SỰ CẦU NGUYỆN
PHẦN 1
MÔN ĐỆ:
_ Có khi có người nêu câu hỏi, “Đức Chúa Trời đã biết rõ mọi nhu cầu của chúng ta, và Ngài cũng biết làm sao để cung ứng nhu cầu đó tốt nhất, chẳng những cho người lành mà cũng cho kẻ ác nữa, vậy thì tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện với Đức Chúa Trời để xin những điều đó? Dầu rằng những nhu cầu của chúng ta là vật chất hay tâm linh, chúng ta có thể dùng lời cầu nguyện của mình mà đổi ý Đức Chúa Trời chăng?”
THẦY:
1. Những người hỏi như vậy tỏ rõ rằng họ không biết cầu nguyện là gì. Họ không sống một cuộc đời cầu nguyện, vì nếu họ có thì họ đã biết rằng cầu nguyện với Đức Chúa Trời không phải là một hình thức xin xỏ. Cầu nguyện không phải là một nỗ lực để nhận từ nơi Đức Chúa Trời những điều cần dùng cho sự sống. Cầu nguyện là một nỗ lực để tiếp cận, nắm giữ Đức Chúa Trời là Tác Giả của sự sống. Hầu khi nào chúng ta đã tìm được Đấng là nguồn của sự sống và bước vào mối giao ngộ với Ngài, thì toàn thể sự sống là của chúng ta, khi có Ngài thì tất cả những gì trong cuộc sống sẽ trở thành toàn hảo. Đối với những kẻ xấu xa, Đức Chúa Trời vì tình yêu ban cho họ những gì cần thiết cho cuộc sống họ trên trần gian, nhưng đối với nhu cầu tâm linh thì Ngài chẳng tỏ ra cho họ, vì họ không có sự sống tâm linh. Dẫu Ngài có đổ những phước lành tâm linh trên họ, họ cũng không nhận thấy giá trị của chúng. Nhưng đối với những người tin thì Ngài ban cho họ cả hai thứ, nhất là những ơn phước thuộc linh; kết quả là chẳng bao lâu họ không còn chú ý bao nhiêu đến những ơn phước vật chất nữa, nhưng hướng lòng mình về những gì vô hình không thấy được và thuộc cõi vĩnh hằng. Chúng ta không thể nào thay đổi ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng con người cầu nguyện có thể khám phá được ý muốn của Đức Chúa Trời đối với chính mình. Đối với những con người như vậy Đức Chúa Trời tỏ mình Ngài ra cho họ trong căn buồn ẩn kín của tấm lòng, và tương giao với họ. Khi những mục đích của Ngài được tỏ ra vì ích lợi của họ thì tất cả những hồ nghi và những gì làm cho họ hoang mang sẽ biến đi nhanh chóng.
2. Cầu nguyện hiện nay cũng như xưa kia là hơi thở của thần linh Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời đổ Thánh Linh của Ngài vào đời sống của người cầu nguyện để họ trở thành “Linh hồn sống” (Sáng thế ký 2:7; Giăng 20:22). họ sẽ không bao giờ chết, bởi vì Đức Thánh Linh tuôn đổ chính mình Ngài vào trong buồng phổi tâm linh của họ qua sự cầu nguyện, làm cho tâm linh của họ tràn đầy sức khỏe, sự lành mạnh và sự sống đời đời.
Đức Chúa Trời là Tình Yêu Ngài rộng lòng ban cho mọi người những gì cần thiết cho cả cuộc sống tâm linh lẫn vật chất. Ngài đã ban sự cứu rỗi và Thánh Linh của Ngài cho mọi người một cách miễn phí cho nên người ta coi thường. Nhưng sự cầu nguyện dạy cho chúng ta nhận biết giá trị của chúng, bởi vì chúng cũng cần thiết như là không khí và nước, hơi nóng và ánh sáng, nếu không có những thứ đó thì không thể nào có sự sống. Những gì cần cho cuộc sống tâm linh của chúng ta thì Đức Chúa Trời cung cấp miễn phí. Đức Chúa Trời đã cung cấp cách rộng rãi, nhưng con người đã xem nhẹ chúng và không tạ ơn Đấng Tạo Hóa họ. Mặt khác, những ơn khác của Ngài như vàng, bạc, và châu báu thì họ lại rất quí trọng, dầu rằng những thứ đó không thể nào dập tắt được sự đói khát của thân thể, cũng như không thể nào thỏa mãn được những ước vọng của tâm hồn. Con người trần tục hành động ngu dại như vậy đối với những điều thuộc về tâm linh,
3. Thế gian nầy giống như một đại dương mênh mông con người chìm xuống thì sẽ chết đuối, nhưng những thuỷ vật thì có thể sống dưới những làn nước sâu nhất, bởi vì thỉnh thoảng chúng trồi lên mặt nước mở miệng ra hít vào một lượng không khí để giúp chúng có thể sống dưới nước sâu. Cũng vậy những ai được lên trên khỏi mặt nước của đại dương bằng sự cầu nguyện riêng tư thì hít vào thần linh ban sự sống của Đức Chúa Trời thì dầu họ ở trong thế gian nầy vẫn giữ được sự sống an toàn.
4. Dầu con cá sống cả đời trong biển mặn, nhưng thịt chúng nó không trở thành mặn, bởi vì chúng có sự sống trong mình. người cầu nguyện cũng vậy, dầu họ sống trong thế gian tội lỗi, nhưng họ không bị ô nhiễm bởi tội lỗi vì nhờ cầu nguyện mà sự sống họ được bảo toàn.
5. Giống như nước biển mặn được những tia nắng nóng của mặt trời hút lên rồi dần dần tụ thành những đám mây và biến thành nước ngọt tươi mát đổ xuống đất trong những trận mưa rào (vì khi nước biển cất lên thì nó để lại chất muối, chất mặn và chất đắng lại phía sau), cũng vậy khi những tư tưởng và ước vọng của một người cầu nguyện cất lên như những làn sương tinh khôi của linh hồn, thì những tia Mặt trời Công Chính thanh tẩy chúng khỏi tất cả những hoen ố của tội lỗi, và lời cầu nguyện của họ đã trở thành một đám mây lớn rơi xuống đất thành một cơn mưa rào ơn phước, đem sự tươi mới cho nhiều người trên đất.
6. Giống như con vịt trời cả đời bơi lội dưới nước nhưng khi nó bay lên trời thì lông nó hoàn toàn khô ráo, những người cầu nguyện cũng vậy mặc dầu họ ở trong thế gian nầy, nhưng một ngày kia họ sẽ bay bổng lên khỏi thế giới ô nhiễm tội lỗi nầy, về nghĩ ngơi trong nhà đời đời và không vướng một chút tì ố hay nhơ bẩn nào.
7. Cái chỗ của chiếc tàu là ở trong nước, nhưng khi nước chảy vào tàu thì nó đang lâm nguy và điều đó không thích hợp và rất nguy hiểm. Chiếc tàu không bị nước vào thì nó có thể giúp ích người khác cùng với mình đến bến bờ của sự sống. Nhưng nếu để cho nước vào tàu hay thế gian thấm sâu vào thì có nghĩa là chết chóc và hủy diệt. Một người cầu nguyện thật luôn luôn giữ tấm lòng của mình cho Đấng đã tạo nó để làm đền thờ của Ngài, vì thế trong đời nầy cũng như trong đời hầu đến, người được an nghĩ trong sự thãnh thơi và an toàn.
8. Chúng ta đều biết rằng nếu không có nước thì không ai có thể sống được; nhưng nếu chúng ta trầm mình xuống nước thì chúng ta sẽ bị chết ngộp. Mặc dầu chúng ta phải sử dụng nước và uống nước, chúng ta không được chìm vào trong nước. Như vậy thế gian và những gì thuộc về trần gian cần phải được sử dụng một cách chọn lọc, bởi vì nếu không có chúng thì người ta không những là khó sống mà còn không có thể sống được. Chính vì mục đích đó mà Đức Chúa Trời đã tạo dựng thế giới để cho con người có thể sử dụng nó, nhưng người ta không nên trầm mình trong đó, vì làm như vậy thì hơi thở cầu nguyện sẽ bị dứt tuyệt và họ sẽ bị hư mất.
9. Khi một người từ bỏ một đời sống cầu nguyện thì tâm linh của họ bắt đầu sa sút và những sự vật của trần gian đúng ra là hữu ích thì lại trở thành nguy hại. Ánh nắng mặt trời và hơi nóng của nó làm cho rau cỏ sống và sinh sôi nẩy nở nhưng đồng thời cũng khiến cho chúng khô héo chết đi. Không khí đem sự sống và sức mạnh cho các loài vật sống, nhưng nó cũng là nguyên nhân của sự phân huỷ. Bởi vậy “Hãy Tỉnh Thức và Cầu Nguyện”.
10. Chúng ta phải sống giữa thế gian thế nào để chúng ta có thể ở trong đó mà không thuộc về nó. Như vậy thì những phụ thuộc về thế gian nầy thay vì gây hại cho ta sẽ là hữu ích và sẽ giúp cho đời sống thuộc linh chúng ta lớn lên với điều kiện đó là tâm linh người đó phải luôn luôn hướng mặt về Mặt trời Công Chính. Đôi khi trong một miếng đất dơ dáy, bẩn thỉu bông hoa mọc lên và xinh tốt, những hương thơm dịu dàng của bông hoa lấn át cả mùi xú uế của khu đất. Đối với những cây hoa hướng về phía mặt trời nhận được ánh sáng và hơi nóng, thì những dơ dáy bẩn thỉu thay vì gây hại cho cây hoa sẽ trở thành phân bón giúp cho cây hoa lớn lên và nẩy nở. Cũng vậy, người cầu nguyện trong khi cầu nguyện hướng lòng về Ta, thì nhận nơi Ta ánh sáng và hơi ấm; ở giữa những mùi xú uế của thế gian tội lỗi họ tỏa ra hương thơm của một cuộc sống mới thánh khiết tôn vinh Ta. Đời sống của họ không những sản sinh ra mùi thơm, mà còn kết những quả sẽ thường đậu luôn.
PHẦN 2
1. Cầu nguyện không có nghĩa là nếu không cầu nguyện thì Đức Chúa Trời sẽ không cho chúng ta điều gì hoặc Ngài không biết gì đến những nhu cầu của chúng ta, nhưng cầu nguyện có một lợi lớn, đó là thái độ cầu nguyện để tiếp nhận Đấng ban phước lành cùng với những phước lành mà Ngài mong muốn ban cho họ. Chính vì vậy mà các vị sứ đồ đã không được đầy dẫy Đức Thánh Linh ngay trong ngày đầu tiên mà phải chờ đến sau 10 ngày chuẩn bị đặc biệt.
Nếu một phước lành đến với một người khi họ chưa sẵn sàng để nhận, thì họ chưa sẵn sàng cho phước lành đó, họ sẽ không nhận biết giá trị của nó hoặc có thể giữ nó được lâu dài. Thí dụ, như Sau-lơ đã nhận được Thánh Linh và ngôi vua mà không mất công tìm kiếm cho nên ông đã mất cả hai, bởi vì ông từ nhà ra đi không phải để nhận được Đức Thánh Linh nhưng là để đi tìm những con lừa đi lạc (I Samuel 9:3; 10:11; 13-14; 31:4).
2. Khi con người cầu nguyện mới có thể thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm linh và lẽ thật. Những người khác giống như những cây nhạy cảm; trong khi thờ phượng, dưới ảnh hưởng của sự dạy dỗ và sự hiện diện của Đức Thánh Linh, thì họ run rẫy, cúi đầu nghiêm túc, nhưng họ ra khỏi nhà thờ thì đâu lại hoàn đấy họ trở lại như trước kia.
3. Nếu chúng ta không chăm sóc cây hoặc bụi cây đang ra hoa kết quả, nó sẽ thoái hóa và trở về tình trạng hoang dã. Cũng một thể ấy, nếu người tin lãng tránh sự cầu nguyện và bỏ bê đời sống tâm linh thì sẽ không còn ở trong Ta nữa, vì thiếu chăm sóc linh hồn cho nên người đó sẽ rơi khỏi tình trạng được phước mà lại đắm chìm vào trong những đường lối tội lỗi cũ để rồi bị hư mất.
4. Khi chúng ta nhìn thấy một con sáo hay con cò đứng bất động bên một bể nước hay bờ hồ, chúng ta có thể cho rằng đó là cử chỉ của một kẻ chiêm ngưỡng vinh quang Đức Chúa Trời hay thích thú dòng nước sông. Không phải vậy đâu! Nó đứng đó bất động hằng giờ, nhưng khi chợt thấy một con nhái hay một con cá nhỏ thì nó liền phóng tới chụp và nuốt chửng. Đó chính là thái độ và phương cách của nhiều người đối với sự cầu nguyện hay tĩnh tâm. Ngồi bên bờ đại dương thăm thẳm của Đức Chúa Trời, mà họ không hề nghĩ đến sự vĩ đại và tình yêu của Ngài, hay bản thể thiên thượng của Ngài để tẩy sạch tội lỗi và làm thỏa mãn những linh hồn đói khát, nhưng tâm trí họ chỉ chăm chăm để được một vật họ mong ước, để nhờ đó họ có thể hưởng thụ nhiều hơn những khoái lạc của trần gian chóng qua nầy. Như vậy họ quay khỏi nguồn của sự bình an chân thật mà dầm mình vào những thú vui chóng phai của trần gian và cùng với chúng qua đi và chết mất.
5. Nước và dầu lửa hai thứ cùng ra từ đất, nhưng mặc dầu trong cả hai giống nhau có vẻ như là một thứ, thì bản chất và mục đích chúng hoàn toàn đối lập nhau, một thứ thì làm tắt lửa và một thứ thì làm bồi thêm ngọn lửa. Cũng vậy, thế gian và những của cải trong đó, tấm lòng và niềm khao khát Đức Chúa Trời, tất cả đều là do Ngài tạo nên. Nhưng nếu tìm cách làm thỏa mãn tâm hồn bằng của cải và danh vọng trần gian thì kết quả giống như người ta tìm cách dập tắt lửa bằng dầu hỏa, vì tâm hồn con người chỉ có thể tìm được sự nghĩ ngơi thỏa mãn trong Đấng đã tạo dựng nên nó và cùng với niềm khao khát mong muốn mà nó cảm thấy (Thi Thiên 42:1-2). Vậy kẻ nào đến cùng Ta, Ta sẽ cho họ nước sống để họ sẽ không bao giờ khát nữa nhưng từ người đó sẽ tuôn chảy mạch nước văng ra cho đến sự sống đời đời (Giăng 4:14).
6. Con người thử đi tìm sự bình an trong thế gian và những vật thuộc về thế gian là vô ích, vì kinh nghiệm cho thấy rõ rằng không bao giờ tìm được sự bình an thật và sự thỏa lòng ở trong chúng. Cũng giống như cậu bé bắt gặp một củ hành và bắt đầu lột từng lớp ra với hy vọng tìm thấy một cái gì bên trong. Nhưng đó là một hy vọng vô ích, bởi vì nó sẽ không thấy gì cả ngoài những lớp vỏ hành, bởi vì củ hành không có gì khác hơn là một kết hợp của nhiều lớp vỏ. Thế gian nầy và tất cả những gì thuộc về nó đều tỏ ra là hư không của sự hư không (Truyền Đạo 12:8), cho đến khi con người tìm được nguồn bình an thật (Ê-sai 55:1; Giê-rê-mi 2:13; Khải Huyền 22:17).
7. Thế gian cũng giống như một ảo ảnh (ảnh ảo), và người đi tìm chân lý thì mong tìm được một cái gì làm thỏa mãn tâm linh khao khát của mình, bắt đầu đi tìm kiếm nó nhưng họ không bắt gặp được gì cả ngoài sự thất vọng. Họ không thể nào tìm được Nước Sống trong những cái bể chứa do người làm ra hay trong những hồ chứa bị nứt; nhưng những ai đến với Ta trong sự cầu nguyện với tấm lòng thuần thành sẽ gặp được Ta, là Nguồn Nước Sống, nhờ đó họ được thỏa lòng, được tăng cường sức lực, và sự sống đời đời (Ê-sai 55:1; Giê-rê-mi 2:13; Khải Huyền 22:17).
Một bà kia đi trên con đường núi bồng đứa bé trong tay. Đứa bé chợt thấy một bông hoa đẹp thì liền nhảy ra khỏi vòng tay của mẹ và liền rơi xuống triền núi đụng đầu vào đá và chết tại chỗ. Rõ ràng rằng đứa bé muốn được bảo bộc an toàn thì phải đeo cứng vào ngực mẹ chứ không thể chạy theo những đóa hoa rực rỡ kia là thứ gây nên cái chết cho nó. người tín đồ cũng hành động như vậy nếu đời sống họ không phải là một đời sống cầu nguyện. Khi họ nhìn thấy những thú vui chóng qua của trần gian thì họ quên hết tình yêu và sự chăm sóc của Ta, chúng lớn hơn tình yêu và sự chăm sóc của bà mẹ, bỏ bê món sữa thiêng liêng mà Ta cung cấp cho họ, nhảy ra khỏi vòng tay của Ta và bị hư mất.
8. Chất dinh dưỡng mà bà mẹ cung cấp đã được sắp đặt để cho đứa bé muốn nhận được thì phải có một cố gắng nào đó. Cũng vậy, con cái của Ta mà Ta bồng ẵm trong lòng ta nếu không tìm kiếm thì không thể nhận được thứ sữa thiêng liêng có thể cứu rỗi linh hồn. Và cũng như đứa bé không cần ai dạy, nhưng do trực giác nó biết được làm cách nào để nhận được thức ăn của mình, thì những người sanh bởi Thánh-Linh cũng do trực giác tâm linh, chứ không phải do triết lý hay là sự khôn ngoan thế gian mà biết cầu xin để nhận được từ nơi Ta là bà mẹ thuộc linh của họ, món sữa của sự sống đời đời.
9. Ta đã đặt trong bản tính con người cảm giác đói và khát, hầu cho họ không mê muội mà tự cho mình là Thượng-đế, nhưng mỗi ngày họ được nhắc nhở về nhu cầu của mình để sự sống của họ phải nhờ vào sự sống và sự tồn tại của Đấng tạo nên họ. Cũng vậy, họ được dựng nên với ý thức về những khuyết điểm và nhu cầu của mình hầu cho họ có thể ở trong Ta và Ta trong họ, để rồi họ sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc trong Ta.
PHẦN 3
1. Cầu nguyện là đàm đạo với Ta và nhờ giao thông với Ta và ở trong Ta mà họ được trở nên giống như Ta. Một loại sâu nhờ vào sống giữa cỏ và ăn lá xanh của cỏ nên mang màu xanh lá cây. Con gấu bắc cực sống ở giữa tuyết trắng thì mang màu trắng như tuyết, con cọp xứ Bengal có bộ da mang dấu những lau sậy mang màu sắc những lau sậy nơi chúng sinh sống. Cũng vậy, những người giao thông với Ta bởi sự cầu nguyện sẽ cùng với các thánh và thiên sứ thông dự bản tính của Ta và được tạo nên theo hình ảnh Ta để nên giống như Ta.
2. Khi Ta đem Phi-e-rơ, Giăng và Gia-Cơ đến giao thông với Ta chỉ trong thời gian ngắn ở trên núi, Ta đã tỏ cho họ một phần nhỏ của vinh quang Ta, và trong số tất cả các thánh đồ thì chỉ có hai người là Môi-Se và Ê-li xuất hiện cho họ. Được nhìn thoáng qua vinh quang thiên đàng như thế đã khiến họ ngây ngất đến nổi họ muốn dựng 3 cái liều trại để ở lại đó (Ma-thi-ơ 27:1-5). Như vậy niềm hạnh phúc của những kẻ được ở trong Ta là được cùng với vô số các thánh và các thiên sứ vào trong thiên đàng họ hằng ao ước từ lâu, họ cùng chia xẻ với Ta vinh quang trọn vẹn không hề biết đến sự hư mất hay bóng của sự biến cải, thì còn kỳ diệu đến đâu (Giăng 27:24; Gia-Cơ 1:17). người cầu nguyện không bao giờ cô đơn, bởi vì người ở với Ta và những người thánh của Ta mãi mãi (Ma-thi-ơ 28:20; Xa-cha-ri 3:7-8).
3. Nhận được quyền làm chủ và sử dụng các thú dữ, sấm sét, gió, ánh sáng, và các năng lực khác của thiên nhiên, không phải là ghê gớm lắm, nhưng chủ trị được thế gian, Sa-tan, và bản thân, cùng với tất cả các tham dục của nó, thì thật sự là một kỳ công và là một điều cần thiết. Bởi vì những người sống cuộc đời cầu nguyện Ta đổ trên họ quyền năng để chiến thắng mọi thế lực của kẻ thù (Lu-Ca 10:7,20), để cho họ dầu đang ở trong thế gian nầy họ cũng đang ở trong Ta trong các nơi trên trời (Ê-phê-sô 2:6), trong khi Sa-tan ở phía dưới thì họ ở bên trên cho nên nó không thể nào đụng tới họ được, và họ luôn luôn ở với Ta trong an toàn không chút run rẩy sợ hãi.
Dầu loài người ngày nay đã giành được quyền làm chủ các năng lực thiên nhiên, họ không thể nào du hành ra khỏi biên giới của không khí, trong khi người cầu nguyện sau khi đã chủ trị được Sa-tan và bản thân, có thể tự do bay bổng đến cõi trời đời đời.
4. Như con ong thu góp chất ngọt trong bông hoa và biến nó thành mật mà không làm hại gì cho màu sắc và hương thơm của chúng, cũng vậy người cầu nguyện thâu góp hạnh phúc và ích lợi từ trong mọi tạo vật của Đức Chúa Trời mà không làm gì hại đến chúng. Cũng như con ong thâu góp mật từ các loại hoa ở khắp mọi nơi và chứa vào trong tàng ong, thì người của Đức Chúa Trời cũng thâu góp những ý tưởng cảm giác ngọt ngào từ trong mọi phần của tạo vật, khi giao thông với Đấng Tạo-Hóa họ tàng trữ vào lòng chất ngọt của Chân-Lý vậy, trong sự bình an với Chúa ở mọi nơi và mọi lúc, họ khoan khoái nếm được mật ngọt dịu dàng của Đức Chúa Trời.
5. Bây giờ là lúc con phải tìm kiếm và giữ cho cái bình của lòng mình được đầy dầu Đức Thánh Linh, giống như năm người trinh nữ khôn ngoan đã làm (Ma-thi-ơ 25:1-13); nếu không con sẽ như năm người dại không được gì hết ngoài sự than khóc và thất vọng. Đây cũng là lúc con thâu trữ những ma na cho ngày Sa-bát thật, nếu không con sẽ không còn gì ngoài đau buồn và than thở (Ê-xê-chi-ên 16:15; 27). “Vậy hãy cầu nguyện hầu cho các ngươi không phải trốn tránh vào mùa đông,” có nghĩa là trong thời gian đại khủng hoảng của những ngày cuối cùng, “hay vào ngày Sa-bat,” nghĩa là thời kỳ trị vì 1000 năm bình an, vì một cơ hội như vậy sẽ chẳng bao giờ trở lại (Ma-thi-ơ 24:20).
Cũng như khí hậu đem lại thay đổi cho hình thể, màu sắc, và thói quen, sự trưởng thành cây cối và bông hoa, thì những người duy trì sự tương giao với Ta cũng sẽ phát triển được bản chất tâm linh và thói quen mới, dáng mạo và cử chỉ; dần dần họ trút bỏ được con người cũ để biến hóa trở thành hình ảnh vinh quang bất hủ của Ta.
Từng ngón tay Ta đã viết trên mặt đất tình trạng tội lỗi của từng người một trong đám người chẳng chịu nhìn vào nội tâm xấu xa của mình, đã lôi người đàn bà ngoại tình đến để lên án, khiến cho họ từng người một bỏ nàng đi trong bẽ bàng và hổ thẹn. Cũng với ngón tay của Ta, Ta đã chỉ ra những vết thương tội lỗi sâu kín trong các đầy tớ Ta, và khi họ ăn năn, thì cũng ngón tay đó đụng vào họ và chữa lành cho họ. Cũng giống như đứa bé nắm lấy ngón tay của cha mình và nhờ sự hướng dẫn của ngón tay đó nó bước đi với Cha, thì ngón tay của Ta cũng dẫn dắt con cái Ta đi trên đường đời nầy để về căn nhà nghĩ ngơi an bình đời đời (Giăng 14:2-3).
7. Thường người ta cầu nguyện với Đức Chúa Cha nhân danh Ta, nhưng họ không ở trong Ta nghĩa là họ chỉ dùng Danh Ta ở đầu môi chót lưỡi, mà không có Ta trong lòng và trong đời sống của họ. Đó là lý do tại sao họ không nhận được điều họ cầu xin. Nhưng khi Ta ở trong họ và họ ở trong Ta, thì bất cứ điều gì họ cầu xin Cha họ sẽ nhận được, bởi vì họ cầu nguyện dưới sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh tỏ cho họ điều gì làm sáng danh Cha và tốt nhất cho họ cũng như cho người khác. Nếu không họ sẽ giống như một cậu con trai hoang đàng kia là con của một người đã cống hiến đời sống mình cho tổ quốc và là một anh hùng can đảm, ngược lại cha mình cậu ta đã sống một cuộc đời bê tha trác táng. Khi cậu ta đến gặp vị Thống Đốc để thỉnh cầu một ơn huệ và xin việc nhân danh cha mình. Vị Thống Đốc đã chỉ vào anh và nêu ra nếp sống sa đọa của anh ta và bảo rằng: “Đừng có lấy danh cha ngươi mà thỉnh cầu ta, trước hết hãy đi và làm theo gương của ông. Đừng để cho những giá trị của cha ngươi chỉ có trên môi miệng của ngươi mà thôi, nhưng hãy thực hành nó ra trong đời sống của ngươi, rồi thì lời thỉnh cầu của ngươi sẽ được chấp nhận.”
8. Giữa những lời cầu nguyện của những kẻ thờ phượng tôn vinh Ta chỉ bằng môi miệng, với những người làm điều đó từ trong tấm lòng của họ, có một sự khác biệt rất lớn. Thí dụ, có một người thờ phượng thật luôn luôn thường xuyên cầu nguyện cho một người khác để người nầy được mở mắt ra mà chấp nhận lẽ thật, trong khi người kia vì thù hằn với người thờ phượng thật cho nên cầu nguyện để cho người nầy bị mù. Cuối cùng lời cầu nguyện của người thờ phượng chân thật được Đức Chúa Trời yêu thương lắng nghe nhậm lời, và người trước kia sống cuộc đời giả dối nhận được thị giác tâm linh. Với tấm lòng tràn đầy niềm vui người nầy trở nên một người tín đồ chân thật, và thành một người anh em chân thành lâu dài với người đầy tớ chân thật của Ta.
9. Sự cầu nguyện khiến cho con người có thể thực hiện được những điều không thể nào thực hiện bằng các phương cách khác, và họ kinh nghiệm được những điều kỳ diệu trong cuộc sống, không những đối chọi với các qui luật và ý kiến của sự khôn ngoan thế gian, nhưng là những chuyện mà người ta cho là hoàn toàn bất khả thi. Những người có đầu óc khoa học không nhận biết rằng Ta là Đấng sắp đặt trật tự cho mọi tạo vật và lập ra luật pháp cho chúng, không thể bị giam hảm đằng sau những song sắt của những luật lệ của chính Ta. Những đường lối của Đấng Lập Pháp Vĩ Đại không thể dò lường được, bởi vì những ý chỉ và mục đích đời đời của Ngài là đem lại phước lành và thịnh vượng cho mọi tạo vật của Ngài, lý do con người thiên nhiên không thể hiểu được là vì những sự việc thuộc linh thì chỉ có tâm linh mới phân biệt được (I Cô-rin-tô 2:14).
Phép lạ lớn nhất trong mọi phép lạ là sự sinh lại của một người, đối với người đã kinh nghiệm phép lạ đó thì tất cả mọi việc đều có thể được. Trong những xứ thật lạnh thì cây cầu bằng nước là một chuyện thường thấy, bởi vì khi mặt sông bị đóng băng cứng lại nước ở bên dưới vẫn chảy tự do, nhưng con người có thể đi qua trên chiếc cầu băng một cách dễ dàng và an toàn. Nhưng nếu có ai nói về một chiếc cầu bằng nước băng ngang qua con sông đang tuôn chảy cho những người đang đổ mồ hôi dưới sức nóng của nhiệt đới thì chắc họ sẽ lập tức nói rằng đó là một chuyện không thể nào có được bởi vì nó trái với luật tự nhiên. Giữa những người đã sinh lại duy trì cuộc sống tâm linh bằng sự cầu nguyện có một sự khác biệt rất lớn đối với những người sống cuộc đời trần tục mà chỉ thấy giá trị cho những sự việc vật chất nên hoàn toàn mù tịt đối với sự sống của linh hồn.
10. người mong muốn nhận được ơn phước cho cuộc sống tâm linh bởi lời cầu nguyện phải tin và vâng phục vô điều kiện. Người có cánh tay teo đến cùng Ta, khi Ta ra lệnh cho anh ta hãy giang tay ra, anh ta đã lập tức vâng lời, và như vậy bàn tay anh ta được lành mạnh cũng như tay kia (Ma-thi-ơ 12:10-13). Nhưng giả sử như anh ta thay vì vâng lời lập tức như vậy anh ta bắt đầu lý luận và bảo, “Làm sao tôi có thể xòe tay ra? Nếu tôi có thể làm được như vậy thì tôi đến với Thầy làm gì ? Trước hết phải chữa lành bàn tay của tôi, rồi tôi mới có thể xòe ra được.” Tất cả lời nói đó đều rất hữu lý và đúng trọng tâm, nhưng nói như vậy rồi thì bàn tay anh ta sẽ chẳng bao giờ được lành.
Người nào cầu nguyện phải tin và vâng phục, và bằng lời cầu nguyện xòe đôi bàn tay khô héo yếu đuối của mình ra, rồi về phần Ta, Ta sẽ ban cho người sự sống tâm linh và những gì người có cần sẽ được ban cho người (Ma-thi-ơ 21:22).