi học đạo Lão Tử, ở ẩn trong núi Võ Dương, hái cây cỏ luyện thuốc, chữa người bệnh. Đến đời vua Huy Tôn nhà Tống, có thuật sĩ tên Lâm Linh Tố, học đạo Lão Tử, lừa gạt vua để vua phong Trương Nghi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, và giáng chiếu bắt dân chúng thờ phụng. Vua làm như thế, vì có ý cầu mong Ngọc Hoàng phù hộ cho đất nước được bền vững lâu dài. Không ngờ Trương Nghi được phong chức chẳng bao lâu, cả gia đình vua Huy Tôn bị người nước Kim bắt mang đi, về sau chết tại thành Ngũ Quốc.
Dân nước ta học sách của Trung Quốc, cứ thấy họ thờ ai thì chúng ta cứ theo như vậy mà thờ, không truy xét cẩn thận vì chúng ta có tập quán không dám cưỡng lại sách vở nên để hậu quả cho đến ngày hôm nay. Vì thế có nhiều người lầm tưởng rằng thờ Ngọc Hoàng tức là thờ Thượng Đế, là Đức Chúa Trời vậy.
Chúng ta thử xem xét trước các đời Tiền Hán, Tam Đại, Đường, Ngu, ai làm chủ tể trời, đất muôn vật? Ai đã cầm quyền trên chính sự sinh, tử của Trương Nghi? Câu trả lời chắc hẳn là Đức Thượng Đế. Vả lại, Đức Thượng Đế chẳng liên quan gì với Ngọc Hoàng, là tước hiệu của Trương Nghi mà vua Huy
Tôn đã phong cho ông. Xin xem lại mấy chữ: “Hoàng Mỹ Thượng Đế” trong Kinh Thi. Chẳng phải Đức Chúa Trời, là Chúa của trời đất, muôn vật, là Đấng dựng nên loài người, đáng thờ phượng, tôn vinh hay sao? Chúng ta đừng lầm tưởng mà nói rằng tôi cũng có thờ Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là Ngọc Hoàng Thượng Đế.
08. Lão Quân
Sách Cương Giám viết Lão Quân, họ Lý, tên Nhĩ sinh vào cuối đời nhà Châu, thuở Xuân thu. Ông làm sử quan lúc tuổi đã già nên gọi là Lão Tử. Lúc Khổng Tử đi chu du các nước, có sang nhà Châu, đàm luận về lễ với Lão Tử. Về sau, có người viết truyện Lão Quân, hư cấu rằng Lão Quân sinh ra thời nhà Ân (trước nhà Châu 400 năm), ở trong thai đến 82 năm, rồi phá hông bên phải của mẹ mà ra, râu tóc đều bạc, vì vậy mà có tên là Lão Tử.
Đến đời Cao Tông nhà Đường, vua lấy lý do mình họ Lý, thuộc dòng dõi của Lão Tử, sắc phong cho Lão Tử làm Huyền Nguyên Hoàng Đế. Đến đời vua
Chân Tôn nhà Tống, vua lại gia hiệu cho ông là Thái Thượng Lão Quân. Và cũng có nơi khác tôn xưng Lão Tử là Nguyên Thủy Thượng Đế, Nguyên Thủy Thiên Tôn nữa.
Lão Tử vốn là người, được sinh ra trong trời đất bình thường như bao nhiêu người khác. Thật là vô lý khi người đời tôn xưng ông là Nguyên Thủy Thượng Đế.
09. Tiên Thuật
Sử ngoại ký là nghi sử thời đại của Trung Quốc, có ghi lại câu chuyện phỏng đoán như sau: Vua Hoàng Đế đắc đạo, cỡi rồng bay lên trời trường sinh bất tử. Và trong truyện Phong Thần viết: Ông Khương Thái Công đắc đạo thành tiên, điều khiển các thiên tiên và địa tiên.
Đến thời Tiền Hán, ông Trương Lương nhận thấy vua Cao Tổ hay nghi kỵ công thần, sợ họa đến mình nên lập kế ẩn tu nơi am cốc theo tiên. Các học giả thời đó nghĩ tình ông là bậc cố tri, lại thêm người đời đơm đặt chuyện Hoài Nam Tử luyện thuốc thành tiên, nên họ cùng viết ra truyện bát tiên lấy tên của tám người là: Hà Tiên Cô, Lý Thái Bạch, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lý Thiết Quái, Hàn Tương Tử, Lữ Đồng Tân, Hàn Chúng Ly. Những nhân vật này đều là người như chúng ta, cũng ăn, cũng làm, cũng sống, cũng chết, không có người nào trường sinh bất tử cả.
Có người hỏi rằng: Nếu không có tiên thì tại sao khi người ta cầu cơ, ông Lý Bạch giáng bút làm thơ với họ suốt đêm ngày?
Đáp: Chúng ta suy xét rộng một chút thì rõ việc người phụ đồng ứng cơ, hoặc giáng bút. Như tại vùng thôn quê, trong những đêm nhàn rỗi, có kẻ lớn người nhỏ, tụm ba tụm bảy lại mà sai roi, sai chổi, sai quạt, sai vung; có đồng tử đội khăn ngồi giữa, tứ phía có kẻ cầm hương, còn những người ngồi chung quanh đọc bài có vần, có nhịp, khi bổng, khi trầm, mùi hương phảng phất hòa quyện với tiếng ngâm nga lảnh lót lúc đêm vắng canh khuya. Cảnh vật này làm cho người ngồi đồng kinh khiếp, tinh thần mơ màng, rồi cử động khác thường một chút và hát lên một câu mà bình thường chưa từng hát.
Chúng ta thử nghĩ xem, vì Lý Bạch là người có linh hồn, nên họ cho rằng hồn ông ứng cơ. Còn những vật vô tri như cái quạt, cái vung, cái roi, cái chổi làm gì có linh hồn mà nhập xác phụ cơ? Thiết tưởng, việc cầu cơ chẳng qua chỉ là tà thuật lừa người chứ không có tiên, thánh nào áp phụ cho ai cả.
10. Quan Công
Quan Công nguyên họ là Thi, tên Thọ Xương, người làng Giải Lương, Châu Bồ tỉnh Sơn Tây nước Trung Quốc. Về sau ông đổi họ là Quan, tên Võ, hiệu là Vân Trường, làm tướng của vua Chiêu Liệt nhà Hậu Hán. Xem ông là trung thần của nhà Hậu Hán thì chính xác, còn như tôn xưng ông là một vị thần hộ quốc thì quá đáng. Đó là vì lúc Khổng Minh cử Quan Võ trấn giữ Kinh Châu, ông không thể giữ được, đã để mất Kinh Châu, còn bản thân mình thì bị giết chết. Như vậy, ông là người đã chết thì còn bảo hộ cho ai được nữa?
Về sau có người viết ra sách có tên là “Minh thánh kinh” và nói rằng sách này là của Quan Công giáng bút. Họ còn vẽ ra chuyện Quan Công hiện đang canh giữ cửa trời, có quyền giáng họa, ban phước. Tại sao chúng ta không suy nghĩ: Trương Phi là anh em kết nghĩa của Quan Công, thân hơn ruột thịt, mà vì báo thù cho Quan Công nên phải chết, và nhà Hậu Hán về sau cũng mất nước. Nếu thật sự Quan Công hiển linh, sao không hiển thánh mà giải cứu cho anh em mình và giúp nhà Hậu Hán giữ nước? Người đời thường nói Quan Công là thần giúp nước, cứu dân, tại sao lầm lẫn lớn như vậy?
Có kẻ biện luận rằng: Việc người anh em kết nghĩa của Quan Công chết và nhà Hậu hán bị diệt vong là do thiên số, không nên trách Quan Công.
Nếu nói rằng do thiên số, thì chúng ta phải biết thờ kính Đức Chúa Trời, là Đấng định thiên số ấy. Tại sao chúng ta lại thờ Quan Công, là người đã phải bó tay trước thiên số?
Chúng ta nhìn nhận Quan Công là người trung nghĩa, vì vậy chúng ta chỉ nên kính trọng và noi gương anh kiệt của ông. Còn như giết heo, giết gà, đồt vàng mã, đốt hương thờ cúng để mong nhờ Quan Công phù hộ là điều sai trái.
Hơn nữa, Quan Công là người chính trực, lúc ở với Tào Tháo ông còn chẳng màng đến việc lên ngựa thưởng bạc, xuống ngựa thưởng vàng, ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một yến lớn. Vì vậy, nếu thật sự ông có hiển linh thì chắc gì ông để mắt đến những lễ vật tầm thường của người trần vì lòng gian tham cầu cạnh? Vậy, Quan công là bậc trung nghĩa đáng học hỏi và làm theo chứ không nên thờ phụng, vì ông không có quyền phép bảo hộ cho ai được.
11. Thành Hoàng
Thành Hoàng nghĩa là cái hào ờ ngoài thành, vốn không có nghĩa gì là thần cả.
Xưa kia, vua nhà Tấn là Tư Mã Diêm nhận thấy quần thần thờ vua không trung, trị dân không nhân đức, nên cho vẽ tượng một người trung-thần của vua Cao Tổ nhà Hán, tên Quán Anh, để mang treo nơi các công sở cho các quan viên noi gương học hỏi. Không ngờ về sau, câu chuyện truyền khẩu sai lạc, người ta tôn xưng tượng ấy là vị thần giữ thành. Sau đó, các tỉnh, phủ, châu, huyện đều lập miếu thờ Thành-Hoàng. Lại có người đặt điều nói rằng Thành- Hoàng mỗi ba năm thay đổi một lần. Họ còn bịa chuyện có người chết đi làm Thành-Hoàng xứ này, có người chết đi làm Thành-Hoàng xứ kia. Một người nói ra, trăm người nghe và tin lấy được, không xem xét thực hư.
Không hiểu tại sao người ta có thể dễ tin điều dị đoan quái gỡ, còn Đấng Chân Thần Thượng Đế hay ban ơn xuống phước, thì họ không chịu tin kính, thờ phượng. Thật đáng thương!
12. Thổ Địa
Sách Tả truyện viết: “Xã là chủ thổ địa, phong làm Thổ công, xưng là Thổ thần.” Nhân việc đó về sau người ta thờ thần Thổ địa. Chúng ta thử suy xét: Xã là tên một chức quan có nhiệm vụ bình trị và cai quản đất nước. Vậy người cai quản đất nước là ai? Chính là ông Câu Long. Sách xưa viết rằng:
“Ông Câu Long ở đời vua Xuyên Húc, làm quan cai quản đất đai, bình trị đất nước, rất có công trạng.”
Vả lại, khi người chết đi thì chức vị phải giao lại cho người khác. Ông Câu Long có phải là người trường sinh bất tử đâu để sống đời cai quản đất đai được? Người đời không phân biện đúng sai, đắp tượng thổ địa đầu hói, bụng to, lại chọn ngày 23 tháng 3 làm ngày sinh thổ địa. Thật là một việc làm vô nghĩa và rất sai lạc.
Người ta thờ Thổ địa là cũng vì ý nghĩa trả ơn cho đất. Nhưng sao họ lại không nghĩ rằng dù từ đất sinh ra mọi vật cần dùng cho con người, nhưng tất cả đều do ân huệ và quyền phép của Đức Chúa Trời cả. Vậy mà họ không biết trả ơn Chúa mà trả ơn đất. Điều đó có khác nào có người được cha mình chia phần ruộng cho, lại không cảm ơn cha mà đi cảm ơn ruộng; thật là một việc làm phi lý.
13. Phật Thích Ca
Phật Thích Ca tên Siddattha Gotama, thuộc dòng dõi bộ tộc Sakya, sinh vào khoảng tháng 4 hoặc tháng 5 dl năm 624 trước Công Nguyên (có thuyết cho rằng năm sinh của Phật là 563), tại Lâm-tỳ-ni thuộc miền nam xứ Népal, có kinh đô là Kapilavastu. Ông là con một tiểu vương Ấn Độ tên là Suddhodana và bà Maha-Maya. Thái tử là một người thông minh, xuất chúng, học một biết mười, và là một người văn võ song toàn.
Năm 17 tuổi thái tử kết hôn với công chúa Yasodhara và có một con trai với bà. Dù vậy, ông vẫn nuôi trong lòng ý muốn xuất gia sau khi chứng kiến những cảnh tranh đấu giết hại lẫn nhau để tìm sự sống. Thái tử nghĩ rằng nguồn gốc của mọi đau khổ đều xuất phát từ lòng dục vọng của con người; từ đó phát sinh ra những phiền muộn, hung ác, xích mích và giết chóc lẫn nhau.
Qua những lần dạo chơi các cửa thành, thái tử chứng kiến cảnh một ông lão già nghèo, bệnh hoạn, chống gậy run rẩy khập khiễng đi ngang đầu xe của thái tử; một người bệnh nằm rên rỉ thảm thiết trong đau đớn bên lề đường trên phân và nước tiểu của mình; một xác chết bên vệ đường, thân xác trong tình trạng đang phân hủy rất hôi thúi, trông rất ghê tởm. Thái tử buồn rầu quay trở về cung suy nghĩ, tìm phương cách giải thoát cho bản thân mình và cho cả chúng sinh khỏi viễn cảnh sinh , lão, bệnh, tử của đời người. Năm 19 tuổi, thái tử quyết định rời bỏ cung điện tìm đường tu luyện.
Khởi đầu, thái tử đi sâu vào rừng, cắt tóc, mặc nâu sòng và trở thành một đạo sĩ dấn thân tìm đạo. Thái tử tìm đến các vị đạo sĩ Bà La Môn học hỏi phương pháp tu hành. Sau một thời gian tu luyện, không thỏa lòng với phương pháp tu luyện của các đạo sĩ Bà La Môn, thái tử vào rừng thực hành tu ép xác trong sáu năm. Sau cùng, nhận thấy, lối tu khổ hạnh cũng chưa phải là con đường giải thoát, thái tử quay trở lại bờ sông Ni-liên. Sau khi uống một bát sữa dê của một tín nữ dâng cúng, thái tử ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 49 ngày, thái tử nhận thấy mình đã hoàn toàn giác ngộ và tuyên bố đắc đạo.
Phật Thích Ca đắc đạo lấy hiệu là Như Lai. Sau đó Phật đến vườn Lộc Uyển nói pháp tứ độ cho năm ông Tỳ kheo (Kiều Trần Như, Ac Bê, Thập Lục Ca Diếp, Ma Ha Nam Câu Ly và Bạc Đề). Từ đó đạo Phật được rao truyền ra khắp thế giới có nhiều người tin theo.
Phật Thích Ca mất (nhập diệt) năm 81 tuổi.
Đời Minh Đế nhà Hán, đạo Phật đã khá phổ thông bên Trung Quốc. Đến đời nhà Đường, từ vua quan cho đến dân thường đều mê tín đạo Phật. Ông Hàn Dũ có lòng lo lắng cho hậu vận nước nhà, bèn dâng tấu sớ khuyên can vua rằng: “Đại chi đại nguyên xuất ư thiên; cớ sao không thờ Trời mà lại thờ Phật, để hại cho đời sau?” Thật đáng tiếc! Lời thật mất lòng, buổi sáng dâng tấu sớ, buổi chiều ông bị đưa đi lưu đày; chân lý đã không thắng nỗi cường quyền.
Nước ta vào đời nhà Đinh, vua mới sai sứ sang Trung Quốc thỉnh kinh Phật về thờ. Từ đó cho đến nay, dân chúng tin theo càng ngày càng nhiều. Họ quyên góp tiền bạc để xây chùa dựng miểu, tô tượng, đúc chuông để cầu phúc cầu lộc. Nhưng Phật Thích Ca không nói là Phật có quyền giáng họa, ban phúc cho ai được cả. Làm như thế chỉ góp phần làm sai lạc giáo lý của Phật mà thôi.
Phật Thích Ca vốn là một thái tử con vua, đã vì chúng sinh mà bỏ mình tìm đạo, tâm chí rất cao quý, rất đáng cho chúng ta cảm phục! Nhưng suy cho cùng Phật cũng chỉ là một con người trong thiên hạ, vẫn phải phục mệnh dưới quyền thiên số. Phật không thể tự cứu mình thoát khỏi sự tử thì sao có khả năng tế độ được cho người khác?
Kinh Phật cũng có chép: Lúc Phật lên 8, vua cha dẫn đến thiên miếu lạy Trời. Như thế đấy, sao chúng ta không noi gương Phật mà thờ lạy Đức Chúa Trời cho hợp lẽ đạo?
Vả lại, căn cứ theo giáo lý nhà Phật, thì loài người có ba điều xấu gọi là “Tam Độc.” Bất luận ai, muốn đạt đến Niết Bàn đều phải tự mình giải thoát khỏi ba cái độc ấy, chứ Phật không tế độ cho ai, vì Phật không phải là đấng cứu thế, mà chỉ là giáo chủ của một tôn giáo dạy đạo đức và luân lý mà thôi. Như vậy có khác nào bác sĩ, sau khi khám cho bệnh nhân thì cho biết: “Anh mắc phải ba chứng bịnh có thể chết là đau tim, đau gan và đau phổi.” Bệnh nhân lo lắng xin được cứu giúp, nhưng bác sĩ lại nói rằng: “Tôi không có cách gì cứu chữa anh được, tự anh phải điều trị sao cho dứt ba chứng bệnh ấy, tất nhiên
anh sẽ được mạnh khỏe trở lại và bình an.” Nghe như thế, ắt hẳn bệnh nhân sẽ phải rất đau khổ và thất vọng lắm.
Hoặc là có một người kia đang vỡ nợ, nhận được trát của tòa gia hạn trong vòng một thời gian ngắn phải hoàn trả đủ cả tiền vốn lẫn lời mới được bình yên vô sự; nếu không, sẽ chiếu theo luật mà định tội. Than ôi! Làm thế nào người ấy có thể trả được tất nợ? vì số nợ rất lớn mà tiền dành dụm lại quá ít? Chắc là người ấy sẽ vô cùng tuyệt vọng khi nhận được giấy báo.
Cũng như thế, việc lành người ta tạo được rất hiếm, mà việc dữ thì lại có dư. Nay làm sao người đời có thể mang số vốn lành ít ỏi ấy để trừ cấn qua số nợ tội lỗi quá nhiều? Người nào có trí biết suy xét chắc cũng hiểu là không thể được. Như vậy, giáo lý nhà Phật dạy một điều mà trọn một đời người cũng không thể nào thực hiện xong được.
Chỉ duy nhất Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của nhân loại. Ngài có quyền giáng họa, ban phước và cũng có quyền cứu vớt mọi kẻ có tội. Ngài rất yêu thương nhân loại, hơn cả người cha yêu thương con cái mình, Ngài không muốn người nào phải chết mất. Nhận thấy loài người không có cách gì để chuộc tội cho mình Ngài bèn lập ra một phương án cứu rỗi, vừa hợp lẽ công bình, vừa thể hiện lòng yêu thương. Ấy là Đức Chúa Giê-su Christ đã đổ huyết trên Thập tự giá chuộc tội cho loài người, hầu cho bất cứ người nào xưng nhận tội mình trước Đức Chúa Trời, và tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa, sẽ được tha thứ tất cả tội lỗi. Ấy cũng như kẻ mắc nợ được chủ nợ tha nợ, bệnh nhân gặp được bác sĩ giỏi, người đang đắm chìm giữa biển gặp được thuyền cứu vớt.
Xin quý độc giả kiên nhẫn đọc hết sách này sẽ biết rõ phương pháp cứu rỗi duy nhất ấy.
Tài liệu tham khảo:
– “Sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni” của tác giả Minh-Thiện Trần Hữu Danh
– “Sự tích Đức Phật Thích Ca Mâu Ni” của Ban Tu Thư Phật học
14. Thuyết Luân Hồi
Con giả nhân là loài thú chạy; con anh vũ là loài chim bay. Loài vật không thể sánh với loài người được, vì chúng khác nhau như trời với vực. Có câu rằng: “Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh.” Thế mà giáo lý nhà Phật lại đề xướng thuyết luân hồi, thật không hợp lý.
Đức Chúa Trời đã lấy đất tạo ra loài người; Ngài hà sinh khí vào lỗ mũi và người trở nên một loài sinh linh, tức là có linh hồn. Từ đó trở đi, loài người theo quy luật thiên nhiên: cha mẹ sinh con, con sinh cháu, có thể xác và linh hồn. Khi lìa trần, thể xác tan ra thành tro bụi, còn linh hồn thì trường tồn và phải ứng hầu trước Đấng Tạo Hóa để nhận chịu sự thưởng, phạt đời đời. Loài vật không như thế, vì chúng không có linh hồn, nên sau khi chết, thể xác tan rã, giác hồn cũng tiêu tan chứ không có việc đầu thai hay chuyển kiếp của loài vật.
Vả lại, Đức Chúa Trời đã định cho muôn vật, loài nào sinh sản theo loài ấy. Ngài cũng chúc phúc cho loài người sinh sản thêm nhiều đầy dẫy trên đất.
Như thế đó, không thể nào có việc luân hồi, chuyển kiếp được.
Nhà Phật còn dạy: “Một người lành khi chết đi sẽ được đầu thai làm người, còn kẻ ác phải sinh lại làm súc vật.” Như vậy, theo lập luận này, e rằng trong vòng 100 năm, chắc loài người không còn tồn tại trên đất này nữa vì trên thế gian người hiền lành lương thiện thì ít, mà người ác thì đầy dẫy! Nhà Phật cũng nói: “Đời này ăn bốn lạng thịt, kiếp sau phải đền thịt nửa cân.” Trên đời này, có ít người không ăn thịt, còn người ăn thịt thì nhiều, và trong đời đã ăn không biết bao nhiêu là thịt. Nếu phải trả nợ ăn thịt, thì họ phải trả đến kiếp nào mới xong? Các thánh hiền đời xưa cũng đã ăn thịt, như vậy họ phải đầu thai làm súc vật để trả nợ hay sao? Nếu như vậy, chắc hẳn loài người phải bị tuyệt diệt!
Có người hỏi: Nếu không có luân hồi, thì tại sao có kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang, người hèn.
Đáp: Chúng ta phải biết rằng, trong xã hội mỗi người đều có một hoàn cảnh, thân phận khác nhau. Ông Mạnh Tử có nói: “Không có người làm quan, lấy ai cai trị người làm ruộng? Không có người làm ruộng, lấy ai nuôi người làm quan?” Đó là ý nghĩa thường tình trong thiên hạ, không quan hệ gì đến việc luân hồi. Người nào tin cậy Cứu Chúa, làm điều thiện, dù gặp hoàn cảnh nghèo hèn, nhưng linh hồn vẫn được lên Thiên Đàng. Người nào nghịch mạng Chúa, làm điều hung ác, dù được sống trong cảnh phú quý giàu sang, nhưng sau khi chết linh hồn phải sa vào hỏa ngục. Sự giàu sang hay nghèo hèn trong đời tạm này có chi đáng trọng, đáng khinh? Chúng tôi mong rằng một khi biết được cội rễ của loài người và muôn vật, thì quý vị sẽ không bị thuyết luân hồi làm sai lạc nữa.
15. Quan Âm
Kinh Quan Âm viết con gái thứ ba của vua nước Diệu Trang là Diệu Thiện, xuất gia đi tu ở chùa Bạch Tước. Khi vua cha biết tin, liền nổi lửa đốt chùa. Bà Quan Âm, tức Diệu Thiện, tay cầm cành dương tưới nước, ngồi chết trên tòa sen. Người ta nói rằng bà đã hóa thân thành Phật.
Nhưng, khi xem địa lý các nước hiện nay, ta không thấy có nước Diệu Trang. Nhà Phật nghĩ đàn bà dễ tin nên đúc tượng Quan Âm, phao tin rằng có phép cứu khổ cứu nạn, để mọi người cúng bái cầu phúc cầu lợi. Hậu quả là nhiều người tin theo mà không biết đó chỉ là một thông tin vô văn cứ. Người không con thì cầu Quan Âm bồng con, còn người khổ não thì cầu Quan Âm nghìn tay, nghìn mắt. Than ôi! Chỉ có một Đấng có đủ quyền cứu khổ cứu nạn.
Ấy là Chúa của trời, đất, muôn vật. Tại sao chúng ta không tìm cầu Ngài mà lại đi cầu khẩn Quan Âm hữu danh vô thực?
16. Diêm Vương
Đức Chúa Trời dựng nên Thiên Đàng để tiếp nhận người lành, tạo ra hỏa ngục để giam chứa kẻ dữ. Việc thưởng, phạt đều tùy theo ý chỉ công minh của Ngài, không ai can thiệp được. Luận thuyết nhà Phật cho rằng địa ngục có mười tám trùng, có mười Diêm vương cai quản. Họ là: họ Tào, họ Ma, họ Vu, họ Tiết, họ Xương, họ Tiêu, họ Bao, họ Khấu, họ Hàn, v.v. Như vậy, mười vị chỉ cai quản mười trùng, còn lại tám trùng lấy ai cai quản?
Họ Bao vừa kể trên là ông Bao Chửng, còn gọi là Bao Công, làm quan phủ Khai Phong triều vua Nhân Tôn nhà Tống. Ông xử án rất công minh, không thiên vị ai. Dù phạm nhân là hoàng thân quốc thích, ông cũng trừng trị thẳng tay, không kiêng dè kẻ quyền thế. Dung mạo ông rất uy nghiêm. Thời đó người ta rất sợ ông nên đặt cho ông biệt hiệu là Diêm la Bao lão. Khi ông chết, có người đặt điều nói rằng ông ấy xuống làm Diêm Vương dưới địa ngục, cai quản sự chết và sự sống trên dương thế. Nói như thế là vô lý! Chúng ta thử đặt vấn đề: Trước khi chưa có Bao Công, ai cai quản địa ngục? Cho rằng Bao Công cai quản sự sống và sự chết của kẻ khác, vậy ai cai quản sự chết và sự sống của Bao Công?
Kinh Thi có chép rằng: “Sợ oai Trời,” lại cũng viết rằng: “Lớn thay Thượng Đế!” Vậy, xin quý vị hãy kính sợ duy nhất Đức Chúa Trời, là Đấng cai quản sự sống và sự chết của loài người.
17. Bà Chúa Ngọc và Bà Liễu Hạnh
Tại nước Việt Nam, nhiều người miền Bắc thờ bà Liễu Hạnh Công Chúa; người miền Nam thờ bà Chúa Ngọc.
Có tục truyền về bà Chúa Ngọc, rằng: Ở vùng biển, sát chân núi Khánh Hòa, có hai ông bà không con. Họ làm nghề trồng dưa. Có một buổi sáng nọ, ông ra thăm vườn, thấy một cô gái đẹp đang xách nước tưới rẫy dưa, liền bắt đem về làm con. Được vài năm, trong nhà xảy ra chuyện bất hòa, cô gái nhảy xuống giếng tự vận và biến hóa thành khúc gỗ kỳ nam trôi ra sông Bắc Hải.
Thái tử ở Bắc Hải vớt khúc gỗ mang về. Khúc gỗ lại biến hóa thành người con gái, kết làm vợ chồng cùng thái tử. Khi được mấy con, cô gái nhớ quê xưa nên rời bỏ chồng để trở về chốn cũ và hiển thánh tại đó. Nhiều phụ nữ mê tín tôn xưng nàng là Thiên Y Thần nữ và lập trang thờ phụng.
Bà Liễu Hạnh là con gái ông Lê Thái Công, người tỉnh Nam Định. Khi bà được sinh ra, người cha nằm mộng thấy con gái vốn là một công chúa trên trời đầu thai thành, nên đặt tên cho con là Giáng Tiên. Về sau cô gái kết hôn, sinh được một con. và chết năm 21 tuổi. Sau khi cô gái mất, có tin đồn rằng: Giáng Tiên rất linh thiêng, hiển hiện về nhiều nơi. Người làng xóm bèn lập miếu thờ phụng đặt tên hiệu là: Liễu Hạnh Công Chúa.
Chuyện tích của hai bà này rất hoang đường. Như bà Chúa Ngọc lúc được tìm thấy cũng chỉ là người bình thường, làm sao có thể biến hóa thành khúc gỗ? Từ khúc gỗ tại sao có thể trở thành người? Ấy chẳng qua chỉ là câu chuyện đồng bóng mơ hồ ở vùng thôn quê gần biển.
Còn đời sống bà Liễu Hạnh cũng giống như của bao nhiêu phụ nữ bình thường khác, không có công chúa nào ở trên trời xuống đầu thai? Đó chỉ do thân phụ của bà là người mê tín thuyết luân hồi, hoặc do ông nằm mộng thấy viễn vong, hoặc do ông cố ý thêu dệt ra câu chuyện để tăng giá trị cho con gái mình.
Như thế mà đa số phụ nữ miền Bắc mê tín tôn xưng bà Liễu Hạnh là chúa tiên độ mạng. Còn phụ nữ miền Nam nhận bà Chúa Ngọc làm mẹ sanh.
Thật là rất sai lầm! Tại sao các bà không thờ Đức Chúa Trời, là Đấng cầm quyền sinh tử, và nhờ ơn Ngài độ mạng và cứu vớt linh hồn cho?
18. Đạo Nho Và Đạo Tin Lành
Hỏi: Chúng tôi đã nghe những lời biện luận như trên, và đã biết Tin Lành là đạo chính, nhưng đạo Nho cũng là đạo chính, không xứng đáng tin theo hay sao mà phải theo đạo Tin lành?
Đáp: Ông Khổng Tử là người sáng lập đạo Nho, khi bàn luận về đạo có nói rằng: “Trời mạng gọi là tánh, noi tánh gọi là đạo.” Khi ông dạy thầy Tử Hạ về Đức Chúa Trời là Đấng Chủ Tể của muôn loài thì nói rằng: “Chết sống có mạng, giàu sang tại Trời.” Về cương thường, luân lý, ông dạy nhiều điều đáng làm chuẩn mực cho nhân quyền, xã hội; nhưng khi có kẻ bội thiên nghịch lý, ông không có quyền biến cải họ thành người tốt để thực hành những lời dạy dỗ quý báu ấy.
Còn Đức Chúa Giê-xu là Con Một của Đức Chúa Trời. Sự dạy dỗ của Ngài vượt trên các bậc thánh hiền. Lời của Ngài là Lời Sống và linh nghiệm, có quyền thay đổi lòng người, khiến họ từ kẻ xấu biến cải thành người tốt. Hơn hết, Ngài đã hy sinh thân mình trên cây Thập tự là giá chuộc tội cho loài người.
Ngài cũng đã từ kẻ chết sống lại nên có đủ quyền phép để cứu tất cả những người nào có lòng tin cậy nơi Ngài.
Suy cho cùng, Khổng Tử chỉ là một nhà hiền triết dạy luân thường đạo lý, còn Đức Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của cả nhân loại. Như vậy, bất kể người nào đã học đạo Nho để biết cách sống ở đời, thì hôm nay cũng cần phải tin Đức Chúa Giê-xu để linh hồn được cứu.
Vả lại, nếu muốn hiểu thấu đáo lý lẽ này, thì chúng ta cần phải hiểu rõ ý nghĩa của chữ Nho là gì. Chữ Nho viết theo chữ trung Quốc là một từ ghép từ hai chữ : “Nhơn” và chữ “Nhu”; Nhơn là người; nhu là cần, vậy Nho là dùng để chỉ về những người có học lễ nghĩa biết phép tắc trong đối nhân xử thế, am hiểu nhiều vấn đề cổ kim và biết phân biệt chính, tà. Khổng tử, Mạnh Tử cùng các bậc thánh đế, minh vương đời xưa, là những Nho gia, cũng chỉ thờ có mỗi Đức Thượng Đế mà thôi, không thờ tà thần nào cả. Đấy là đạo Nho thật. Còn đa số người đời nay cho rằng mình theo đạo Nho, miệng tuy có đọc sách thánh hiền, mà tâm không thực hiện theo, phát ngôn thì tùy tiện không cần biết phép tắc lễ nghĩa, gặp gì cũng tin không phân biệt “Chân”, “Giả”, không suy xét chính hay tà, xu hướng theo thế tục, đốt nhang đèn, giấy tiền vàng bạc, làm ma chay cầu phước cầu lộc trước các tà thần. Như thế có thể nào gọi là đạo Nho được không? Những người xưng mình là đạo Nho như vậy chỉ làm mất giá trị đạo Nho của thánh hiền ngày xưa mà thôi.
Chúng tôi theo đạo Tin Lành thì không như thế. Chúng tôi được Chúa làm biến cải tấm lòng, không tin những điều dị đoan, mê tín, bác bỏ những tà thuyết. Chúng tôi vâng theo Lời Chúa đi theo đường chính đáng, xem người trong bốn bể như anh em một nhà, yêu thương, hòa thuận, đồng kính thờ một Chúa, một thần, điều gì tốt thì khuyên bảo nhau, điều sai quấy thì can ngăn nhau, sống ở đời nầy có được sự bình an thiên thượng, vui thỏa trong lòng, khi lìa trần linh hồn sẽ được lên Thiên Đàng, hưởng ân phước vĩnh viễn.
Vậy, chúng tôi mong quý vị hãy nhanh chóng tỉnh ngộ mà quay về cùng Chúa Thánh, tiếp nhận đạo Tin lành, chắc chắn, quý vị sẽ nhận được ơn cứu rỗi.
19. Thờ Lạy Ông Khổng Tử
Hỏi: Chúng tôi đã được nghe các ông biện luận, và biết các ông có học sách Khổng Tử. Các ông lại tự nhận mình là đạo Nho thật, vậy tại sao các ông không thờ lạy Khổng Tử?
Đáp: Ông Khổng Tử viết sách để dạy người đời sau. Ông cũng chỉ khuyên răn người ta lấy lòng kính sợ Đức Thượng Đế, chứ ông không hề bảo chúng ta phải thờ lạy ông. Như ông đã có viết: “Giao xã chi lễ, sở dĩ tự Thượng Đế dã,” có nghĩa là: “Lễ tế giao, tế xã để thờ Đức Thượng Đế,” chứ ông không nói: “Để mà thờ ta.” Lại cũng có nói: “Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dã”. Xem như vậy, ông ấy vẫn kính sợ Đức Chúa Trời biết bao! Ông cũng đã nói: “Thiên sanh đức ư dư.” Ông Khổng Tử cũng do Trời sanh, sao quý vị không thờ lạy Trời (tức là Đức Chúa Trời), mà lại đi thờ lạy ông Khổng Tử?
Có người nói rằng: Khổng Tử là thầy của muôn đời, do đó chúng ta phải thờ lạy ông. Nếu quý vị nói như vậy thì trên Khổng Tử cũng còn có thầy nữa, như trong sách Tam Tự Kinh viết rằng: ”Trích Trọng Ni, sư Hạng Thác.” Nếu chúng ta thờ lạy Khổng Tử thì cũng phải thờ lạy cả thầy của ông nữa. Cứ như thế mà truyền mãi lên thì làm sao biết còn phải thờ lạy bao nhiêu thầy nữa? Do đó, chúng ta chỉ cần thờ lạy một Thầy Cao Cả vượt trên muôn vạn thầy khác, Đó là Đức Chúa Trời.
Nếu ông Khổng Tử còn sống, có lẽ ông cũng phải đồng thanh với Thánh Phao Lô mà la lên, khi thấy người ta cùng nhau thờ lạy mình rằng: “Hỡi các bạn sao làm điều đó? Chúng ta chỉ là loài người, chúng ta giảng Tin Lành cho các bạn, hầu cho xây bỏ các thần hư không kia mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng dựng nên trời, đất, biển và muôn vật ở trong đó.” (Công vụ 14:15)
Chúng tôi tôn trọng những lời dạy dỗ của ông Khổng Tử và thờ lạy Đức Thượng Đế. Còn đối với ông Khổng Tử, chúng tôi chỉ tôn kính mà thôi. Vì ai thờ lạy Khổng Tử, chẳng những mắc tội với Đức Chúa Trời, mà còn mắc lỗi với cả chính ông nữa.
20. Thờ Lạy Tổ Tông
Hỏi: Chúng tôi biết Đức Chúa Trời vẫn đáng để chúng ta thờ lạy, nhưng tổ tông là những người đã sanh thành ra chúng ta. Vì thế, chúng ta cũng không nên quên, như lời thầy Tăng Tử có nói: “Thận chung truy viễn, dân đức quí hậu hĩ.” Bây giờ các ông không thờ tổ tông vì lý do gì?
Đáp: Chúng ta muốn hiểu rõ lý do ấy, trước hết, phải hiểu nghĩa chữ tổ tông là gì? Chữ tổ là “bổn” (hay cội), tông là “côn” (hay rễ); cội rễ của loải người gọi là tổ tông. Chúng ta hãy bắt đầu từ bản thân mình mà tính lên cho đến nguyên tổ, rồi tự hỏi xem ai đã sinh ra nguyên tổ của loài người? Câu trả lời phải là: Trời sinh ra. Như vậy, nếu chúng ta đã biết Đức Chúa Trời là Cội Rễ, và là Tổ Tông của loài người thì, thờ kính Đức Chúa Trời là thờ kính tổ tông vậy, không thờ kính Đức Chúa Trời là đã quên bỏ tổ tông.
Sách Nho có câu: “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên.” Nếu không có rễ thì sẽ không có cây, không có nhánh và lá. Nếu không có nguồn, thì sông sẽ cạn dòng. Nếu không có nguyên tổ thì cũng sẽ không có loài người ngày hôm nay.
Quý vị thờ lạy tổ tông được bao nhiêu đời? Thờ cúng trong gia đình thì cũng chỉ được hai ba đời, thờ trong dòng họ thì cùng lắm cũng chỉ được đôi mươi đời, không lẽ không còn tổ tông xa hơn nữa hay sao? Nếu không có tổ tông xa thì ai sinh ra tổ tông gần? Thế mà quý vị chỉ thờ tổ tông gần mà bỏ qua tổ tông xa thì có hợp với lẽ đạo hay không?
Chúng ta không thể nào thờ được đủ tất cà các đời tổ tông của loài người. Và cũng căn cứ theo điều răn của Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ được thờ duy nhất có Ngài mà thôi. Ngoài Ngài ra, chúng ta không được thờ ai cả. Vì thế, chúng tôi chỉ thờ duy nhất Đức Chúa Trời, là Tổ Tông của tổ tông chúng ta.
Chúng tôi xin được giải nghĩa câu chữ: “Thận chung truy viễn” là thế nào. Thận chung có nghĩa: khi cha mẹ sắp qua đời, đạo nghĩa làm con là phải hết lòng cẩn thận chăm sóc cho họ qua đời êm ái. Sau đó, phải lo tang lễ cho chu đáo. Truy viễn nghĩa là tưởng nhớ công ơn nuôi dưỡng và noi theo sự dạy dỗ của tổ tông và cha mẹ. Quý vị chỉ thờ tổ tông đôi mươi đời, không thể gọi là truy viễn được. Muốn truy viễn, phải truy đến Cội Rễ của loài người. Cội Rễ ấy là Ai? Là Đức Chúa Trời vậy.
Vả lại, quý vị xem việc cúng giỗ như để bày tỏ tấm lòng hiếu kính tổ tông. Nhưng thật đáng tiếc, lúc ông bà cha mẹ còn đang sống, nhiều người vì bận việc làm ăn, mua bán, hoặc đắm chìm trong tửu, sắc, bài bạc, đã bỏ quên cha mẹ già yếu ở nhà, mưa mai không biết, nắng chiều không hay, đồ ăn ngon ngọt không cho ăn, lễ lạc viếng thăm cũng thiếu! Đến khi cha mẹ lìa trần, thân xác bị khâm liệm cứng vào trong quan tài, quý vị đến thắp hương, đốt vàng mã và mang heo, bò cúng tế trước quan tài rồi van vái ông bà cha mẹ về ăn. Quý vị nghĩ rằng làm như thế là thể hiện tấm lòng hiếu thảo. Thật ra việc làm đó không phải là hiếu thảo. Vì đồ cúng được bày ra chỉ để ruồi bu, kiến đậu, bụi bặm và tàn hương rơi rớt bám vào, đồ ăn để lâu bị thiu vữa mà chúng ta có thấy ông bà nào về ăn không? Đó là những việc làm vô ích. Nếu như có tổ tông về ăn thật, mỗi năm quý vị cũng chỉ cúng tế được một lần, còn những ngày khác không cúng thì tổ tông ăn gì? Hơn nữa, chỉ cúng tế tổ tông gần, còn tổ tông xa thì bỏ đói hay sao?
Chúng tôi theo đạo Tin Lành, trên chỉ thờ Đức Chúa Trời, dưới hiếu kính cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống, chúng tôi chu cấp nhu cầu hằng ngày cho người, chăm nom sức khỏe và lo thang thuốc những khi cha mẹ đau yếu. Đến khi cha mẹ qua đời, chúng tôi lo tang lễ đàng hoàng, và luôn luôn ghi nhớ công ơn. Đó là chúng tôi thực hành câu “Thận chung truy viễn” vậy.
21. Mộc Chủ, Bài Vị
Hỏi: Các ông nói các ông thờ Đức Chúa Trời tức là thờ kính tổ tông, nhưng tại sao các ông không lập mộc chủ, bài vị? Như vậy sao có thể gọi là thờ kính tổ tông được?
Đáp: Thờ kính tổ tông không phải do nơi việc lập mộc chủ, bài vị, vì bài vị là theo tập tục của người Trung Quốc xưa bày đặt ra chứ không phải do mạng lịnh của Chúa truyền dạy. Người xưa, khi cúng tế tổ tiên, dùng cháu làm thần thi. Người đứng tế phải cúng lạy thần thi như cúng tổ tiên. Về sau người ta cho rằng lập thần thi thì nhiều khi cha mẹ phải lạy con, anh phải lạy em, như vậy luân thường đạo lý bị đảo ngược. Do đó người ta thay thế bằng việc lập mộc chủ, bài vị. Như vậy, chúng ta biết rằng: lễ nghi do con người đặt ra, vì vậy con người cũng có thể thay đổi khi cần.
Cả hai việc lập thần thi, và lập mộc chủ, bài vị đều không nên. Nhưng nếu so sánh chúng với nhau, thì việc lập thần thi còn có ý nghĩa một chút, vì là huyết mạch của tổ tông, chứ còn mộc chủ, và bài vị chỉ là một khúc gỗ, là vật vô tri, vô giác mà đại diện cho tổ tiên mình thì có ý nghĩa gì không?
Chúng ta không nên lập mộc chủ, bài vị, vì việc làm đó có khi còn xúc phạm đến tổ tiên của chúng ta. Chúng tôi cũng đã chứng kiến nhiều gia đình trưng bày mộc chủ, bài vị giữa bàn thờ, theo thời gian, bụi bậm bám vào, mạng nhện giăng bủa, bài vị trở màu đen bẩn, trông rất gớm ghê. Chúng tôi cũng thấy có những gia đình trước kia giàu có, mua sắm khảm thờ thật đẹp, thật quí, để trưng mộc chủ, bài vị; đến lúc nghèo khổ nhà cửa sa sút phải bán cả khảm thờ, mộc chủ, bài vị đành phải mang đi gửi nhờ nhà họ hàng thân tộc.
Chúng tôi là những người có đạo thật, xem những vật ấy là những mảnh gỗ vô tri, không phải là nơi nương náu của vong linh tổ tiên cho nên không xem đó là quan trọng. Còn nếu quý vị xem chúng là nơi nương tựa của vong linh tổ tiên mình, khi thấy quang cảnh ấy, không phải quí vị thương tâm lắm hay sao?
Tổ tông chúng ta vẫn nên nhớ, nên kính, nhưng chỉ nên kỷ niệm trong lòng mình, không nên lập mộc chủ, bài vị mà thờ.
22. Đốt Giấy Tiền Vàng Bạc
Hỏi: Chúng tôi vẫn biết tiền vàng mã đốt đi không thể biến hóa thành tiền và vàng, bạc thật được. Tuy nhiên, làm vậy để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo của chúng tôi đối với tổ tiên thì có hại gì?
Đáp: Như thế, quý vị xem việc đốt giấy tiền là có hiếu, và cho rằng chúng tôi không đốt giấy tiền là bất hiếu. Chẳng trách là tại sao thiên hạ phê bình chúng tôi là “theo đạo Tin lành không biết đạo hiếu là gì; cha mẹ qua đời mà con cháu không đốt được cho một ít giấy tiền vàng bạc.” Thật sự, việc đốt giấy tiền vàng, bạc của quý vị mới thật sự là bất hiếu.
Trước khi người ta đặt ra việc đốt giấy tiền, vàng, bạc thì ông bà ta lấy gì mà đốt? Không lẽ các bậc thánh hiền như Nghiêu, Thuấn, Khổng, Mạnh, đều bất hiếu cả hay sao? Theo Mạnh Tử, có năm tội bất hiếu:
1- Không nuôi nỗi cha mẹ vì lười biếng
2- Không nuôi nỗi cha mẹ vì cờ bạc, rượu chè
3- Không nuôi nỗi cha mẹ vì chỉ quan tâm đến của cải và vợ con mình
4- Làm nhục cha mẹ vì mê đắm sắc dục
5- Gây nguy hại đến cha mẹ vì hay gây sự đánh nhau với người khác.
Ông không hề nói không đốt giấy tiền vàng bạc là bất hiếu. Bất hiếu là chúng ta không vâng giữ đạo thánh hiền, không noi gương tiên vương, theo ý riêng bày đặt ra việc đốt giấy tiền vàng, bạc để lừa gạt cha mẹ và tổ tiên.
Chúng ta nên biết khi người ta chết, mỗi linh hồn đều phải nhận chịu sự thưởng, phạt trước Đức Chúa Trời: Nếu ai tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ, thì sẽ được lên Thiên đàng; ai không tin nhận Chúa và làm ác, phải sa xuống hỏa ngục. Trên Thiên đàng hưởng phúc vô tận, tro giấy vàng mã đốt lên, ông bà ta cũng chẳng dùng được việc gì. Còn dưới hỏa ngục chỉ có sự khóc lóc, rên xiết đau đớn mãi mãi, tro giấy gửi xuống chỉ là thứ vô dụng. Vả lại, người sống có thể xác, nên phải sử dụng những vật hữu hình, và cần dùng tiền để trao đổi hoặc mua thức ăn, thức uống để duy trì mạng sống. Sau khi đã chết rồi, thể xác đó được chôn xuống đất, sau này tan thành tro bụi, chỉ còn lại linh hồn là thể vô hình, ăn uống cưới gả gì được nữa, mà phải cần tiền? Vậy thì đốt giấy tiền vàng bạc chỉ là một việc làm gây lãng phí tiền của vô ích.
Có nhiều người đốt giấy tiền không phải vì tấm lòng hiếu thảo, nhưng mục đích là để cầu phúc, cầu lộc từ những người đã chết, vì họ muốn tổ tiên phù hộ cho mình làm ăn phát đạt, con cháu giàu sang, vinh hiển. Đó là ước muốn của người đời, nhưng cách thực hiện thì rất sai. Chúng ta thử nghĩ, khi ông cha ta còn sống, mong muốn cho con cháu được giàu sang thịnh vượng, nhưng không chắc có thực hiện được ý muốn hay không. Cũng có những bậc cha mẹ phải chứng kiến cảnh con cháu đau ốm sắp chết, lòng rất đau xót, nhưng không có phương cách gì cứu giúp cho được. Khi họ còn sống, mắt còn thấy, tai còn nghe, miệng còn nói được mà còn không cứu giúp gì được cho con cháu, huống hồ gì khi đã là người chết thì làm thế nào phù hộ được?
Sách Luận ngữ có câu: “Chết sống có mạng, giàu sang ở Trời,” chúng tôi chưa từng nghe ai nói chết sống, giàu sang là do việc đốt giấy tiền vàng bạc bao giờ.
Thật là cạn nghĩ khi chúng ta còn sống trên đời, mà không tin nhận Đức Chúa Giê-su Christ, không siêng năng làm việc mà chỉ lo xu hướng theo thế tục, làm những việc giả dối để cầu phúc cầu lộc.
23. Thế Nào Là Hiếu Thật
Hỏi: Nói ngắn gọn, việc thờ cúng tổ tiên là một việc làm thể hiện tấm lòng hiếu đạo, tại sao chúng ta phải bỏ đi?
Đáp: Thầy Tăng Tử nói rằng: “Giết trâu tế mộ không bằng giết con gà, con heo lúc cha mẹ còn sống.” Không có gì bằng tấm lòng hiếu thảo lúc cha mẹ còn sống vì chỉ làm con gà cho họ ăn cũng đủ làm họ vui lòng. Còn khi họ qua đời rồi, chúng ta có làm lễ tế trâu, cha mẹ cũng không ăn được. Như thế mà vẫn có những người đối xử tệ bạc với cha mẹ khi họ còn sống, nhưng lại rất hậu đãi khi cha mẹ qua đời như tục ngữ có câu: “Sống, một miếng chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi.” Thật là một việc lạ!
Chữ hiếu của người theo đạo Tin Lành không phải do nơi việc cúng tế, mà do nơi những hành động cụ thể của họ. Khi cha mẹ còn tại thế, người theo đạo Tin Lành làm những việc làm thiết thực như: phụng dưỡng chu đáo, hiếu thảo cho vừa ý song thân. Nếu cha mẹ chưa biết Đức Chúa Trời, chưa tin nhận
Đức Chúa Giê-su, thì việc trước tiên, và thiết yếu nhất là chúng tôi làm chứng về Chúa, và khuyên giải song thân tin nhận Cứu Chúa để linh hồn được cứu rỗi.
Khi cha mẹ lìa trần, tùy thuộc vào tình hình kinh tế, tài chánh và gia cảnh của mỗi gia đình mà chúng tôi tổ chức việc tang lễ trong tinh thần tiết kiệm cho hợp lý. Chúng tôi không mời những thầy xem quẻ, thầy địa lý, xem ngày giờ hoặc tìm long điểm huyệt cùng với các nghi lễ rườm ra, giả dối vô ích. Chúng tôi cũng thường xuyên chăm sóc mộ phần để phát hiện những hư hỏng mà sửa chữa kịp thời.
Vả lại, như thế nào mới gọi là hiếu thật? Nếu cha mẹ là người hiền đức, chúng ta phải noi theo tấm gương ấy; đó là “đạt hiếu” như Võ Vương ngày xưa.
Nếu cha mẹ không phải là những người hiền, chúng ta phải tránh phạm theo những sai lầm của người; đó là “đại hiếu” như vua Thuấn thuở xưa. Vì tấm lòng hiếu để ấy mà chúng ta đối xử tử tế với anh em mình, làm ơn cho họ hàng thân tộc. Rồi từ tấm lòng yêu quý trong phạm vi gia đình sẽ nảy sinh trong chúng ta một thứ tình yêu bao la hơn. Đó là tình yêu chủng tộc giống nòi, yêu đồng loại, yêu quê hương đất nước mình. Nhờ đó, chúng ta làm nên sự nghiệp lớn để thành người hữu ích cho xã hội và đất nước.
Nếu chúng ta so sánh chữ “hiếu” mà chúng tôi vừa phân tích, với chữ “hiếu” là cúng tế tổ tiên, thì chúng ta sẽ nhận thấy chân, và giả khác nhau như trời với vực.
24. Không Lạy Xác Chết
Hỏi: Sau khi nghe những biện luận bên trên, chúng tôi nhận thấy không nên lập mộc chủ, bài vị để thờ, không đốt giấy tiền vàng bạc. Nhưng khi cha mẹ qua đời, việc khâm liệm đã chu tất, con cháu phải lạy để bày tỏ lòng thương tiếc mới phải lẽ. Các ông không lạy là vì sao?
Đáp: Khi cha mẹ đã lìa trần, linh hồn không còn ở trong thể xác, hoặc đã được rước vào nước Thiên Đàng hưởng phúc, hoặc phải sa xuống địa ngục để nhận chịu án phạt. Thi thể còn lại chỉ là một cái xác vô tri, bất động, quý vị lạy lục để làm gì? Dù con cháu có lạy đến mòn đầu gối, xác chết cũng không có chút xao động nào để đáp trả lại tình cảm thương yêu của quý vị dành cho.
Vả lại, khi cha mẹ còn sống, nếu quý vị có muốn lạy, quý vị cũng không lạy người khi người còn ngủ. Vì lúc ngủ, linh hồn vẫn còn trong thân thể, mà quý vị còn không lạy nữa. Huống gì khi người chết, linh hồn đã lìa khỏi thể xác, còn thi hài chỉ là một thể vô tri, vô giác thì quí vị lạy có ích gì không?
25. Đức Chúa Trời
Hỏi: Các ông theo đạo Tin Lành, thờ kính Đức Chúa Trời; vậy Đức Chúa Trời là Ai?
Đáp: Đức Chúa Trời không phải là trời, không phải là đất, không phải lý, không phải khí, không phải tánh, không phải người, không phải vật, không phải quỷ thần mà là Đấng Chủ Tể tạo nên trời, đất, muôn vật và loài người.
Ngài là Chúa của mọi dân tộc, là Vua của muôn vua, Ngài không có sự đầu tiên, không có cuối cùng. Ngài trọn tài, trọn trí, trọn lành, Ngài là Đấng Chí Tôn không ai sánh bằng.
Chúng ta thử nghĩ: Con có cha, nhà có chủ, nước có vua, sông có nguồn, thân thể có đầu, cây có rễ. Nếu con không có cha, thì ai là người sinh dưỡng?
Nếu nhà không có chủ thì ai là người bảo quản chăm sóc? Nước không có vua sẽ không có người cai trị, và nước loạn. Sông không có nguồn, sông sẽ cạn dòng. Thân thể không có đầu sẽ chết. Cây không có rễ, cây sẽ phải khô héo.
Cũng như vậy, nếu không có Đức Chúa Trời, tất sẽ không có vũ trụ và vạn vật như ngày hôm nay. Người quân tử xem thấy ngọn thì biết gốc, xét lý lẽ biết rõ nguồn cơn. Cho nên, chúng ta nhìn thấy trời, đất, muôn vật và loài người thì tất nhiên phải biết rằng có một Đấng Tạo Hóa.
26. Đức Chúa Trời Trọn Tài, Trọn Trí, Trọn Lành
Hỏi: Tại sao các ông cho rằng Đức Chúa Trời trọn tài, trọn trí, trọn lành?
Đáp: Đức Chúa Trời từ trong hư không mà tạo nên trời, đất, muôn vật.
Ngài không sử dụng tài liệu, không phí công, nhọc sức. Ngài phán điều gì thì có điều đó. Ngài phán sanh ra thì có sanh ra. Ngài phán bảo chết thì có sự chết. Vì thế chúng tôi tôn xưng Ngài trọn tài.
Không những Đức Chúa Trời chỉ tạo dựng nên trời, đất, muôn vật, mà Ngài còn am hiểu tất cà những đặc tính của muôn vật trong trời đất. Vì thế, Ngài mới có thể đặt để muôn vật vào đúng vị trí, đồng thời bảo toàn mọi vật bền vững lâu dài. Ngài nhìn thấu rõ tất cả các việc lành, dữ trong nhân gian kể cả những ý tưởng kín giấu trong lòng của mỗi người. Do đó, chúng tôi tôn xưng Ngài là trọn trí.
Đức Chúa Trời là Gốc của tất cả các điều lành, là Nguồn của mọi điều tốt đẹp, không kém, không thiếu chút nào cả. Tất cả những cái đẹp đẽ trong trời, đất và muôn vật đều từ Đức Chúa Trời mà đến. Vì thế chúng tôi tôn xưng Ngài là trọn lành.
27. Đức Chúa Trời Dựng Nên Người Dữ
Hỏi: Các ông nói Đức Chúa Trời là Đấng trọn lành, tại sao lại tạo dựng ra kẻ ác?
Đáp: Đức Chúa Trời là Đấng Chân Thần. Ngài phú cho loài người vốn có bản tính tốt. Ấy như thầy Mạnh Tử nói rằng: “Tính người vốn lành, cũng như tính chất của nước thường chảy xuống chổ thấp, không có người nào là người không lành, không có nước nào là nước không chảy xuống chổ thấp.”
Đức Chúa Trời ban cho loài người quyền tự chủ, nghĩa là chọn điều lành hay điều dữ là tùy ý mỗi người. Vì có sự tự chủ nên người ta vẫn biết điều lành là tốt, và điều ác là xấu; nếu không, thì người ta đâu màn đến việc tu tâm dưỡng tánh để lập công đức? Người ta làm ác là vì tự họ muốn làm ác chứ không phải do Đức Chúa Trời dựng nên như vậy. Cũng như cha mẹ, ai cũng muốn con mình là người hiền lành tử tế. Nhưng nếu có đứa ngổ nghịch, không vâng lời dạy dỗ của cha mẹ, là tại nó chứ không có cha mẹ nào muốn con mình như vậy.
Có người lại hỏi: Vì cha mẹ là những người trần thế không có quyền phép, cho nên dù có muốn con mình nên người tốt, cũng không làm được. Còn Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, Ngài làm được mọi việc, tại sao Ngài không khiến cho tất cả mọi người đều tốt lành, đúng theo ý chỉ trọn vẹn của Ngài?
Đáp: Dù Đức Chúa Trời có quyền phép làm được mọi việc, nhưng Ngài không xem chúng ta như nô lệ. Ngài không bắt buộc chúng ta phải làm điều này hay điều kia. Ngài cũng không đối xử với chúng ta như với loài thảo mộc vô tri, đặt đâu thì ở yên nơi đó, bảo sao hay vậy. Nhưng Ngài xem loài người
cao quý hơn vạn vật, vì đã ban cho chúng ta linh tánh, ý chí, lương tâm biết phân biệt điều thiện và điều ác và quyền tự chủ để chúng ta có tự do lựa chọn con đường của riêng mình. Trả lại cho sự ban cho đó, trong ngày cuối cùng, mỗi người sẽ phải chịu sự phán xét của Đức Chúa Trời cho sự chọn lựa của mình lúc còn sống.
28. Chân Thần Sinh Ra Thú Dữ
Hỏi: Các ông nói Chân Thần là Đấng trọn lành, sinh ra muôn vật để nuôi dưỡng loài người, tại sao Ngài lại còn sinh ra những loài thú dữ, loài rắn rít, sâu bọ để làm hại con người vậy?
Đáp: Những loài thú dữ, loài rắn và các loài sâu tuy có gây hại cho người, nhưng cũng hữu ích cho người. Vì sự hiểu biết của chúng ta còn nông cạn, chưa thông suốt đặc tính của các loài nên không hiểu rõ sự ích lợi của chúng. Thí dụ như xương cọp, mật gấu, rắn rít, bò cạp, cũng có khi được sử dụng làm thuốc chữa bệnh. Đấng Chân Thần đã tạo ra chúng và những cảnh vật tốt tươi xinh đẹp trong trời đất để tõ rõ quyền năng siêu phàm của Ngài.
Cũng như có ánh sáng mà không có bóng tối, thì làm sao có ngày và đêm? Có màu trắng, không có màu đen, thì sao ta có thể phối hợp được năm sắc màu?
Có vị ngọt, không có vị đắng thì làm sao ra được năm mùi vị?
Vì thế cho nên, vạn vật, không phân biệt lớn, nhỏ, tốt, xấu, tất cả đều hữu ích cho chúng ta. Có những loài thú hiền lành để giúp chúng ta làm điều lành để được thưởng. Có loài thú hung dữ để răn đe chúng ta không làm điều ác mà phải bị phạt. Chỉ tại chúng ta không suy xét lý lẽ ấy mà thôi.
Kinh Thánh có chép rằng: “Vì muôn vật đều là từ Ngài, bởi Ngài, và hướng về Ngài, vinh hiển cho Ngài đời đời vô cùng!” (Rô-ma 11:36)
Vả lại, thuở ban đầu, tất cả các loài thú đều phục tùng con người. Về sau, vì loài người phạm tội không tuân phục Đức Chúa Trời, bị xa cách khỏi Ngài, nên một số loài thú biến đổi thành hung dữ và gây hại cho loài người.
Sau này, trong nước Hòa Bình do Đức Chúa Giê-su thành lập trên mặt đất, các loài thú dữ sẽ biến cải trở lại thành hiền lành và phục tùng loài người.
29. Một Chúa Cai Quản Cả Trời Đất Muôn Vật
Hỏi: Nhờ các ông giải thích, chúng tôi đã biết chỉ có một Đức Chúa Trời.
Nhưng, trời đất rộng bao la, muôn vật nhiều như thế. Chỉ có mỗi mình Chúa thì làm sao cai quản cho xiết?
Đáp: Cả vủ trụ này chỉ có một Chúa mà thôi, cũng như quốc gia chỉ có một người đứng đầu, gia đình chỉ có một người làm chủ, thân thể chỉ có một cái đầu. Nếu một nước mà có hai vua, thì nước ấy sẽ loạn; gia đình có hai chủ thì gia đình phải chia rẽ; thân thể có hai đầu, thì thành ra quái nhân.
Thầy Mạnh Tử có nói rằng: “Trời không có hai mặt, dân không hai vua.”
Từ đó chúng ta suy ra, trời đất chỉ có một Chúa Chí Tôn mà thôi, không thể có hai được.
Có người lại nói rằng: Trong nước chỉ có một vua thì đúng rồi, nhưng cũng cần phải có các quan lại dưới quyền để giúp vua cai trị nước. Như vậy, dù chỉ có một Đức Chúa Trời nhưng cũng cần có các thần khác để giúp Ngài cai quản vũ trụ này chứ!
Xin Đáp: Chúng ta không thể so sánh vua dưới trần với Chúa của vũ trụ được, vì vua cũng là người, nên không thể đồng một lúc chia thân ra để hiện diện khắp mọi nơi. Vua cũng không thể thông hiểu và làm được mọi việc, do đó vua phải cần có các quan lại dưới quyền làm tai, mắt, vi, cánh để giúp vua cai trị đất nước.
Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, là Chúa Cao Cả, là Đấng Toàn Năng, thông suốt hết mọi việc trên trời dưới đất. Ngài làm được tất cả, hiện diện cùng lúc ở khắp mọi nơi, mọi chốn. Ngài nghe và thấy tất cả những việc lớn nhỏ, kể cả những việc kín giấu trong tận đáy lòng của một người, như thánh hiền đã nói: “Đức Chúa Trời nhìn người, người đừng hai lòng” và cũng có câu: “Người đời nói riêng, Trời nghe như sấm.” Như vậy, Đức Chúa Trời cần gì phải có các thần khác làm tai, mắt cho Ngài để cai quản vũ trụ? Với quyền phép thiên thượng, duy nhất chỉ mình Ngài cai quản và bảo tồn vũ trụ cho đến ngày hôm nay.
Đức Chúa Trời rất xứng đáng để chúng ta thờ phượng, và chúng ta chỉ nên thờ duy nhất chỉ mỗi mình Ngài mà thôi. Ngoài ra chúng ta không cần thờ bất cứ thần nào khác cả.
30. Chân Thần Bởi Đâu Sinh Ra?
Hỏi: Các ông nói tất cả vũ trụ này đều do Đấng Chân Thần tạo nên, như vậy chỉ có một Chúa. Lý lẽ này chúng tôi đã thông hiểu. Vậy chúng tôi xin hỏi:
Đấng Chân Thần từ đâu sinh ra?
Đáp: Chân Thần là Nguồn Gốc của muôn loài, nhưng về phần mình thì không có nguồn gốc, vì Ngài là Đầu Tiên của muôn vật, nhưng tự mình Ngài thì không có đầu tiên. Nếu Chân Thần còn phải sinh ra từ một Đấng nào khác, thì Ngài không còn là Chân Thần độc nhất vô nhị nữa.
Vả lại, Đức Chúa Trời sanh ra muôn vật. Khởi sự từ muôn vật mà kể lên đến Đức Chúa Trời là tột bậc rồi, không còn chổ để kể lên nữa. Như vậy, quý vị hỏi ai sanh ra Đức Chúa Trời là một câu hỏi rất vô lý! Chúng ta thử quan sát loài cây cỏ: hoa lá mọc ra từ nhánh, nhánh mọc ra từ thân cây, thân cây ra từ rễ cây, rễ là cội của cây. Chúng ta không thể hỏi dưới rễ cây còn có gì nữa, vì nó là tột cùng rồi. Cũng như thế, Đức Chúa Trời là rễ của cả cây. Có lý nào chúng ta lại còn hỏi: “Ai sinh ra Đức Chúa Trời?”
Chúng ta thử truy xét phả hệ của loài người. Người ta được sinh ra từ cha mẹ, cha mẹ sinh ra từ ông bà, ông bà sinh ra từ ông bà cố, cứ như thế mà kể mãi lên đến ông kỵ, ông cao, ông cao cao tổ, ông viễn viễn tổ ở đời thượng cổ, có lẽ không thể kể sao cho hết được. Cuối cùng, chúng ta phải chấp nhận rằng: Kể từ khi trời đất được tạo dựng nên, chắc chắn phải có một người nam và một người nữ, rồi từ đó sinh sãn ra dòng dõi loài người đông đúc cho đến ngày hôm nay. Người nam và người nữ ấy là nguyên tổ của loài người. Vậy nguyên tổ của loài người do ai sinh ra? Chúng tôi xin thưa rằng: Ấy là do Đức Chúa Trời tạo nên. Như vậy, chẳng những Chân Thần là Cội Rễ của trời, đất, muôn vật, mà còn là Tổ Tông của loài người. Như thế đó, loài người không thờ kính Ngài mà được sao?
31. Chân Thần Không Có Cuối Cùng
Hỏi: Chúng tôi hiểu rõ Chân Thần không có đầu tiên, và Ngài là Đầu Tiên của muôn vật. Nhưng chúng tôi xin hỏi thêm: Các ông nói Chân Thần không có cuối cùng nghĩa là gì?
Đáp: Bất cứ vật gì đã có cuối cùng, tất phải có đầu tiên, như xác thịt của loài người và của loài thú, có sinh ra, thì có chết. Nhưng Chân Thần là Đấng vô hình, vô tượng, đã không có đầu tiên thì làm sao có cuối cùng. Vậy nên chúng ta xưng Ngài là Đấng trọn tài, trọn trí, vô thủy, vô chung, là Đấng hằng sống đời đời vô cùng.
32. Không Nhìn Thấy Chân Thần Được
Hỏi: Xin các ông cho biết có người nào đã thấy Đức Chúa Trời chưa?
Đáp: Chúng ta nên biết Đức Chúa Trời mà chúng tôi thờ lạy chính là Đức Thượng Đế mà các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh thường đề cập đến. Đức Chúa Trời là đấng vô hình, vô tượng như trong Kinh Thi đã viết: “Các việc trên trời không tiếng, không hơi.” Sách Trung Dung cũng có viết: “Xem mà không thấy, lắng mà không nghe, cho nên người quân tử răn giữ chổ mình không thấy, e sợ chổ mình không nghe.”
Nếu không có một Đấng Chân Thần vô hình, vô tượng, vậy việc người quân tử răn giữ, e sợ đó là việc gì? Vả lại, nếu dùng lý trí mà phán đoán, dù không nhìn thấy, chúng ta vẫn phải tin có Đấng Chân Thần Chủ Tể vạn vật; cũng như dù chúng ta không nhìn thấy tổ tông các đời trước, nhưng có ai dám cho rằng đời trước không có tổ tông sao?
Người sáng suốt chỉ cần suy lý lẽ mà biết đến nguồn cơn. Cũng như khi chúng ta nhìn thấy ngôi nhà thì biết có người thợ xây dựng; nhìn thấy ánh sáng thì biết có mặt trời; thấy khói thì biết có lửa; thấy quốc gia có luật pháp thì biết có chính phủ; thấy vũ trụ và vạn vật thì biết có Đức Chúa Trời. Giả sử không có tổ tông, làm sao có con cháu? Không có thợ xây dựng thì sao có cái nhà? Không có mặt trời thì không có ánh sáng; không có lửa sẽ không có khói; không có chính phủ thì không có luật pháp. Cũng như vậy, nếu không có Đức Chúa Trời, thì vũ trụ và vạn vật này từ đâu mà có?
Kinh Thánh chép rằng: “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: Không có Đức Chúa Trời” (Thi-Thiên 14:1). Người khôn ngoan dùng lý trí mà suy xét, nếu hợp lý thì tin, vô lý thì không tin.
Cũng như người Việt Nam tin rằng Hùng Vương là tổ của nước mình, nhưng đã có ai từng thấy mặt Hùng Vương chưa? Vậy, khi nghe chúng tôi nói rằng có một Chân Thần, tức là Đức Chúa Trời đang tể trị vũ trụ và vạn vật, quý vị hãy dùng lý trí mà suy xét, lấy Kinh Thánh chứng minh để đến kết luận rằng phải có Đức Chúa Trời. Có thể nào người khôn ngoan không tin được hay sao?
33. Đức Chúa Trời Tức Là Thượng Đế
Hỏi: Dân Việt Nam từ xưa đến nay vẫn sùng bái đạo Nho, nhưng trong Nho học, chúng tôi không thấy nói đến Đức Chúa Trời là Chân Thần, tại sao các ông lại đặt điều như thế?
Đáp: Như chúng tôi đã nói trong các bài trước, Đức Chúa Trời mà chúng tôi thờ lạy đây tức là Thượng Đế mà trong các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh thường nói đến. Còn về danh xưng Chân Thần thì ý nghĩa của nó cũng không khác với danh xưng Thượng Đế. Vì trong nhân gian có quá nhiều thần giả hiệu, nên chúng tôi thêm chữ “Chân” vào chữ “Thần” (tức Chân Thần) để phân biệt với giả thần. Vua các nước lớn được gọi là Đế, vì thế, chúng tôi thêm chữ “Thượng” vào (tức là “Thượng Đế”) để tôn Ngài lên trên tất cả các vua.
Kinh Thi có câu: “Khắc phối Thượng Đế.” Thầy Chu Tử giải nghĩa như sau: “Thượng Đế là Đấng Chủ Tể trên trời.” và cũng trong Kinh Thi viết: “Hữu Hoàng Thượng Đế.” Thầy Trình giải nghĩa: “Nói về hình thể, thì gọi là Trời; nói về quyền chủ tể, thì gọi là Thượng Đế.” Cả hai lời giải thích trên đều có cùng một ý nghĩa với danh hiệu Chân Thần. Vì vậy Đấng Chân Thần mà hiện nay chúng tôi đang thờ kính chính là Đức Thượng Đế mà các thánh hiền đời xưa kính thờ.
Thật đáng tiếc! Người đời thường vi phạm điều răn thứ ba, trong số mười điều răn của Chúa là, lấy danh Ngài làm chơi; đây là một trọng tội. Có người xưng Ngọc Hoàng là Thượng Đế, lại có kẻ xưng Chân Vũ là Thượng Đế, cũng có kẻ xưng Lão Quân và Hiệp Thiên là Thượng Đế. Do đó, chúng tôi phải dùng danh hiệu Chân Thần để phân biệt với các tà thần. Vả lại, Lão Quân sinh vào đời nhà Châu, Ngọc Hoàng sinh vào đời nhà Hán. Hiệp Thiên sinh vào đời Hậu Hán, Chân Vũ thì đến triều Minh mới được phong. Những nhân vật ấy là những người thường như chúng ta, có sống, có chết. Trước khi các ông ấy được sinh ra, thì đã có trời, đất và muôn vật, thì tại sao các ông ấy có thể làm chủ tể trời, đất, muôn vật này được? Tôn xưng họ là Thượng Đế là điều vô lý.
Khi đọc Ngũ Kinh và Tứ Thư, chúng ta chỉ thấy các bậc thánh hiền thờ kính Đức Thượng Đế, chứ không thấy ai thờ Lão Quân, Ngọc Hoàng, là các tà thần. Trong Kinh Thi có chép lời vua Thang, rằng: “Ta sợ Đức Thượng Đế,” và lời của Võ Vương rằng: “Ta kính vâng Đức Thượng Đế để ngăn loạn lạc.” Còn ông Khổng Tử thì nói: “Lễ Tế giao, tế xã để thờ Đức Thượng Đế.” Cũng còn nhiều câu chữ đề cập đến Thượng Đế nữa, nhưng không thể nào kể hết được.
Chúng tôi chỉ nêu ra vài câu điển hình để chứng minh rằng các bậc thánh hiền ấy chỉ kính thờ và tin cậy một Đấng Chân Thần Thượng Đế mà thôi, và cũng để chứng tỏ chúng tôi tin đạo thật, thờ Đức Thượng Đế, tức là Đức Chúa Trời, là hợp theo lời dạy của thánh hiền vậy.
Chú thích của người hiệu đính:
Ngày nay, người ta không dùng danh xưng “Thượng Đế” để xưng gọi Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của muôn loài muôn vật, mà chỉ dùng để gọi nhiều tà thần của các ngoại giáo. Trong Đạo Giáo Trung Quốc, Thượng đế là một vị thần cai quản trên cao, điều hành cõi thần linh, còn được gọi là Ngọc Hoàng. Trong Hồi Giáo, Thượng đế là Allah. Trong Ấn Độ Giáo, Thượng Đế là Brahma. Trong đạo Cao Đài, Thượng Đế là Cao Đài Tiên Ông. Trong Phật Giáo, Thượng Đế là Đế Thích.
34. Thiên Đàng, Hỏa Ngục
Hỏi: Các ông tin có Thiên Đàng là nơi hạnh phúc đời đời để ban thưởng cho người hiền, có Hỏa Ngục là nơi khổ hình để trừng phạt kẻ dữ, nhưng trong các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh không thấy có nói đến hai nơi đó. Vậy, tại sao các ông lại tin?
Đáp: Người đời bây giờ, đọc sách xưa không thông hiểu cho tường tận ý nghĩa, rồi cho rằng người xưa chưa hề nói đến Thiên Đàng, hỏa ngục. Đấy là lầm lớn. Chúng ta hãy xem Kinh Thi nói rằng: “Tam hậu tại Thiên,” (nghĩa là “Ba vua ở trên trời”) và “Văn vương trắc, giáng tại Đế tả hữu” (nghĩa là “Văn
Vương lên xuống ở bên trái và bên phải của Thượng Đế.” Ấy là nói về Thiên Đàng đó. Quý vị xem các câu trích dẫn trên đủ biết người xưa cũng đã công nhận có Thiên Đàng rồi. Vì nó rất xinh đẹp và vui thỏa, không có từ nào diễn tả cho được nên chúng ta gọi nơi chốn đó là Thiên Đàng.
Có Thiên Đàng thì cũng phải có hỏa ngục, vì có ban thưởng, tất nhiên phải có trừng phạt. Những người tôn thờ Đức Chúa Trời và tin nhận Đức Chúa Giê-su đã được lên Thiên Đàng rồi, còn những kẻ gian ác, vô đạo cũng lên Thiên Đàng được sao? Chắc chắn phải xuống hỏa ngục. Hỏa ngục là nơi ma quỷ và linh hồn những tội nhân bị hình phạt đời đời không suy giảm và không bao giờ chấm dứt.
35. Linh Hồn Bất Diệt
Hỏi: Người ta chết thì cũng như ngọn đèn đã tắt, còn đâu có linh hồn để được thưởng hay chịu phạt?
Đáp: Loài người khác với loài cầm thú, vì loài người được Đấng Chân Thần phú ban cho linh hồn. Nhờ đó loài người có cảm xúc và biết phân biệt điều thiện và điều ác. Linh hồn trú ngụ trong thân thể cũng như người ta ở trong cái nhà. Khi linh hồn lìa khỏi thể xác, thân xác bị hư hoại và phân hủy nhưng linh hồn thì trường tồn. Nếu linh hồn của một người tiêu tan sau khi người ấy chết đi, vậy thì làm điều thiện lúc còn sống có lợi ích gì và làm ác có hại gì? Nếu làm việc lành khó hơn làm việc ác chi bằng ta chọn việc làm ác cho dễ hơn không?
Thuở xưa, ông Nhan Hồi là người làm việc thiện mà lại yểu mạng, còn Đạo Chích chuyên làm điều ác mà sống lâu. Nếu quý vị cho rằng con người không có linh hồn, vậy có ai còn nghĩ đến làm việc thiện như Nhan Hồi? Có người cho rằng: làm việc thiện không phải vì linh hồn mà là vì muốn lưu danh muôn đời. Nếu vậy, dù cho danh tiếng có được lưu lại ngàn đời đi chăng nữa, nhưng một khi thể xác đã tan theo bụi đất, thì danh tiếng ngàn thu ấy có đủ để bù đắp lại những chịu đựng, khổ ải lúc chúng ta còn tại thế hay không? Chúng ta thường chứng kiến cảnh người lương thiện bị hoạn nạn, kẻ hung ác được sung sướng. Nếu chúng ta cho rằng không có linh hồn, vậy sau khi chết sẽ không có báo ứng. Nếu vậy chẳng phải con người được tự do làm điều ác hay sao? Vậy, chúng ta phải tin rằng có linh hồn bất diệt, và lưới Trời không để một ai thoát khỏi cả.
Người đời vì không biết có sự báo trả cho linh hồn sau cái chết, nên khi làm việc thiện, mong muốn bản thân mình được đền đáp ngay lúc còn trên dương thế, hoặc con cháu mình sẽ được báo đền. Nếu không đạt được điều mong muốn, ý chí làm lành của họ sẽ nguội lạnh dần dần, và về sau có thể họ sẽ đổi thành kẻ ác. Đó là lỗi vì không biết rằng mình có linh hồn.
36. Thiên Sứ, Ma quỉ, Và Linh Hồn Người Ta
Hỏi: Người ta chết thành ma quỉ, như vậy ma quỉ cũng có thể chuyển đổi làm kiếp con người; lý luận này có đúng không?
Đáp: Thiên sứ, loài người và ma quỉ là ba loài khác nhau. Vì nhiều người không hiểu rõ căn nguyên nên thường lẫn lộn, Thiên sứ và ma quỉ đều vô hình, vô tượng. Trước khi Đức Chúa Trời tạo nên loài người, Ngài đã tạo ra các Thiên sứ để phục vụ Ngài. Trong số các Thiên sứ mà Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên, có một vị tên Satan. Vị này ỷ thế mình tài giỏi, quyền phép cao cường nên sinh lòng kiêu căng. Satan kết đảng với một số thiên sứ phản nghịch chống lại Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bèn trừng phạt đám thiên sứ phản loạn ấy và giam vào hỏa ngục để chịu hình phạt đời đời; đó là ma quỉ. Còn các thiên sứ khác không nhập bọn với bầy thiên sứ phản loạn ấy được ở lại với Đức Chúa Trời nơi Thiên quốc.
Sau khi Đức Chúa Trời trừng phạt đám thiên sứ phản nghịch đó, Ngài mới tạo dựng nên loài người giống hình ảnh của Ngài. Ngài tạo ra một người đàn ông tên A-đam, và một người đàn bà tên Ê-va. Từ bụi đất, Ngài đã tạo ra thể xác loài người và hà linh khí vào. Do đó người trở nên một loài sinh linh, tức là giống loài có linh hồn. Đức Chúa Trời truyền dạy loài người phải biết kính mến và vâng lời Ngài thì sẽ được hưởng phúc vô tận. Nếu người nào rời bỏ Chúa và làm điều ác, sau khi chết phần xác, linh hồn phải sa xuống hỏa ngục, là nơi Đức Chúa Trời dành sẵn cho ma quỉ, để nhận chịu hình phạt đời đời.
Không còn có việc đầu thai chuyển kiếp đi đâu khác nữa cả.
Đấy là nguồn gốc, lai lịch của thiên sứ, ma quỉ, và linh hồn người ta.
37. Ma Quỉ Ở Thế Gian
Hỏi: Có những người có tà thuật thường làm được những việc quái lạ trên thế gian. Nếu không có sự giúp sức của ma quỉ, chắc họ không thể làm được những điều như thế. Nếu Chúa biết ma quỉ ở thế gian này vẫn theo cám dỗ loài người, tại sao Ngài không nghiêm cấm chúng và biệt giam luôn dưới hỏa ngục?
Đáp: Mục đích của ma quỉ là hãm hại loài người cùng chịu chung số phận về sau với chúng. Vì kỳ hạn để trừng phạt ma quỉ chưa đến, do đó Đức Chúa Trời để chúng tạm trú trên thế gian. Ngài cho phép chúng đi đây đi đó để lôi kéo những người ác, hoặc rèn thử người hiền. Đức Chúa Trời, là Đấng Toàn Năng, Ngài tận dụng cơ hội này để làm ích lợi cho loài người. Chúng tôi xin đưa ra những thí dụ như sau:
1. Có nhiều người không tin có ma quỉ, cho đến khi chúng nhập vào thân xác họ và điều khiển họ làm những việc kỳ quái. Và, một khi đã nhận có ma quỉ, tất nhiên phải tin có Đấng Chân Thần. Nhờ vậy mà họ sẽ tỉnh ngộ và lánh xa ma quỉ để tìm kiếm Đức Chúa Trời.
2. Đức Chúa Trời đã không tiếc gì các thiên sứ nghịch mạng mà ấn định chúng phải nhận chịu án khổ hình đời đời nơi hỏa ngục, thì không có lý nào Ngài lại bỏ qua không trừng phạt những kẻ trái nghịch mạng Ngài. Do đó, người đời biết ăn năn hối hận mà trở lại quy phục Ngài.
3. Ma quỉ cũng được sử dụng để rèn luyện người tốt, như lửa luyện vàng, càng luyện, tuổi vàng càng cao. Nếu không có ma quỉ cám dỗ thì làm sao xác định được người trung thành với Chúa?
Vả lại, dù cho ma quỉ được quyền cám dỗ loài người phạm tội, nhưng chúng không có quyền bắt ép loài người làm ác. Nghe theo chúng hay không là tùy ở sự quyết định của mỗi người. Hơn nữa, Đức Chúa Trời luôn giúp sức cho loài người đối địch cùng ma quỉ. Ngài ban cho người ta lẽ thật Tin Lành và dạy cho họ cách thức để chiến thắng chúng nó.
Chúng ta là những chiến sĩ của Chúa, cần phải chiến thắng ma quỉ ở thế gian để thẳng tiến lên Thiên Đàng. Vì vậy, chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức mà cầu nguyện, nhờ vào sức toàn năng của Đức Chúa Trời để khỏi rơi vào mưu chước cám dỗ của ma quỉ, và đánh trận tốt lành mà lĩnh mão triều thiên của sự sống.
38. Sự Công Bình Của Đức Chúa Trời
Hỏi: Các ông nói Đức Chúa Trời rất công bình, cứ làm việc lành thì được thưởng, làm điều ác thì chịu phạt; nhưng tại sao có những người lương thiện lại ở trong hoàn cảnh khổ sở, kẻ hung ác thì sống trong sung sướng? Như thế sự công bình của Đức Chúa Trời ở đâu?
Đáp: Làm lành được thưởng, làm ác phải chịu phạt, đó là điều chắc chắn, không còn gì để nghi ngờ. Kinh Thi có chép rằng: “Noi lành thì được lành, theo nghịch thì mắc dữ, như bóng và vong.” Và cũng nói: “Đạo Trời xuống phước cho kẻ lành, xuống họa cho kẻ dữ.” Luật thưởng việc thiện, phạt điều ác thời nào cũng như thế, không hề thay đổi. Nhưng chúng ta cũng phải biết rằng Đức Chúa Trời giáng họa không phải chỉ trong đời này mà còn hình phạt ở đời sau nữa.
Vả lại, chúng ta không thể nhận biết một cách tuyệt đối điều gì gọi là thiện. Thiện thật tức là không vi phạm bất cứ một điều răn nào của Chúa; từ tư tưởng cho đến lời nói, hành động đều tuân phục hoàn toàn ý chỉ của Chúa. Nếu có một chút gì không hợp thì chưa phải là thiện. Vì vậy, có những việc chúng ta nhận thấy là thiện, nhưng đối với Đức Chúa Trời thì lại là ác, vì Ngài thấy được tận đáy lòng của chúng ta. Chúng ta đã không có khả năng nhận biết chính xác được thiện và ác, thì sao chúng ta có thể phán đoán được việc thưởng ấy, phạt ấy là đúng hay sai?
Và cũng còn điều này nữa: Thế gian này chỉ là cỏi tạm, vì thế vinh hoa, phú quý, hoạn nạn và bần cùng trên đời cũng chỉ là tạm chứ chưa hẳn là phúc hay họa thật; phúc thật và họa thật chỉ có sau khi linh hồn rời khỏi thân xác.
Có người gian ác, nhưng cũng làm được một vài việc thiện; Đức Chúa Trời mang vinh hoa, phú quý, là phúc tạm của đời này mà ban cho, để tưởng thưởng những việc thiện ấy. Chỉ đến lúc người ấy lìa trần, Ngài mới lấy hình phạt đời đời nơi hỏa ngục mà báo trả cho những việc ác mà người ấy đã làm.
Còn những người tin theo Chúa, tuy sống đời sống chân chính, hiền lành, nhưng cũng khó tránh khỏi vấp phạm đôi chút tội lỗi. Chúa lấy hoạn nạn, bần cùng là họa tạm của đời này mà trừng phạt cho chút tội lỗi ấy để người tỉnh ngộ. Sau khi người ấy lìa trần Chúa mới mang phúc thật đời đời nơi Thiên đàng mà ban cho để thưởng cho người. Như vậy, không phải là Đức Chúa Trời rất công bình hay sao? Vì thế cho nên mói có chuyện người ác sống trên dương thế lại hưởng sung sướng, vì đến khi lìa trần họ mới phải chịu khổ hình nơi hỏa ngục. Do đó mà có những người theo Chúa đã phải cam chịu khổ nạn nơi dương thế để khi chết sẽ được hưởng phúc vô tận.
Người đời không thông suốt lý lẽ thưởng, phạt như thế nào, không biết thế nào là phúc thật, họa thật nên oán trách Đức Chúa Trời không công bình.
Nhưng chúng ta nên biết: Ngọc có dồi mài mới nên của quý, người có cùng khốn, vất vả mới tìm đến Đức Chúa Trời và tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-su để được hưởng phúc trọn vẹn nơi Thiên Quốc. Có thể như người bất tài mà muốn nên danh phận hay sao?
Chúng tôi là những môn đệ thật của Chúa Giê-su. Lúc còn sống trên dương thế thì chúng tôi lo việc rao truyền đạo thật. Mặc dù bị bắt bớ, vu cáo, khổ sở muôn điều, nhưng chúng tôi vẫn quyết tâm nhịn nhục cho đến ngày cuối cùng, hầu mong hưởng được phúc thật mãi mãi nơi Thiên Đàng.
39. Sự Nhân Từ Của Đức Chúa Trời
Hỏi: Chúng tôi nhận thấy kẻ ác trên đời thường hãm hại người lương thiện. Nếu Đức Chúa Trời là Đấng công bình, tại sao Ngài không tiêu diệt hết kẻ ác để báo thù cho người lương thiện?
Đáp: Đức Chúa Trời rất công bình, nhưng Ngài cũng rất nhân từ. Vì công bình Ngài muốn trừng phạt kẻ ác, nhưng vì nhân từ Ngài cũng muốn tha thứ.
Đức Chúa Trời lại rất hiếu sinh, do vậy mà trời, đất, muôn vật và loài người đã được dựng nên nhờ sự nhân từ của Ngài. Đức Chúa Trời cũng có quyền thưởng, phạt, và linh hồn của mỗi người đều phải nhận chịu sự phán xét ấy. Ngài thể hiện sự công bình trên chính linh hồn của mỗi người. Chúa lấy sự nhân từ đối xử với loài người, vì thế kẻ gian ác vẫn được Ngài vẫn khoan dung. Ngài làm vậy với mục đích là cho họ cơ hội để ăn năn, cải hối, tin nhận Cứu Chúa Giêsu, từ bỏ việc làm ác và làm điều thiện hầu cho linh hồn của họ được cứu.
Nhưng có nhiều người bị tội ác bám rễ quá sâu. Dù đã được đạo thật dạy dỗ nhưng cho đến chết họ cũng vẫn không thể từ bỏ cái ác được. Sau khi họ lìa trần Chúa mới thực hiện sự công bình mà trừng phạt họ, vì nếu Ngài xử phạt kẻ gian ác lúc họ còn tại thế, sợ rằng người lương thiện sẽ bị liên lụy. Tỉ dụ như có một người cha gian ác mà sinh được con hiền (hoặc ngược lại), phạt cha thì con sẽ đơn chiếc. Cũng như vậy, chúng ta thử liên kết các trường hợp khác như anh em, vợ chồng. Vì nhổ cỏ thì hại đến lúa, lễ gai thì chạm đến thịt, chi bằng cứ chờ cho đến lúc cỏ và lúa cùng lớn lên, lúa sẽ được “thâu trữ vào kho, còn cỏ lùng thì đốt trong lữa chẳng hề tắt”.
Như vậy, chúng ta biết Đức Chúa Trời ở cả hai khía cạnh: nhân và nghĩa.
Chúng ta phải cảm tạ ơn Ngài, e sợ sự trừng phạt của Ngài, nhanh chóng tỉnh ngộ, ăn năn, thờ kính Đức Chúa Trời, và tin cậy Đấng Cứu Thế để linh hồn được cứu đời đời.
40. Chúa Sinh Người Có Thứ Bậc
Hỏi: Các ông nói Đức Chúa Trời rất công bình, nếu Ngài mang tất cả những của cải trên đất này chia đều cho mỗi người, để người nào cũng có được phần như nhau, không có kẻ giàu, người nghèo, như vậy chẳng tốt hơn hay sao?
Đáp: Đức Chúa Trời tạo dựng ra loài người, có kẻ giàu, người nghèo, mới thành ra một xã hội được. Ngài thường dùng sự giàu và nghèo mà báo trả cho cách sống và đối xử của con người: Nếu làm người mà giữ gìn được lòng thành, làm nhiều việc thiện, biết sống tiết kiệm không xa hoa lãng phí, không ngại sự khó nhọc, ắt hẳn có thể trở nên giàu có được. Còn nếu người giàu mà đối xử hung ác, hãm hại người lương thiện, sống nếp sống xa xỉ, hoang dâm vô độ, vẫn có thể trở thành nghèo khổ. Sự giàu và nghèo của đời người thường luân chuyển như thế đó.
Đức Chúa Trời tạo ra chúng ta, mỗi người đều có đầy đủ tứ chi, nội tạng và trí óc để làm ăn sinh sống. Trong xã hội có bốn loại nghề nghiệp: sĩ, nông, công, thương. Nếu Đức Chúa Trời sinh ra tất cả mọi người đều giàu cả, vậy ai là người làm thợ và ai làm nghề nông? Không có người làm thợ thì các vật dụng sinh hoạt lấy ở đâu ra để chúng ta sử dụng? Không có nông dân thì ai là người cày ruộng để chúng ta có thóc lúa mà ăn? Không có các vật dụng cho sinh hoạt, không có gạo ăn, chúng ta sẽ chỉ như là loài cầm thú. Còn nếu Đức Chúa Trời tạo ra tất cả loài người đều nghèo cả thì ai sẽ là người có tiền để thuê thợ? Không có người bỏ tiền kinh doanh, người nghèo chắc sẽ rất khốn khổ vì không ai có thể nhờ được ai cả. Do vậy mà Chúa khiến có kẻ nghèo, người giàu, người giàu có của, kẻ nghèo có công, mọi người nương nhờ nhau mà sống. Người xưa có câu: “Quân tử nhọc lòng, tiểu nhân nhọc sức.” Xã hội mà không có kẻ giàu người nghèo thì không còn là xã hội của loài người nữa, và chúng ta cũng giống như một loài trong số các loài cầm thú mà Chúa đã dựng nên.
Vả lại, Đức Chúa Trời dựng nên loài người cũng như người thợ gốm nắn nên những cái chậu có lớn, có nhỏ, hình thức khác nhau tùy nhu cầu sử dụng.
Cái chậu không thể trách người thợ gốm: “Sao đã làm nên tôi như vậy?” Vậy thì chúng ta có thể oán trách Đức Chúa Trời được sao khi Ngài dựng nên người ta có giàu, có nghèo? Hiểu được như thế, dù chúng ta rơi vào hoàn cảnh nào, giàu hay nghèo cũng nên giữ tấm lòng vui vẽ mà thuận theo ý Chúa. Sách Luận ngữ chép rằng: “Người quân tử lo đạo, chẳng lo nghèo.” Đó là một tư tưởng rất hay chúng ta nên học theo để tiếp nhận đạo của Đức Chúa Giê-xu.
41. Thờ Lạy Đức Chúa Trời Cách Nào?
Hỏi: Nếu muốn thờ lạy Đức Chúa Trời thì chúng tôi phải làm như thế nào?
Đáp: Để thờ lạy Đức Chúa Trời, quý vị không cần phải xây cất đền, đài hay đúc tượng, vì Ngài hiện diện khắp mọi nơi. Quý vị cũng không cần phải dùng vật tế lễ hoặc các lễ vật khác như nhang, đèn, hoa quả, v.v. vì Đức Chúa Trời rất giàu có. Ngài không ngụ trong đền đài do tay người làm nên. Ngài lấy trời làm ngai, lấy đất làm bệ chân. Ngài không cần dùng những vật thực mà con người cần dùng. Ngài có muôn vật để ban cho loài người. Do đó Đức Chúa Trời chỉ muốn người ta lấy tâm thần mà thờ lạy Ngài, tại bất cứ nơi đâu, vào lúc nào cũng đều được cả.
Nhưng vì trong cõi lòng của mỗi con người tự nhiên đều mang mầm mống của tội lỗi, nhơ nhớp, không xứng đáng làm nơi để thờ phụng Đức Chúa Trời, cho nên việc đầu tiên là mỗi người chúng ta phải tự nhận biết mình là một tội nhân đáng gớm ghiếc. Chúng ta phải thật lòng hối cải ăn năn tội, và nhờ vào ơn cứu chuộc của Đức Chúa Giê-su Christ vì Ngài đã phải chịu đổ huyết trên thập tự giá để trả thay cho món nợ tội lỗi của chúng ta. Như vậy, lòng chúng ta mới được tẩy sạch, nhờ đó chúng ta mới có thể lấy đức tin mà tiếp cận với Đức Chúa Trời và hòa hợp với Ngài được. Chúng ta phải tin cậy Đức Chúa Giê-su, là Đấng đưa dẫn con người đến với Đức Chúa Trời, như Ngài đã phán: “Ta là Đướng Đi, Lẽ Thật, và Sự sống; chẳng bởi ta, thì không ai được đến cùng cha” (Giăng 14:6).
Trước mỗi bữa ăn, chúng ta phải cảm tạ Chúa đã nuôi dưỡng mình, cầu xin Chúa ban phước cho những vật thực chúng ta đưa vào cơ thể, để khi chúng ta ăn vào thì thân thể và tâm linh được mạnh mẽ, sức lực gia tăng để hầu việc Chúa cho tròn bổn phận.
Chúng ta có thể ở một mình trong phòng riêng, hoặc tại nơi thanh vắng, quỳ gối mà cầu nguyện. Hoặc cùng với gia đình tổ chức sinh hoạt nhóm mỗi ngày hai buổi, có thể vào lúc sáng sớm hoặc chiều tối tùy theo điều kiện và hoàn cảnh riêng của mỗi gia đình. Chúng ta hát những bài thánh ca tôn vinh Chúa, đọc vài đoạn Kinh thánh, cầu nguyện trình dâng những vấn đề của mình lên cho Chúa. Sau cùng, để kết thúc buổi lễ, một người sẽ cầu nguyện chung cho cả gia đình, còn những người khác phải đồng lòng hiệp ý với người cầu nguyện.
Vào ngày Chúa nhật (ngày thứ 7 trong tuần lễ), chúng ta đến nhà thờ hợp chung với các anh chị em tín hữu để thờ phượng Chúa. Chúng ta cùng hát những bài thánh ca và cùng nhau cầu nguyện trình dâng lên Chúa mọi nan đề trong đời sống. Sau đó, chúng ta nghe mục sư giảng luận và cùng nhau học hỏi
Lời Chúa để cùng tỉnh thức trong Chúa và được sự yên ủi.
Tóm lại, việc thờ phượng Đức Chúa Trời chỉ như thế.
42. Đức Chúa Giê-su Cao Trọng Hơn Các Thánh Hiền
Hỏi: Đức Chúa Giê-su có phải là một vị thánh hiền ở ngoại quốc không?
Đáp: Danh hiệu Giê-su có ý nghĩa là “Cứu Thế.” Ngài có tên là Giê-su vì có nguồn gốc từ trên trời và là Con Đức Chúa Trời giáng thế để chuộc tội cho nhân loại. Nếu so sánh với các thánh hiền, chúng ta sẽ thấy Ngài cao trọng hơn bội phần, xét về tài năng, sự dạy dỗ và công ơn của Ngài đối với con người.
Tài năng: Mặc dù các thánh hiền tài đức vượt trội hơn người khác rất nhiều, nhưng họ cũng chỉ là những người trần thế, sự khôn ngoan và kiến thức có giới hạn, còn rất nhiều lẽ nhiệm mầu trong trời đất họ chưa biết rõ ràng.
Hơn nữa, tất cả các thánh hiền đều phải trải qua một quá trình học tập gian khó mới có được kiến thức hơn người, chứ không phải những hiểu biết đã sẳn có từ trong lòng mẹ, sanh ra là đã biết rồi. Duy nhất chỉ có Đức Chúa Giê-su, là Đấng có sự khôn ngoan, thông sáng của Đức Chúa Trời; Ngài vốn biết sự mầu nhiệm của trời đất mà không cần học hỏi từ nơi nào cả.
Sự dạy dỗ: Các thánh hiền đời xưa dạy người tu sửa mình, chăm lo việc nhà, việc nước, cùng cương thường, lễ nghĩa, v.v. Tất cả đều chỉ là những việc thuộc đời này, những việc đối nhân xử thế. Còn việc thờ phượng Đấng Tạo Hóa, sự chuộc tội lỗi, sự sống lại, sư phán xét thế gian, là những việc thuộc về
Chúa và đời sau, họ không hề nói đến. Cho nên chúng ta không thể xem họ là toàn tri được. Như vậy chúng ta không thể so sánh Đức Chúa Giê-su với các thanh hiền được, vì những gì các thánh hiền nói đến, Đức Chúa Giê-su cũng đã nói, nhưng những điều các thánh hiền không nói đến, Đức Chúa Giê-su đã tỏ ra cho chúng ta rồi.
Công lao: Các thánh hiền đời xưa chỉ lấy lẽ đạo dạy dân, lấy con người mình dẫn dắt người làm thiện chứ không thể hy sinh thân mình để chuộc tội cho loài người. Đức Chúa Giê-su lấy lẽ đạo dạy dỗ muôn dân, dùng thân mình dạy người làm thiện, và Ngài cũng hy sinh thân mình để chuộc tội cho loài người khiến họ nên thánh và linh hồn được cứu. Ngài chỉ phán một lời mà người mù được sáng mắt, người đau được lành, người đã chết được sống lại.
Ngay cả biển đang dậy sóng mà bị Ngài quở cũng phải lặng yên. Đức Chúa Giê-su làm được những việc lạ lùng ấy, còn các thánh hiền có làm được không? Đức Chúa Giê-su làm những phép lạ ấy không phải như người ta dùng tà thuật. Ngài không thực hiện các phép lạ ấy trong bóng tối không ai chứng kiến, mà đã làm giữa công chúng và giữa nơi thanh thiên bạch nhựt, không phải bằng phù phép mà bằng quyền năng của Đức Chúa Trời. Ngài làm những việc ấy không phải để đạt được danh tiếng cho mình, nhưng vì Ngài thương xót loài người và muốn qua những việc làm ấy người ta tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế để linh hồn được cứu.
Những sự việc chúng tôi vừa nêu trên cũng đủ để quý vị biết Đức Chúa Giê-su cao trọng hơn tất cả các thánh hiền trong thiên hạ.
43. Đức Chúa Giê-su Chuộc Tội Loài Người
Hỏi: Đức Chúa Giê-su đã là Con Đức Chúa Trời, tại sao lại bị người ta đóng đinh trên cây thập tự?
Đáp: Tất cả mọi người trên thế gian này đều là tội nhân, đáng bị trừng phạt. Có người ý thức được điều đó nên ra sức lập công đức để chuộc lại tội lỗi, nhưng không thể nào được, vì tội trước chồng chất đã nhiều chưa có cách gì trả được, tội sau lại cứ gia thêm mãi lên. Một người dù cho để cả cuộc đời làm công đức cũng không có chút công đức dư thừa nào để đền cho những tội lỗi đã phạm. Cũng ví như người mắc số nợ quá lớn, về sau dù có mua bằng tiền mặt cũng không thoát khỏi mắc nợ. Vì vậy Đức Chúa Giê-su chịu chết trên cây thập tự là để chuộc tội cho loài người.
Có người nói rằng: “Loài người phạm tội, Chúa muốn tha thì tha, còn không tha thì phạt, sao lại khiến Đức Chúa Giê-su chuộc thay làm gì?”
Xin Đáp: Đức Chúa Trời vừa công bình, vừa có tình yêu thương. Nếu vì loài người phạm tội mà trừng phạt tất cả thì Ngài không có lòng yêu thương; còn nếu tha hết không phạt thì Ngài không công bình. Vì vậy Ngài khiến Đức
Chúa Giê-su giáng thế trả án thay cho nhân loại. Như thế Ngài đã thể hiện được tình thương yêu của Ngài đối với nhân loại, vừa thực hiện được lẽ công bình.
Đời xưa có câu chuyện: Vua nước Hy lạp trách mắng thái tử rằng: “Ta đã ra lệnh người nào trái luật mà hành dâm sẽ bị móc mắt. Nay con vi phạm lịnh ấy, nếu theo luật xử tội con thì ta không đành lòng, còn nếu vị tình riêng mà tha cho con thì ta còn ra lệnh cấm được ai nữa? Nếu con biết hối cải, ta sẽ tự móc một mắt mình thế cho con.” Vua bèn móc một con mắt của mình và truyền lệnh móc một con mắt của thái tử. Thái tử cảm tạ ơn cha và kể từ đó ông trở nên một minh quân.
Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta cũng như vậy. Nhưng thật đáng tiếc vì có nhiều người không biết ăn năn hối lỗi, nhận ơn cứu chuộc như vị thái tử kia.
Từ xưa đến nay, nhiều trung thần, nghĩa sĩ chịu chết vì nước đều được thiên hạ ca tụng. Huống hồ Đức Chúa Giê-su chịu chết cho toàn thể nhân loại; chúng ta nên cảm tạ Ngài về ơn nghĩa ấy, tin cậy và thờ kính Ngài. Làm vậy mới phải lẽ.
44. Câu Chuyện Đức Chúa Giê-xu Là Thật
Hỏi: Các ông nói rẳng Đức Chúa Giê-xu đã chết và sống lại sau ba ngày, nhưng sự việc ấy có thật không?
Đáp: Sự tích Đức Chúa Giê-xu là thật vì có nhiều bằng chứng rõ ràng và thuyết phục:
1- Các nhà tiên tri, có người sống trước Đức Chúa Giê-xu vài trăm năm, có người cả ngàn năm, được Đức Chúa Trời soi dẫn viết nên Kinh Thánh Cựu Ước. Được sự mạc khải của Ngài, họ đã báo trước Đấng Cứu Thế sẽ giáng sinh tại đâu, thuộc dòng dõi ai, chịu nhục hình ra sao, sống lại và thăng thiên như thể nào. Tất cả đều ứng nghiệm nơi Đức Chúa Giê-xu.
2- Từ buổi ban đầu, Đức Chúa Trời e sợ loài người không hiểu rõ giáo lý của sự chuộc tội, nên Ngài đã truyền lịnh dâng bò, chiên làm tế lễ để ám chỉ về ơn chuộc tội. Về sau, Đức Chúa Giê-xu hy sinh mạng sống trên thập tự giá để làm ứng nghiệm sự dạy dỗ ấy; nghĩa là chính mình Ngài trở nên của lễ chuộc tội cho loài người.
3- Khi Đức Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết và lên trời, Ngài truyền dạy các môn đồ làm chứng về sự sống lại và thăng thiên của Ngài. Họ đã nghiêm túc thực hiện lệnh truyền của Ngài, đã tận lực đi rao truyền về sự mắt thấy tai nghe cho dù bị khổ hình, tra khảo, thậm chí bị giết, cũng không từ nan. Nếu chẳng phải chính mắt mình đã xem thấy Chúa sống lại, các môn đồ của Ngài đã chẳng tội gì hy sinh thân mình để làm chứng nhân cho sự việc này.
4- Các môn đồ thường tố cáo tội của người Do Thái vì lòng đố kỵ và ganh ghét mà giết Đức Chúa Giê-xu. Vì tội ấy mà dòng dõi dân Do Thái bị tản lạc khắp trên đất, chịu biết bao hoạn nạn, bắt bớ, tàn sát, đúng như lời tổ phụ họ đã thề nguyền: “Xin huyết Người [Đức Chúa Giê-xu] lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!” (Ma-thi-ơ 27:25). (Tuy nhiên, ngày nay một phần Do Thái đã trở về khôi phục tổ quốc, lấy quốc hiệu là “quốc gia Do Thái.” Điều này chứng minh lời tiên tri trong Kinh Thánh là thật và ngày Đức Chúa Giê-xu tái lâm không còn xa nữa.)
5- Có nhiều nơi trong Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước ghi chép những biến cố liên quan đến các nước. Ngày nay, nếu chúng ta đối chiếu các biến cố này với lịch sử các nước, thì thấy tất cả đều phù hợp.
6- Ngày nay, có nhiều người đến nước Do Thái nghiên cứu lịch sử về truyện tích Đức Chúa Giê-xu, rồi đối chiếu với Kinh Thánh, thì thấy các chi tiết đều phù hợp.
7- Con người văn mình ngày nay có thể đi vòng quanh thế giới dễ dàng.
Vì thế, họ có thể sưu tra để minh xác các sự việc được ghi chép trong Kinh thánh. Nếu đạo Đức Chúa Giê-xu không phải là đạo thật, sẽ chẳng có ai tin theo.
8- Các nhà bác học rất cẩn trọng trong việc nghiên cứu kinh sách. Thế nhưng họ không tìm thấy điều gì mâu thuẫn cả khi xem xét Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, mặc dù các sách ấy cách nhau hơn một ngàn năm và do nhiều tác giả ghi chép.
9- Khởi đầu, môn đồ của Chúa chỉ có độ vài trăm người. Họ là những người thấp kém; nhiều người bị bắt bớ, tàn sát. Nếu không có Đức Chúa Giê-xu trên trời giúp sức, hẳn là họ đã bị tận diệt rồi. Nếu vậy, làm sao đạo Tin Lành còn tồn tại và phát triển khắp cả thế giới như ngày hôm nay?
10- Người thời nay tin Chúa đều tôn trọng Kinh Thánh; không có điều gì trong cách sống của họ có thể bị phê phán được. Họ còn khuyên răn con cháu tin theo Ngài. Vả lại, các nước theo Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu đều biết rằng đạo lý của Ngài rất có quyền.
Còn có nhiều bằng chứng khác ghi chép trong Kinh Thánh Tân Ước, khiến người ta không thể không tin.
45. Ai Tin Chúa Phải Chịu Lễ Báp Têm Và Gia Nhập Hội Thánh
Hỏi: Chúng tôi tin nhận Đức Chúa Giê-xu là đủ rồi tại sao còn phải chịu lễ báp têm và gia nhập Hội Thánh?
Đáp: Người có tội tin nhận Cứu Chúa Giê-xu thì tuân lời Ngài mà chịu lễ báp têm để tỏ ra mình là môn đồ Ngài. Ấy cũng như kẻ nhập tịch làm công dân nước nào phải vâng theo luật lệ nước ấy. Đức Chúa Giê-xu có phán rằng: “Ai tin và chịu lễ báp têm sẽ được rỗi; nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt” (Mác 16:16). Cho nên hễ ai đã tin Đức Chúa Giê-xu phải chịu lễ báp têm và gia nhập Hội Thánh.
Chịu lễ báp têm là chịu dìm mình trong nước, rồi lên khỏi nước. Chúng ta làm vậy để tỏ rằng bởi đức tin, đã đồng chết, đồng chôn và đồng sống lại với Đức Chúa Giê-xu.
Gia nhập Hội Thánh có nghĩa là những tín đồ của Đức Chúa Giê-xu nhập lại thành một Hội. Đó chẳng phải là kết bè đảng, cầu danh lợi nhưng chỉ để làm ích cho linh hồn mình và truyền đạo Chúa rộng ra mà thôi. Việc Đức Chúa Giêxu dạy người ta gia nhập Hội Thánh mang nhiều ý nghĩa:
Một là có thêm kiến thức về đạo. Người mới tin Chúa như con trẻ mới sinh, còn yếu ớt chưa có khả năng tự dưỡng, do đó dễ bị cám dỗ. Vào Hội Thánh có mục sư, giáo sư giải nghĩa Kinh Thánh cho, qua đó, sự hiểu biết tăng thêm, đức tin được mạnh mẽ, thắng được ma quỉ cám dỗ.
Hai là đức tin được vững vàng. Người ta dầu đã ăn năn trở lại cùng Chúa, song lòng tin có thể nguội lạnh và thoái lui đi. Vào Hội Thánh sẽ có mục sư, tín hữu giúp đỡ, khuyên răn, an ủi những khi cần, nhân đó đức tin mạnh mẽ vững bền.
Ba là lập Nước Đức Chúa Trời trên thế gian. Người ta nếu chưa loại trừ hết tánh ác thì dầu lên trời lòng cũng chẳng vui. Cho nên phải ở trong Hội Thánh, học tập chân lý, làm theo mạng lệnh của Chúa, giữ lòng thánh sạch để mai sau về Nước Chúa, chẳng những được cứu rỗi song còn được phần thưởng vinh hiển. Hội Thánh lại có quyền thay mặt Chúa tiếp kẻ tin vào Hội, truất kẻ giả dối ra khỏi Hội, khiến các tín đồ vâng giữ điều đáng vâng, làm sự phải làm, để biệt riêng khỏi thế tục và treo gương sáng cho người đời cùng soi.
Bốn là hợp sức truyền đạo. Người tin Chúa đã được cứu, ắt có lòng yêu thương, muốn thấy đồng hương được cứu. Nhưng nếu từng người làm riêng lẽ thì khả năng không đủ, của cải có giới hạn, không làm việc lớn được. Gia nhập Hội Thánh để góp sức góp của với nhiều người, thì chúng ta có thể truyền Tin Lành đến các nơi xa.
Vì các điều trên nên ai tin Đức Chúa Giê-xu phải chịu lễ báp têm và gia nhập Hội Thánh.
46. Cả Nam Lẫn Nữ Đều Phải Tin Chúa
Hỏi : Người nam tin Chúa đã đành, sao người nữ cũng tin Chúa làm gì?
Đáp: Đạo giả thì dù nam, hay nữ cũng phải tránh xa, nhưng đạo thật thì cả nam lẫn nữ nên vâng giữ. Nếu chúng ta đã biết đạo Đức Chúa Giê-xu là thật, mà còn cho là người nam nên theo, còn người nữ không cần theo, thế có khác gì nói rằng người nam nên ăn cơm Trời mà sống, còn người nữ nên nhịn đói mà chết sao?
Chẳng phải người nữ cũng thuộc về nhân loại sao, mà chúng ta bảo rằng không cần đạo Tin Lành, không cần tin nhận Cứu Chúa Giê-xu Christ?
47. Đạo Chúa Có Mười Điều Răn
Hỏi: Đạo Chúa có mấy điều răn?
Đáp: Có Mười Điều Răn như sau nầy:
1. Chớ có thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời.
2. Chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời, dưới đất, hoặc trong nước dưới đất; chớ quì lạy trước những hình tượng đó.
3. Chớ lấy Danh Đức Chúa Trời mà làm chơi.
4. Phải nhớ ngày yên nghỉ để làm nên ngày thánh.
5. Phải hiếu kính cha mẹ.
6. Chớ giết người.
7. Chớ phạm tội tà dâm.
8. Chớ trộm cướp.
9. Chớ làm chứng dối nghịch cùng kẻ lân cận.
10. Chớ tham nhà của kẻ lân cận, cũng đừng tham vợ người, hoặc nô tỳ, bò lừa hay là vật gì thuộc về kẻ lân cận.
Chính Đức Chúa Giê-xu Christ đã thay chúng ta làm trọn Mười Điều Răn này; và Ngài đã tóm gọn chúng thành hai điều là: “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhất và lớn hơn hết. Còn điều răn thứ hai đây, cũng vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình. Hết thảy luật pháp và lời tiên tri đều bởi hai điều răn đó mà ra.” (Ma-thi-ơ 22:37-40)
48. Tín Đồ Ăn Ở Không Hợp Đạo
Hỏi: Chúng tôi từng thấy có người tự xưng là theo Chúa mà làm nhiều điều tội lỗi, gian ác như kẻ chưa tin. Nếu những người ấy mà được gọi là thánh đồ, thì người thế gian ai chẳng phải là thánh?
Đáp: Trong cuốn sách này chúng tôi chỉ bàn về đạo thật hay giả, chứ không luận về người theo đạo đó là thiện hay ác. Đạo thật vốn dạy người ăn năn tội, tin theo Chúa, bỏ điều ác, làm điều lành, cải tà qui chính, để linh hồn được cứu rỗi. Tiếc thay! Có một số người vì lòng tư dục, mượn danh thánh đồ, lạm dụng sự tin tưởng của người khác, hầu dễ bề thi hành các thủ đoạn gian dối. Những hạng ấy thật không đáng gọi là thánh đồ.
Tuy nhiên việc đó cũng không làm hại đạo Tin Lành. Tỉ dụ như chính phủ lập ra hình pháp để răn dân, muốn cho mọi người làm lành, tránh dữ. Vậy mà vẫn có những kẻ bất lương, không xem pháp luật ra gì, cứ giết người cướp của, làm những điều ác. Chúng ta cũng không thể vì đó mà cho rằng hình pháp của chính phủ đặt ra là bất thiện.
Vậy, nếu có người xưng mình là tín đồ mà việc làm không hợp với đạo Chúa, thì đó là kẻ giả hình, không đáng kể. Còn mọi người cần phải tự xét lòng mình, ăn năn, đầu phục Đức Chúa Trời, kính sợ vâng lời Ngài, để được cứu rỗi, hưởng phước vĩnh sinh.
49. Đạo Thật Bất Kể Có Gốc Từ Đâu
Hỏi : Đạo của Đức Chúa Giê-xu dù thật, nhưng là đạo ngoại quốc, chúng tôi theo mà làm gì?
Đáp: Vàng không cần chọn đất, hễ ròng là quí. Đạo chẳng cần chọn gốc, hễ thật là chúng ta nên theo. Tỉ dụ như Khổng Tử được sinh ra bên Trung hoa mà giáo lý của ông truyền đến nước ta. Thầy Mạnh Tử nói vua Thuấn là người Đồng Di, vua Văn là người Tây Di, thế mà người Trung Hoa đều tôn làm thánh nhân, chẳng có ai dị nghị.
Đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ, dạy triết lý của sự hư vô tịch diệt, thế mà cũng có nhiều người theo. Còn đạo Tin Lành có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, câu nào cũng chân thật, chỉ dẫn con đường cứu rỗi, biến cải kẻ ác ra người thiện, mà lại cho là đạo ngoại quốc, không nên theo, là nguyên do gì?
Vả lại, đạo của Đức Chúa Giê-xu gốc từ Đức Chúa Trời, xuất phát từ phương Đông, truyền sang phương Tây, và hiện nay được truyền bá khắp thế giới, là đạo chung cho muôn dân. Các đạo khác cũng có điều hay, lẽ phải, nhưng tất cả đều từ trong ý tưởng của loài người mà thôi. Các đạo ấy như cây đèn, chỉ soi sáng một vùng. Còn Đạo Chúa như mặt trời soi khắp mọi chốn.
Thế thì chúng ta không nên cho là đạo ngoại quốc mà không tin theo.
50. Đừng Xem Việc Theo Đạo Tin Lành Là Khó
Hỏi : Để được cứu rỗi linh hồn, chúng tôi nên theo đạo Chúa nhưng thấy khó quá. Chúng tôi phải làm thể nào?
Đáp: Khó tin hay khó giữ, hai điều ấy không gọi là khó được.
Đạo Chúa có nguồn gốc, có chứng cứ rõ ràng. Chúng ta thử quan sát sự chuyển vận của thiên nhiên thì biết chắc có một Đấng Chủ Tể: Trời cao đất rộng, ngày đêm vận hành, ngôi sao mọc lặn, gió thổi, mây bay, mưa tuôn, nước động, bốn mùa thay đổi, muôn vật phát sinh, nước biển khi lên khi xuống, khí trời khi nóng khi lạnh, v.v. Ấy là điều dễ tin.
Vả lại, người ta linh hơn vạn vật, nhưng cũng không thoát khỏi cái chết.
Khi đó xác thịt mục nát, linh hồn không tan, được thưởng hay chịu phạt, vui hay khổ đời đời không hề thay đổi. Khổ hình ở thế gian còn nhẹ hơn khổ hình ở hoả ngục, vì chết là thân xác hết đau; còn hình phạt nơi hỏa ngục thì đau đớn cả ngày lẫn đêm cho riêng mình mà không thể nào thoát được. Nước biển tiêu đi mỗi năm một giọt, còn có ngày tiêu hết; nhưng khổ hình nơi hỏa ngục thì vẫn còn đời đời. Như vậy mà chúng ta còn cho rằng tin Chúa là khó, để đành chịu khổ hình đời đời hay sao?
Chúng tôi thấy người thế gian cầu danh, cầu lợi, chịu khổ rất nhiều. Có kẻ muốn thi đậu, đã phải cố công dùi mài kinh sách bao nhiêu năm. Có kẻ mong được nhiều thóc lúa, phải khó nhọc cày sâu cuốc bẫm. Có kẻ buôn bán muốn thu lợi phải dầm sương phơi nắng, lội suối qua đèo, sao chẳng lấy làm khổ, mà lại lấy tin đạo làm khổ? Chúng ta nên biết rằng không tin Đức Chúa Giê-xu thì sẽ khổ muôn phần. Hãy xem có người cậy nhiều của không biết kiêng sợ ai, sống buông lung gian ác cho đến nỗi tan nát nghiệp nhà. Còn có những kẻ nghèo không giữ thân phận, trộm cướp làm càn, đến nỗi bị tù đày.
Người ta chỉ cần hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời, nhờ cậy công ơn cứu chuộc của Đức Chúa Giê-xu thì được tha tội, linh hồn được rỗi, được vui vẻ, bình an, gia đình được trên thuận dưới hòa, cuối cùng hưởng phước Thiên Đàng mãi mãi. Ngoài cách ấy, không còn phương pháp nào khác.
51. Phải Tin Theo Chúa Mới Được Phước
Hỏi: Trong số những người không tin theo Đức Chúa Giê-xu, cũng có nhiều người lương thiện. Dù họ không thờ lạy Đức Chúa Trời, không cậy nhờ sự chết chuộc tội của Đức Chúa Giê-xu, nhưng tính nết hiền lành, làm nhiều việc từ thiện, những người ấy sẽ hưởng phước Thiên Đàng được chăng?
Đáp: Xin thưa không được! Xin hãy nghe lời thí dụ này: Ai muốn được chính phủ ban thưởng, phải trung thành với chính phủ, vâng giữ luật pháp nhà nước; còn muốn được cha mẹ yêu mến, phải vâng lời và thảo kính với cha mẹ.
Còn nếu bất trung với Tổ quốc, bất hiếu với cha mẹ, thì không những không được thưởng, được yêu, mà lại bị hình phạt, ghét bỏ nữa.
Vậy, có người công dân không hề làm điều dữ, được hàng xóm láng giềng khen ngợi, yêu mến nhưng bất trung với chính phủ, thì có được khen thưởng không? Lại có một người con ăn ở hiền lành, bạn bè đều mến, nhưng không thảo kính với cha mẹ, thì cha mẹ có yêu được không? Chắc là chính phủ và cha mẹ không thương những người ấy.
Đức Chúa Trời đối với kẻ vô tín cũng vậy. Ai không thờ lạy Đức Chúa Trời, không nhờ cậy công ơn cứu chuộc của Đức Chúa Giê-xu, thì dù có làm nhiều điều lành đi chăng nữa, cũng không thể nào được hưởng phước Thiên Đàng. Người đời nay làm việc thiện không phải vì tấm lòng hối cải mà làm, nhưng có người chỉ vì muốn đạt được danh tiếng. Muốn danh tiếng mà được danh tiếng, ấy là đã được người đời báo đền rồi, không thể mong được Chúa đền bù cho nữa. Ai hiểu thấu lẽ ấy, nên vội tìm vào cửa ân Điển của Chúa Cứu Thế, là Đức Chúa Giê-xu.
52. Phải Tin Theo Chúa Ngay
Hỏi: Tôi nghe biện luận đã nhiều, biết rằng đạo Tin Lành của Đức Chúa Trời là thật, không chỗ bài bác được, có thể làm cho những kẻ ngủ hoá thức, kẻ dữ nên lành, ai tin và làm theo, lúc sống được an vui, chết sẽ được hưởng phước đời đời, nhưng bây giờ chưa thuận tiện để tôi tin theo ngay, có thể chờ qua sang năm có được không?
Đáp: Bạn nói thế là chưa nghĩ kỹ. Nếu hôm nay bạn nghe và hiểu, bạn nên tin ngay đi. Giờ nầy bạn đã tỉnh ngộ thì bạn nên theo ngay đi, sao bạn lại kỳ hạn đến sang năm?
Tỉ dụ như một người giàu có từ thiện kia rao rằng sẽ bố thí trong ba ngày; ai đến trong kỳ đó, thì được phần; ai đến trễ thì không được gì. Người không được là tại mình đến chậm, chứ chẳng phải người hứa không cho. Cũng một thể ấy, “Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của
Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất, mà được sống đời đời.” Ai tin thì được cứu chắc chắn, còn ai không tin thì bị định tội. Đó là tại mình, không phải vì Chúa không cứu.
Thương thay, có người đã thông hiểu đạo lý mà không quyết định tin theo ngay, để thời gian dần trôi, tội lỗi chồng chất, ngày chết cận kề, không còn trông mong gì được nữa! Nếu thế, sao bạn lại đợi đến sang năm? Huống chi điều thiết yếu và quan trọng nhất cho cuộc đời chúng ta không gì bằng sự cứu rỗi linh hồn. Kẻ được cứu rỗi đời đời vui vẻ, ca hát ngợi khen Chúa; còn kẻ hư mất mãi mãi phải chịu đau đớn, nghiến răng, khóc lóc trong lửa hỏa ngục.
Nếu thế sao bạn còn hẹn đến sang năm? Làm nguời ai cũng phải chết, mà không biết cái chết đến lúc nào. Vậy tại sao bạn còn chờ đợi qua năm sau?
Sinh mạng người ta rất mỏng manh, như chuông đồng treo sợi chỉ, một mai chỉ đứt, chuông rơi xuống vực sâu vô vọng, mãi mãi không bao giờ lên được! Vậy sao bạn lại còn chờ đợi đến sang năm?
Có câu phong dao rằng: “Người đời ví thể phù du Sớm còn, tối mất, công phu lỡ làng!”
Trong một khắc, một giờ đồng hồ, Trên khắp thế giới nầy có không biết bao nhiêu người chết. Biết đâu chính mình ta lại không ở trong số ấy? Thế thì tại sao lại kỳ hạn đến sang năm?
Vậy xin quí bạn hãy tin theo Đức Chúa Giê-xu Christ và để Đức Thánh Linh ngự trị lòng bạn, cảm hóa bạn để bạn từ bỏ ác dục thế gian, ra khỏi nơi tối tăm mà vào nơi sáng láng, bỏ đường tà, theo đường chánh, sớm chiều cầu nguyện, thờ lạy Đức Chúa Trời, nhờ cậy công lao Đức Chúa Giê-xu trên Thập tự giá để được cứu rỗi, kẻo đến lúc chết, không còn cơ hội ăn năn!
Hết sách
Lời Cuối
Kính thưa quý bạn đọc,
Chúng tôi hy vọng sau khi đã đọc xong 52 bài viết trong Chân Giả Luận, quý vị có một nhận thức đúng đắn và một quyết định sáng suốt để lựa chọn cho mình một con đường đi đúng, để không phải hối tiếc ân hận về sau.
Mong rằng tác phẩm này sẽ giúp quý vị quay trở về với Cội Nguồn là Đấng Chân Thần, là Đấng Tạo Hóa của muôn loài muôn vật mà quí vị thường xưng là Đấng Hóa Công, là Đấng mà chúng tôi, là những người Tin lành, tôn xưng là Đức Chúa Trời. Nếu quí vị nhận biết được mình là người có tội, xin hãy tiếp nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Giê-xu. Quí vị hãy cầu nguyện với Ngài, như một người con thưa chuyện với cha mình, để xin Ngài đón nhận quí vị trở về với gia đình sau một thời gian dài đi xa lạc. Sau đó, xin quí vị tìm kiếm các Cơ-đốc nhân khác để thờ phượng Chúa theo như sự chỉ dẫn trong
Người Hiệu Đính
Trần Thị Huỳnh Hoa
Năm 2011
http://hoptinhhoply.net/?q=node/171
Mục Lục
TỰA ĐỀ TRANG
Lời nói đầu cho ấn bản hiệu đính 2011
01. Xem Địa Lý………………………………………… ………………1
02. Chọn Ngày, Định Hướng, Xem Tuổi ……………………….. 1
03. Đoán Số ………………………………………………………….. 2
04. Xem Tướng ……………………………………………………….. 3
05. Bói Quẻ, Xin Xăm Và Đoán Chữ ………………………………3
06. Các Thần Giả ……………………………………………………… 4
07. Ngọc Hoàng ………………………………………. ……………….4
08. Lão Quân ………………………………………….. ……………….5
09. Tiên Thuật ………………………………………………………….. 5
10. Quan Công ………………………………………… ……………….5
11. Thành Hoàng ………………………………………………………..6
12. Thổ Địa ………………………………………………………………..6
13. Phật Thích Ca ………………………………………………………. 7
14. Thuyết Luân Hồi …………………………………………………… 9
15. Quan Âm …………………………………………………………….. 9
16. Diêm Vương ………………………………………………………….10
17. Bà Chúa Ngọc và Bà Liễu Hạnh ………………………………..10
18. Đạo Nho và Đạo Tin Lành ………………………………………..11
19. Thờ Lạy Ông Khổng Tử…………………………………………….12
20. Thờ Lạy Tổ Tông …………………………………………………….12
21. Mộc Chủ, Bài Vị ………………………………………………………13
22. Đốt Giấy Tiền, Vàng Bạc……………………………………………14
23. Thế Nào Là Hiếu Thật ………………………………………………15
24. Không Lạy Xác Chết ………………………………………………..16
25. Đức Chúa Trời …………………………………………………………16
26. Đức Chúa Trời Trọn Tài, Trọn Trí, Trọn Lành …………………16
27. Đức Chúa Trời Dựng Nên Người Dữ …………………………….17
28. Chân Thần Sinh Ra Thú Dữ ……………………………………….17
29. Một Chúa Cai Quản Cả Trời Đất Muôn Vật …………………..18
30. Chân Thần Bởi Đâu Sanh Ra? ……………………………………18
31. Chân Thần Không Có Cuối Cùng ……………………………….19
32. Không Nhìn Thấy Chân Thần Ðược…………… 19
33. Đức Chúa Trời Tức Là Thượng Đế …………….. 20
34. Thiên Đàng, Hỏa Ngục ………………………….. 21
35. Linh Hồn Bất Diệt …………………………………. 21
36. Thiên Sứ, Ma Quỉ, Và Linh Hồn Người Ta …… 22
37. Ma Quỉ Ở Thế Gian ……………………………….. 22
38. Sự Công Bình Của Đức Chúa Trời ………………. 23
39. Sự Nhân Từ Của Đức Chúa Trời ………………….. 24
40. Chúa Sinh Người Có Thứ Bậc ……………………….. 24
41. Thờ Lạy Đức Chúa Trời Cách Nào? ………………….. 25
42. Đức Chúa Giê-xu Cao Trọng Hơn Các Thánh Hiền 26
43. Đức Chúa Giê-xu Chuộc Tội Loài Người …………………….. 27
44. Câu Chuyện Đức Chúa Giê-xu Là Thật ……………………… .27
45. Ai Tin Chúa Phải Chịu Lễ Báp Têm Và Gia Nhập Hội Thánh 29
46. Người Nam Người Nữ Đều Phải Tin Chúa ………………………29
47. Đạo Chúa Có Mười Điều Răn ………………………………………30
48. Tín Đồ Ăn Ở Không Hợp Đạo ………………………………………30
49. Đạo Thật Bất Kể Có Gốc Từ Đâu ………………………………….31
50. Đừng Xem Việc Theo Đạo Tinh Lành Là Khó ………………….31
51. Phải Tin Theo Chúa Mới Được Phước ……………………………32
52. Phải Tin Theo Chúa Ngay……………………………………………32
Lời Cuối