Truyền bá Tin Lành thời Tân Ước
Tác giả: Micheal Green
Nội Dung
Lời Tựa: Học hỏi từ nơi các Cơ đốc nhân đầu tiên
1. Bí quyết sự tác động của họ
2. Phẩm chất các sinh hoạt Hội Thánh của họ
3. Dạng thức sứ điệp của họ
4. Mức độ chăm sóc của họ
5. Động cơ và phương pháp của họ
6. Kiến trúc sư của sự thành công của họ
Lời tựa
Học hỏi từ các Cơ đốc nhân đầu tiên
Ủa kìa, không phải là một cuốn sách khác về sự truyền bá Tin Lành sao?
Điều đó sẽ không cần nếu như các Cơ đốc nhận biết đặt những việc ưu tiên lên hàng đầu. Tiền nhân của chúng ta trong đức tin đã bị vu cáo là “làm đảo lộn cả thiên hạ” với tin tức tốt lành họ đã thuật cho dân chúng về Chúa Jesus (Cong Cv 17:6). Nhưng ở thế giới Tây phương, trước tất cả mọi biến cố, Cơ đốc giáo chẳng có chút nào là một sự truyền bá tin tức tốt lành làm hưng phấn, mang tính cách mạng cả. Người ta xem nó như một cái gì đó phụ thêm của hiện trạng, như là kẻ bảo thủ, như là một kẻ trung lưu, như là kẻ ngu đần. Dường như có rất ít “tin tức” về nó, và điều gì đã xảy ra thì khá “tốt lành”. Nhưng đó chính là điều mà sự truyền bá Tin Lành muốn nói! Tôi không biết chắc được hầu hết các Cơ đốc nhân có cho rằng truyền bá Tin Lành là sự chia sẻ tin tức tốt lành hay không. Chắc chắn là họ không xem điều đó là công việc làm của họ. Điều mà chúng ta khác xa với Hội Thánh ban đầu là ở chỗ mọi người, nam cũng như nữ, đã xem việc truyền bá Tin Lành là nhiệm vụ của họ, nhằm làm chứng cho Chúa Jesus Christ bằng mọi phương tiện trong sự xếp đặt của họ. Cơ đốc nhân thời Tân ước đã chứng kiến sự thờ phượng năng động cùng với sự truyền bá Tin Lành một cách dạn dĩ và giàu trí tưởng tượng như là những mục đích song đôi mà vì đó Hội Thánh đã hiện hữu. Họ đã biết đặt những điều ưu tiên lên hàng đầu. Còn với chúng ta thì những sự ở hàng đầu thường được giải quyết sau cùng. Sự thờ phượng thì tẻ nhạt và có thể đoán biết trước, được quản trị bởi linh mục và ca đoàn, đó là một bổn phận hơn là một niềm vui. Và sự truyền bá Tin Lành thì cũng vậy, trong vòng nhiều nhóm người, đó chỉ là một từ ngữ bẩn thỉu.
Thực ra, nếu nhờ một phép lạ mà sự truyền bá Tin Lành được xếp trở lại thành “những công việc hàng đầu” thì có lẽ nó chỉ lọt vào những lỗ tai điếc, vì trong nhiều trường hợp, cuộc sống cá nhân và đời sống trong Hội Thánh thật khác xa với những gì đã được giảng truyền. Ngay cả khi sự truyền bá Tin Lành được thực hiện một cách năng nổ, thì nó thường phải chịu ba khuyết điểm: Sứ điệp được rao giảng chỉ là sự rút gọn thiếu sót của Tin Lành trong Tân ước. Các phương pháp được sử dụng thì rập khuôn. Sự quan tâm chăm sóc sau đó thì bị bỏ sót. Nói chung, toàn cả công việc là sự hoạt động tập trung vào chính con người, nương cậy nơi sự hiệu lực và kỹ thuật hơn là nhờ cậy nơi Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Tôi đã cố gắng xem xét những khuynh hướng nầy trong cuốn sách hiện có nầy và cũng hết sức liên hệ đến cái trở ngại lớn nhất, đó là sự hờ hững của chúng ta.
Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn cùng Hội Thánh Liên Hiệp Giám Lý Hoa Kỳ (United Methodist Church of the USA) đã mời tôi diễn thuyết về “những nền tảng cho sự Truyền bá Tin Lành trong Tân ước” tại Hội đồng của họ ở Miami vào tháng Giêng năm 1978. Chính từ nơi các bài thuyết trình nầy và nhiều buổi thuyết trình khác về sự truyền bá Tin Lành ở Anh Quốc, Phi Châu và Úc Châu mà cuốn sách nầy đã bắt nguồn.
Nếu có độc giả nào hỏi rằng có gì khác nhau giữa cuốn sách nầy với cuốn sách lớn hơn của tôi, cuốn Evangelism in the Early Church (Sự Truyền Bá Phúc Âm Trong Hội Thánh Ban Đầu), thì câu trả lời thật giản dị: Cuốn sách kia là một cuốn sách để nghiên cứu, còn cuốn sách nầy là một cuốn sách dành cho những ai muốn khám phá và áp dụng các nguyên tắc, động cơ và những phương pháp của Hội Thánh ban đầu vào khung cảnh đương thời. Thực ra, tôi đã không mở cuốn Evangelism in the Early Church ra trong khi đang viết sách nầy, dầu vậy, dĩ nhiên có nhiều điểm giống nhau được gồm tóm ở trong đó, nhưng cách xem xét thì lại hoàn toàn khác nhau. Sách nầy được viết ra nhằm khích lệ sự truyền bá Tin Lành thời nay trong ánh sáng của những gì đã được thực hiện rồi. Nó được neo vững chắc nơi Kinh Thánh Tân ước, đặc biệt là Sách Công-vụ các sứ-đồ. Nó cũng được lập nền vững vàng trong thời nay, đặc biệt qua kinh nghiệm của sự truyền bá Tin Lành mà tôi đã được đặc ân dự phần, hầu hết là mới gần đây ở tại Hội Thánh St. Aldate, Oxford.
Nếu bạn không thích cuốn sách nầy, mà tôi cho là tốt, thì bạn đừng phí thì giờ để lên án nó. Hãy đi và gieo rắc Tin Lành theo cách riêng của bạn. Với sự cố vấn của Đức Thánh Linh, sự hướng dẫn của Kinh Thánh, hãy đi ra và thương yêu người ta vì cớ Chúa Jesus, và hãy nói cho người ta biết tình yêu thương đó đến từ đâu. Hãy đặt những việc hàng đầu lên hàng đầu và “giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời” (IITi 2Tm 4:2). Nền văn minh nầy đang hấp hối vì thiếu sự truyền bá Tin Lành. Nếu chúng ta thật là Cơ đốc nhân thì chúng ta phải làm công việc của Tin Lành. Không có điều gì ưu tiên đối với các Hội Thánh mà họ đã lạc lối trong chủ nghĩa toàn cầu, trong sự tái thiết, trong sự tu chỉnh sự thờ phượng và sự cần thiết khác nhưng chỉ là những sự theo đuổi hướng nội, hơn là noi theo mạng lệnh cuối cùng của Chúa Jesus Christ, “Hãy đi, khiến muôn dân trở nên môn đồ Ta”. Chính trong lãnh vực biến muôn dân trở nên môn đồ nầy mà các Cơ đốc nhân đầu tiên có nhiều điều để dạy dỗ chúng ta.
Michael Green St. Aldate’s Church Oxford
Bí quyết sự tác động của họ
Khi mười một môn đồ bắt đầu truyền bá Tin Lành cho thế giới, chúng ta có thể tự hỏi họ đã làm công việc đó như thế nào.
Trong vòng mười năm sau cái chết của Chúa Jesus, Tin Lành về Ngài đã lan đến Alexandria và An-ti-ốt, là các thành phố lớn nhất ở Phi Châu và Á-châu. Hầu như chắc chắn rằng Tin Lành cũng đã truyền đến La-mã vào thời kỳ ấy: Nó là một phong trào hiển nhiên trong thành phố thủ đô của thế giới thời ấy đến nỗi các Cơ đốc nhân đã bị Hoàng đế Neron biến thành vật hi sinh cho trận Đại hoả hoạn xảy ra vào năm 64 S.C. Sứ điệp Tin Lành lan truyền như ngọn lửa dại khắp cả Đế quốc, và nếu không vì những khuynh hướng bách hại của Hoàng đế Domitian thì có lẽ vào cuối thế kỷ đầu tiên đã có một vị hoàng đế người Cơ đốc rồi. Phong trào ấy đã phải đợi thêm 230 năm nữa mới có được điều ấy, nhưng rồi nó cũng đã chinh phục nhiều chủng tộc và nhiều nền văn hoá trong Đế quốc ấy, rồi nó cũng đã rầm rộ tràn vào trong giới quí tộc và trong vòng giới trí thức, nó đã làm thay đổi cuộc đời của vô số những con người nam nữ bình thường. Rõ ràng sự truyền bá Tin Lành là điều ưu tiên giữa vòng những con người đầu tiên theo chân Chúa Jesus.
Truyền bá Tin Lành là gì?
Một trong số các định nghĩa hay nhất xuất xứ từ Tổng Giám mục William Temple. “Truyền bá Tin Lành là trình bày Chúa Jesus Christ trong quyền năng của Đức Thánh Linh đến nỗi người ta đi đến chỗ đặt đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời thông qua Chúa Jesus Christ, tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa của họ, và phục vụ Ngài như là Vua của họ trong sự thông công của Hội Thánh Ngài”. Đó là truyền bá Tin Lành, không thể kém hơn chút nào. Nó là một vấn đề cộng đồng Cơ đốc chia sẻ tin tức tốt lành về một Cứu Chúa vơi những người chưa từng biết Ngài. Tóm lại, các Cơ đốc nhân ban đầu đã làm gì? Chẳng có gì nhiều cả. Họ không có Uỷ Ban Truyền Giáo hay Ban Truyền Giảng. Họ không có các buổi hội thảo hay các khoá huấn luyện về đề tài nầy. Họ không có bản tín điều xác định. Họ không có luật về cách hành xử khác với của Do-thái giáo là nơi họ đã xuất thân. Họ không có nghi thức. Họ không có nhà thờ, không có linh mục. Họ chỉ có một sự biết chắc rằng Chúa Jesus là Đấng Giải Cứu đã được trông đợi từ lâu, Ngài đã chết, đã sống lại và hiện đang cầm quyền trong cõi vũ trụ nầy. Rồi họ nói cho người ta biết về Ngài. Họ tham gia vào sự truyền bá Tin Lành. Nhưng chúng ta hãy xem kỹ càng thêm chút nữa, vì sự truyền bá Tin Lành dễ dàng có thể bị lẫn lộn với những điều khác.
Thứ nhất, sự truyền bá Tin Lành không phải là công tác truyền giáo. Truyền giáo là một từ ngữ rộng nghĩa hơn truyền bá Tin Lành. Nó nói đến sự tác động toàn thể của Hội Thánh trên xã hội, trong khi đó, truyền bá Tin Lành thì giới hạn hơn, nó là truyền lại cái tức tức tốt lành.
Truyền bá Tin Lành không mang tính cá nhân chủ nghĩa. Dầu nó có thể xảy ra giữa hai người, giống như một người hành khất nói cho người hành khất khác chỗ mà mình đã xin được bánh, sự truyền bá Tin Lành luôn luôn đem người ta vào sự thông công với những người đã tìm thấy Đức Chúa Trời hằng sống thông qua Đấng Christ.
Truyền bá Tin Lành không phải là một hệ thống. Có nhiều sứ điệp đã được chế thành khuôn dạng, nào là bài giảng ba điểm, bốn định luật thuộc linh, nào là “sơ đồ nhịp cầu”, và tương tự như vậy, đang lưu hành trong các giới Cơ đốc. Trong khi những tài liệu nầy đôi khi là những công cụ hữu ích cho sự truyền bá Tin Lành, nhưng chúng cũng là một mối đe doạ khi chúng được sử dụng cứng ngắt trong các hệ thống. Vì Chúa của chúng ta không phải là một hệ thống; Ngài là một con người. Truyền bá Tin Lành tức là đem một người nào đó đến đối diện với con người nầy. Nó không thể được thực hiện bởi một hệ thống.
Truyền bá Tin Lành không phải là một công việc phụ tuỳ ý lựa chọn cho những con người thích công việc như vậy. Nó không phải là một sự tiêu khiển có thể chấp nhận được cho người thích mua vui cho mình trên một chiếc hộp xà phòng ở ngoài trời, hoặc là thích chọc cười cái bản ngã của mình bằng cách nói chuyện cho một đám đông người tụ tập trong một sảnh đường công cộng. Truyền bá Tin Lành là chia sẻ tin tức tốt lành về những gì Đức Chúa Trời đã làm cho tất cả chúng ta. Đó là một nhiệm vụ thiêng liêng của mọi người Cơ đốc.
Truyền bá Tin Lành cũng không phải là nông cạn bề ngoài. Dĩ nhiên nó thường bị xem là nông cạn bởi những người không làm công tác truyền bá Tin Lành và bởi một số ít người có làm công tác đó. Thực ra, đa số người bỏ qua cái tên gọi truyền bá Tin Lành mới là nông cạn. Nhưng đó không phải là điều sự truyền bá Tin Lành muốn. Nó được dự định để trở thành tin tức tốt lành về cách Đức Chúa Trời tiếp đón tội nhân và xây dựng họ thành một xã hội mới mà nó cấu thành sự thiết lập hàng đầu về sự cai trị vương quyền của Đức Chúa Trời trong một thế giới loạn nghịch. Không có gì là nông cạn bề ngoài trong sứ điệp ấy và sự hàm ý của nó cả. Nó tác động đến trí tuệ, nhãn quan, những mối tương quan – nghĩa là mọi sự.
Truyền bá Tin Lành không phải là nhiệm vụ của những người thi hành chức vụ được tấn phong mà thôi. Chủ yếu nó không phải là nhiệm vụ của họ gì cả. Họ là những người giảng dạy về đức tin, nhưng trong chính bản chất của sự việc thì họ không tiếp xúc gần gũi với những người chưa tin nhiều cho bằng các tín hữu của các Hội Thánh tiếp xúc từ Thứ Hai cho đến Thứ Bảy. Không có hàm ý nào trong các bài ký thuật ngày xưa rằng Hội Thánh ban đầu đã xem sự truyền bá Tin Lành như là nhiệm vụ của thành phần lãnh đạo mà thôi. Mọi người được kêu gọi phải truyền bá tin tức tốt lành nầy. Có những người chuyên trách thì cũng là rất tốt.
Truyền bá Tin Lành cũng không phải là tìm cách lấp đầy những hàng ghế. Đôi khi một Hội Thánh cố gắng làm mọi sự khác – một cách vô ích – đã miễn cưỡng quanh quẩn với cái ý nghĩ cho rằng nếu phải cứ làm việc thì tốt hơn nên rút mình vào một chiến dịch truyền bá Tin Lành. Nếu sự truyền bá Tin Lành là một điều gì đó khác hơn là sự bộc phát tự nhiên của ngọn lửa mà Đấng Christ đã chiếu sáng ở bên trong đó thì nó sẽ là giả tạo và chẳng hoàn thành được điều gì cả.
Truyền bá Tin Lành cũng không phải là sự tuyên truyền do con người lập ra. Đức Chúa Trời tham dự vào trong đó. Đức Chúa Cha có can dự vào khi Ngài sai phái Con độc sanh của Ngài. Chúa Jesus Christ đã cho nó một sự ưu tiên đến nỗi Ngài lập nó thành chủ đề trong mạng lịnh cuối cùng của Ngài. Đức Thánh Linh được ban cho một cách đặc biệt để trang bị Hội Thánh cho công tác làm chứng. Truyền bá Tin Lành là sự bày tỏ ra tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong một thế giới đã sa ngã. Nó không phải là thứ thuốc an thần do con người làm ra.
Hơn nữa, truyền bá Tin Lành cũng không phải chỉ là sự cao rao của người Cơ đốc, cũng không phải là sự hiện diện của người Cơ đốc mà thôi; nó là cả hai. Đã có một khuynh hướng tai hại đối với một số Cơ đốc nhân nhằm tập trung vào sự rao truyền Tin Lành mà không bày tỏ Tin Lành, quá nhấn mạnh đến sự rao giảng, đến nỗi việc chăm sóc, việc chữa lành, việc giáo dục và việc giải thoát bị bỏ lại đằng sau. Để phản ứng lại, những người chú tâm vào một “Tin Lành xã hội” đã bằng lòng ở giữa những người khác, ôm ấp họ bằng cánh tay của tình yêu thương của Đấng Christ, nhưng lại không công khai làm chứng cho Đấng mà họ đã làm những công việc kia nhơn danh Ngài. Chính cái tư tưởng phân chia Tin Lành thuộc linh với Tin Lành xã hội đã coi thường Kinh Thánh Tân ước. Chúa Jesus đã ra đi vừa làm việc lành vừa rao giảng Tin Lành về nước Đức Chúa Trời. Các môn đồ của Ngài cũng nhắm vào một sự quân bình như vậy. Chỉ có một Tin Lành mà thôi – đó là Tin Lành về một Đức Chúa Trời, Đấng đã đến với những kẻ đang có cần và giải cứu họ, xây dựng họ thành một xã hội mới và quan tâm đến mọi khía cạnh của cuộc sống họ trong đời nầy và đời sau. Sứ điệp nầy phải vừa được rao truyền, vừa được sống theo. Chỉ hiện diện mà thôi hay chỉ rao truyền mà thôi đều không có ích lợi như nhau. Các Cơ đốc nhân ban đầu đã sử dụng cả hai điều nầy. Chúng ta cũng cần phải như vậy.
Sự truyền bá Tin Lành có dễ dàng đối với các Cơ đốc nhân đầu tiên không?
Khi chúng ta xem xét sự thành tựu trong xã hội xưa kia do nhóm môn đồ đếm được trên bàn tay ấy đã làm ra, thì chúng ta thử giả định rằng đã có những điều nầy hay điều nọ dễ dàng hơn cho họ. Tóm lại, chúng ta hãy xem xét những thuận lợi mà họ đã có.
Những sự thuận lợi của họ.
Họ đã có những sự giao thông liên lạc dễ dàng. Dưới sự cai trị của Đế quốc La-mã, bạn có thể đi từ Hắc Hải đến Vịnh Biscay mà không cần có hộ chiếu, không cần phải đóng thuế nhiều ở các hải cảng, không sợ sự khuấy phá của bọn hải tặc. Hơn nữa, bạn còn có một mạng lưới đường giao thông tuyệt vời của người La-mã. Phải, điều đó giải thích cho sự thuận lợi. Nhưng xin chờ một chút. Tôi phải mất bao nhiêu thời gian để đáp máy bay đi từ Vancouver đến Heathrow? Mười tiếng đồng hồ phải không? Vậy thì, cần phải có nhiều điều hơn là hệ thống đường giao thông tốt.
Họ đã có một ngôn ngữ chung – tiếng Hi-lạp là lingua franca (ngôn ngữ thông dụng) khắp thế giới thời cổ. Phi-e-rơ có thể giảng bằng ngôn ngữ ấy trong ngày Lễ Ngũ Tuần và mọi người đều có thể hiểu ông, dù họ là người đảo Cơ-rết, là cư dân vùng Mê-sô-bô-ta-mi, là du khách đến từ La-mã, Ả-rập hoặc là Ai-cập. Phải chăng ngày nay chúng ta không có một lingua franca như vậy? Anh ngữ sẽ được sử dụng rộng rãi ở hơn một nửa thế giới. Theo đà ngôn ngữ lưu hành, thật dễ dàng cho chúng ta truyền bá Tin Lành cũng như đã có đối với các sứ đồ vậy.
Họ có sự thuận lợi về điều mới lạ. Phải, điều đó là đúng. Chưa có người nào từng được nghe Tin Lành trước đó, do đó dĩ nhiên họ cũng muốn thích nuốt trọng Tin Lành trong lần thử đầu tiên. Người ta có làm điều đó không? Có bao giờ bạn thử đến với các tín đồ của các đức tin khác bằng Tin Lành của Chúa Jesus không? Họ có nuốt chửng Tin Lành trong lần thử đầu tiên không? Hãy nhớ rằng tất cả những người qui đạo ban đầu, chớ không phải chỉ vài trường hợp lẻ tẻ trong số đó, đều là những người qui đạo từ những đức tin khác. Nếu bạn cảm thấy rằng sự mới lạ là chìa khoá cho sự truyền bá Tin Lành thì đã có hàng tỉ người trên thế giới nầy chưa từng được nghe về Chúa Jesus Christ và có hàng triệu người khác mà đối với họ danh của Ngài chỉ là một từ để thề nguyện. Hãy thử thực hiện cái thuyết về tính mới lạ ở trên họ đi.
Xin đừng nghĩ như vậy, thay vì tự lừa dối mình khi nghĩ rằng nếu chúng ta sống trong thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai thì chúng ta cũng đã thấy sự truyền bá Tin Lành nầy là một công việc dễ dàng hơn nhiều so với chúng ta hiện đang sống, chúng ta hãy dành một chút suy nghĩ đến những sự khó khăn mà họ đã phải làm việc khó nhọc dưới những hoàn cảnh đó.
Những sự khó khăn của họ
Trước tiên, họ rất ít người. Chỉ có mười một người nam và một nhóm phụ nữ đếm được trên đầu ngón tay. Họ cùng cỡ với Hội chúng của một hội truyền giáo bị thất bại trong một làng bản nào đó ở chốn đồi núi hoang vu.
Còn gì nữa? Họ không có học thức. Họ chỉ là những ngư phủ dốt nát. Đúng hơn thì họ có một nhân viên thuế vụ giữa vòng họ, thậm chí một con người thần bí kỳ lạ – và một hoặc hai người mà sau nầy chứng tỏ là khá tốt về ngôn ngữ và sự giảng dạy một cách không mong đợi. Nhưng, so với những người được đào tạo, hoặc là trong sự hiểu biết rộng rãi của Plato, hoặc là những sự tinh tế của Do-thái giáo của các ra-bi, thì họ thực sự là những con người ngu dốt, không có học thức.
Về mặt văn hoá, họ cũng bị tước đoạt nữa. Ít có điều gì trong nền văn hoá cổ sử đã thấm xuống đến họ. Ngay cả người có văn hoá nhất trong số họ là Sau-lơ, xuất thân từ trường đại học vùng Tạt-sơ, cũng chưa hề bước chân đến Đền Parthenon*, và khi đến A- thên, ông đã nói rằng “cuối cùng ta có thể thấy được những gì ta đã được đọc nhiều về nó”. Ông đã động lòng tức giận vì thấy thành đều đầy dẫy những hình tượng. Đó không phải là phản ứng đầu tiên của tôi khi tôi đến thành A-thên. Còn phản ứng của bạn thì sao?
Họ không có một tổ chức nào đứng ở đằng sau họ cả. Họ là những Cơ đốc nhân đầu tiên. Họ có rất ít những người giảng đạo thực sự có khả năng. Thực ra, việc nói chuyện với đám đông người dường như không phải là nằm trong khả năng của họ gì cả, sau lần phát động sơ khởi xảy ra ở Giê-ru-sa-lem mà nó gây ra một cuộc đàn áp sau cái chết của Ê-tiên. Nói tóm lại, các hoàng đế La-mã có phần khó chịu về những sự tụ họp mà nó có thể được giải thích như là những hoạt động chính trị. Há không phải điều đó được sáng tỏ trong việc một hoàng đế như Trajan đã cảnh giác Pliny, viên tổng trấn của ông ở tại xứ Bi-thi-ni trong thế kỷ thứ hai, rằng ông không được để cho nhiều hơn mười lăm người tụ họp với một mục đích vô thưởng vô phạt, vì nó vẫn có thể trở thành một đội binh chiến đấu ở địa phương đó sao? Thật đáng kinh ngạc nếu cho rằng các nhà truyền giảng phúc âm ban đầu đã có những chiến dịch truyền giảng toàn thành phố.
Thực ra, sự việc còn tệ hơn điều nầy nữa. Các Cơ đốc nhân đã bị dân Do-thái cũng như dân Ngoại khinh dể và căm ghét. Trong thế giới Hi-La họ phải đối diện với những hàng rào cản ngăn đáng sợ nhất khó hình dung nổi.
Những hàng rào cản ngăn họ đến với dân ngoại giáo
Có hàng rào về chủng tộc. Thế giới thời ấy được chia thành hai trại quân đối nghịch, dân Do- thái và dân Ngoại. Người La-mã đã cố kết chặt những dân mà họ đã chinh phục thành một loại đồng chủng bất chấp những bối cảnh chủng tộc khác nhau của họ. Nhưng người Do-thái nhất định từ chối điều đó. Họ thờ phượng một Đức Chúa Trời chớ không phải thờ phượng nhiều thần – dân ngoại giáo gọi họ là những kẻ vô thần. Họ có những thói quen buồn cười như là không ăn thịt heo, làm cắt bì cho các bé trai và muốn ở không một ngày trong bảy ngày. Người La-mã không bao giờ hiểu được người Do-thái nhưng họ đã học cách sống với người Do Thái và ban cho họ một số đặc ân đáng kinh ngạc. Còn các Cơ đốc nhân không thuộc loại cá cũng chẳng thuộc loại chim. Họ tự xem mình như là một “chủng tộc thứ ba”, không phải là Do-thái cũng chẳng phải là dân Ngoại. Họ đã sống theo cách ấy. Họ đã hợp lại thành những thành viên thuộc cái chủng tộc thứ ba lạ lùng nầy của cả hai xã hội trong thế giới thời xưa và đã kết hiệp thành một đoàn thể hiệp nhất.
Cũng có những hàng rào về giai cấp nữa – những kẻ có của và những kẻ vô sản. Thế giới thời xưa, theo một ý nghĩa, đã phân chia giai cấp còn hơn trong Ấn độ giáo hay trong đời sống cộng đồng của người Anh nữa. Đó là sự phân chia giữa chủ và thợ, giữa chủ nô và nô lệ. Không có cách nào mà trong đó hai tầng lớp người nầy của nhân loại có thể quan hệ bình đẳng – mãi cho tới khi có sự xuất hiện của Tin Lành của Chúa Jesus Christ.
Có hàng rào về chủ nghĩa đa nguyên tôn giáo. Cũng như xã hội chúng ta, xã hội của họ cũng rất là đa nguyên. Quan niệm thường được chấp nhận đó là mọi tôn giáo đều tốt như nhau – người La-mã đã có một cách khám phá hấp dẫn những vị thần nào ở địa phương khi họ đã chinh phục được một xứ, rồi họ nhận các vị thần đó làm thành viên của đền thần Hi-La. Họ hẳn đã vui vẻ tiếp đón Chúa Jesus và mời Ngài gia nhập vào hội nếu các Cơ đốc nhân yêu cầu điều đó: thực ra, đến cuối thế kỷ thứ hai, một hoàng đế dân Ngoại đã có một đền thờ với năm vị thần linh ở trong đó, mà một trong số các vị đó là Chúa Jesus. Nhưng ông đã bắt bớ các Cơ đốc nhân. Tại sao vậy? Bởi vì họ đã khẳng khái đòi sự độc tôn cho Chúa Jesus. Ngài không thể là một vị trong đoàn thể đông đảo các thần linh được. Ngài là Đấng duy nhất, Đấng không ai sánh kịp. Chắc chắn rằng những người xưa đã đối diện nhiều với một nan đề trong sự dung nhượng về tôn giáo và chủ nghĩa đa nguyên ở thời của họ như chúng ta đang đối diện trong bầu không khí đương thời.
Còn có hàng rào về sự suy đồi trong xã hội nữa. Trong thế kỷ thứ nhất, thế giới của người La- mã đã bị ô danh vì dục vọng, sự tham lam và sự độc ác ở mức độ tập thể đông đảo. Có những dấu hiệu đầu tiên xuất hiện trong sự suy đồi của xã hội, những dấu hiệu tương ứng một cách lạ lùng với thời đại chúng ta ngày nay. Đối diện với sự đe doạ về một nền văn minh đang sụp đổ, các Cơ đốc nhân không những đã tăng trưởng và chế phục được cái nền văn minh ấy, nhưng họ còn làm cho nó tồn tại như họ đã làm cho tồn tại mọi nền văn minh kể từ thời đó.
Có hàng rào về sự ngờ vực chính trị nữa. Dầu lúc dầu họ không náo động về mặt chính trị, nhưng sứ điệp của họ xuyên suốt vào lòng như một bài tuyên truyền có ý nghĩa nhiều nhất mà những nhà chính trị đã thành đạt – huyền thoại cho rằng Sê-sa là Chủ Tể tối cao, là bậc oai nghi, là vị sáng lập Thời đại Hoàng kim. Các Cơ đốc nhân từ chối dành cho Sê-sa tước hiệu Chúa Tể vũ trụ. Họ từ chối dâng hương cho các tượng của ông. Do đó họ bị kết vào sự ngờ vực. Làm một thành viên của một Hội Thánh Cơ đốc tại La- mã trong thế kỷ thứ nhất cũng nguy hiểm như là làm một thành viên của một nhóm Cộng sản ở tại Hoa Thịnh Đốn trong thế kỷ hai mươi vậy. Ngoài ra, người ta đòi hỏi nhiều về luân lý đáng sỉ hổ của họ: những bữa tiệc của thần Thyestes a và những hành vi của thần Oedipus b ấy mà. Bộ không nghe họ nói đến sự yêu thương giữa anh chị em, và ăn thịt cùng uống huyết ai đó trong bữa ăn sao? Bạn không thể tin cậy họ được. Họ đúng là một loại người chống xã hội, có thể họ đốt cháy thành La-mã đấy – Đó là lý do tại sao Hoàng đế Nero thấy thuận tiện để đổ cho họ tội gây ra cuộc hoả hoạn mà có thể lắm chính ông là người gây ra cuộc hoả hoạn đó.
Còn có hàng rào của chủ nghĩa khuyển nho * nữa. Cái xã hội mà Cơ đốc giáo được sinh ra đã được bồi bổ bằng tôn giáo. Cũng như xã hội của chúng ta, chắc chắn nó đã bị gậm nhấm với Khoa chiêm tinh và pháp thuật. Còn trái tim thì đã đi ra khỏi cái tôn giáo thời cổ. Chỉ khi bạn đã đọc cuốn Satires (trào phúng) của Juvenal thì bạn mới thấy được ông ta khinh miệt cái tôn giáo của người La-mã thời cổ như thế nào, nhưng một lời đề tặng mới đây đã tỏ lộ cái điều mà nó cho thấy rằng chính ông đã từng là một tư tế ở trong đó! Thật khó lường được cái chủ nghĩa khuyển nho. Ngày nay, có nhiều người trong Hội Thánh Cơ đốc, họ vốn là những người thi hành chức vụ được tín nhiệm, nhưng đã công khai thừa nhận sự tỉnh ngộ và sự vô tín của họ – và cái người ở ngoài đường kia đúng là vô liêm sỉ. Nếu những người được trả công để làm người phục vụ không tỏ ra tin nơi đức tin Cơ đốc giáo, thì tại sao họ lại phải làm phiền toái đầu óc của mình về nó như vậy?
Còn có những hàng rào đáng kể khác ngăn chặn sự thành công của Cơ đốc giáo trong thế giới dân Ngoại. Trong vòng dân Do-thái, nó cũng chẳng dễ dàng gì hơn.
Những nan đề trong việc đến với người Do-thái
Thứ nhất, các Cơ đốc nhân chẳng là ai cả. Ai uỷ nhiệm cho họ? Họ đã xuất thân ở trường học ra-bi nào? Trong vòng những người lãnh đạo quốc gia có ai đã quay về với đức tin mới nầy không? Chẳng có ai cả. Cái Hệ-thống-đã-được-kiến-lập là quá kiên cố đối với họ. Chẳng có một chỗ nào để họ chen chân.
Còn gì nữa? Họ đã không giữ luật pháp của Y-sơ-ra-ên. Họ theo phe dân Ngoại – chẳng giữ luật Kosher về thức ăn tinh sạch gì cả. Họ bỏ qua nghi lễ cắt bì thiêng liêng. Há không phải sách Sáng-thế Ký đã buông lời rủa sả trên đầu những kẻ nào từ chối làm cắt bì cho con trai mình đó sao? Dường như những con người theo Jesus nầy chẳng tuân giữ Cựu ước lắm, chỉ đòi giữ phần còn lại mà thôi. Điều nầy khó có thể hy vọng được hoan nghinh.
Còn đứng đầu mọi việc đó, họ đã rao giảng Đấng Mê-si là một con người, một người mà chắc chắn đã nếm mùi thất bại. Việc suy cứu về Đấng Mê-si ở thế kỷ thứ nhất vừa thịnh hành vừa khá mơ hồ, nhưng công việc đó chắc chắn bao gồm cả việc giải thoát đất nước Y-sơ-ra-ên ra khỏi quyền cai trị của người La-mã. Thay vì làm được điều đó, Chúa Jesus đã bị người La-mã hành quyết – theo sự xúi giục của người Do-thái. Thật là xấc láo mới cho rằng con người đó là Đấng Mê-si! Tệ hơn nữa, đó là một sự phạm thượng. Cựu ước đã nói rõ ràng rằng kẻ bị treo thân trên cây gỗ là ở dưới sự rủa sả của Đức Chúa Trời. Chúa Jesus chẳng những đã thất bại, nhưng Ngài còn ở dưới một sự rủa sả nữa. Làm thế nào Ngài có thể là Đấng Mê-si được?
Đây là một số những sự khó khăn đáng sợ mà các Cơ đốc nhân phải đối diện khi họ tìm cách truyền bá Tin Lành cho người Do-thái. Còn có một điều khác nữa cáo nghịch cùng họ: họ không góp phần bảo vệ chính quyền Y-sơ-ra-ên. Khi ấy đất nước Y-sơ-ra-ên đang bị áp bức bởi người La-mã, nhất là trong những năm 66-70 S.C, giống như hiện nay bị áp bức bởi người Ả-rập vậy. Các Cơ đốc nhân chẳng làm gì để ủng hộ chính nghĩa của những người quốc gia cả; họ tự cắt đứt mình với cái chính nghĩa đó. Trong con mắt của người Do-thái, những con người như vậy thật đáng khinh bỉ.
Có dễ dàng để cho họ thực hiện công tác truyền bá Tin Lành nầy không? Tôi rất hoài nghi về điều đó.
Họ đã thành công như thế nào?
Chắc chắn cái bí quyết chính của sự tác động của họ là sự thay đổi thấy rõ trong đời sống của chính họ. Nó bày tỏ ra bằng nhiều cách.
Những con người mới
Không phải là nói quá, họ là những con người mới. Đây là cái ấn tượng mà họ đã tạo ra trong lần xuất hiện trước công chúng lần đầu tiên – họ đã quá xúc động với tin tức tốt lành của họ đến nỗi họ có vẻ như là bị say rượu. Điều khác lạ là không có triệu chứng tàn dư (của sự say rượu). Phẩm chất mới của nếp sống họ kéo dài bền lâu và nó đã thành công trong việc làm sửng sốt cái thế giới thời cổ. Dĩ nhiên cũng có những sự thất bại, chẳng hạn như A-na-nia và Sa-phi-ra, sự tranh cạnh giữa Phao-lô và Phi-e-rơ, và những điều lộn xộn ở Hội Thánh Cô-rinh-tô. Nhưng nói chung, sự tác động toàn bộ là một sự tác động của một sự sống mới tuyệt đối. Họ đã nhận rằng nguyên nhân của điều nầy là sự kiện Đức Thánh Linh đã đến ngự ở trong họ. Họ sống theo cái sứ điệp của họ.
Hãy nghĩ đến Giăng, “con trai của sấm sét”, người đã từng có lần đòi giáng lửa từ trời đến trên một làng của người Sa-ma-ri vì cớ họ thiếu sự hiếu khách. Vậy mà ông đã trở nên vị sứ đồ tối cao của tình yêu. Hãy nghĩ đến Phi-e-rơ, một con người chập chờn và hay thay đổi. Ông đã trở thành con người đá mà Hội Thánh Cơ đốc đã được lập trên cá tính và sự rao giảng của ông. Lần lượt những môn đồ ban đầu nầy đã được biến đổi theo ảnh tượng của Đấng mà họ rao giảng. Tình cờ, điều nầy cũng giúp giải thích được một nan đề của thần học. Người ta thường nhận thấy rằng dường như có một sự tương ứng được xem xét kỹ lưỡng giữa những hành động của Phi-e-rơ và những hành động của Phao-lô ở trong sách Công-vụ. Đây là trường hợp đúng thật, xin đừng cho đó là sự bày đặt của tác giả! Lu-ca đã nhọc công để nêu ra rằng có một sự tương tự sâu xa giữa đời sống của Phi-e-rơ, đời sống của Phao-lô, đời sống của Ê-tiên và đời sống của Chúa Jesus như được ghi trong tác phẩm đầu của ông, Sách Phúc âm Lu-ca. Đó là đề tài về sự biến đổi. Những con người đi theo Chúa Jesus dần dần được làm cho trở nên giống như Ngài. Đó là tất cả những gì về Cơ đốc giáo.
Trong lần từ giã các trưởng lão ở Ê-phê-sô, Phao-lô nói rằng: “Tôi…. hằng ở luôn với anh em cách nào, anh em vẫn biết”. Đời sống của ông thật trong trắng và đó là điều đã làm cho sứ điệp của ông có sức mạnh. Bạn không thể giả vờ làm một người của Đức Chúa Trời. Cuộc sống của chúng ta phải biểu lộ ra một phẩm chất mới như vậy, những dấu hiệu của sự biến đổi như vậy, khiến cho người ta thắc mắc và muốn biết tại sao như vậy. Chỉ khi đó Tin Lành mà chúng ta đã nói cho họ mới gây được ấn tượng cho họ.
Khi tôi nghĩ đến những người đến đặt đức tin nơi Đấng Christ thông qua Hội Thánh của chúng tôi ở Oxford, tôi tin rằng cái yếu tố quan trọng nhất trong cái quá trình đó chính là cuộc sống được thay đổi của bạn hữu họ. Họ biết có một điều gì đó khác lạ về những con người đó, và họ đã quyết định tìm xem đó là điều gì. Một khi đời sống chúng ta bén lửa với Đấng Christ, thì chúng ta sẽ truyền bá Tin Lành một cách không thể tránh khỏi: chúng ta sẽ không cần phải có những hướng dẫn về kỹ thuật. Tóm lại, điều gì đã kích thích nhà thám hiểm cần đến những kỹ thuật để mà truyền thông những sự khám phá của họ? Nếu chúng ta không được cảm động với Đấng Christ và không được Ngài thay đổi, thì dù chúng ta có đủ mọi kỹ thuật của thế giới nầy cũng chẳng đi đến đâu.
Sự tận hiến của họ
Sự tận hiến và sự sẵn lòng vâng phục của họ, với bất cứ giá nào, là một điểm đáng chú ý khác của cuộc đời được thay đổi của họ. Đức Chúa Trời ban Thánh Linh Ngài cho những kẻ biết vâng phục Ngài (Cong Cv 5:32) và họ đã chứng minh cho lẽ thật đó. Điều đó gần như là trọng tâm của “sự thánh khiết” của Kinh Thánh mà nếu không có nó thì chẳng ai có thể phản chiếu nhiều về Chúa và có thể thu hút người khác đến với Ngài được. Đức Thánh Linh và đời sống vâng phục thánh khiết liên kết với nhau một cách tích hợp. Hãy thử nghĩ đến sách Công-vụ các sứ-đồ xem. Trong chương 1, Chúa Jesus bảo các môn đồ hãy chờ đợi cho đến khi quyền phép của Đức Thánh Linh giáng trên họ; sau đó họ sẽ làm chứng nhân cho Ngài theo những vòng lan rộng mãi – từ Giê-ru-sa-lem, đến Giu-đê, đến Sa-ma-ri, cho đến tận cùng trái đất. Họ đã chờ đợi, họ đã được đầy dẫy, họ đã ra đi loan báo Tin Lành trong năng quyền của Đức Thánh Linh. Trong chương 8, Đức Thánh Linh truyền bảo Phi-líp, một nhà truyền bá Tin Lành lừng danh nhất, phải rời bỏ một khu vực phấn hưng đang phát triển ở Sa-ma-ri để đi vào nơi hoang mạc – nơi mà theo như bình thường thì ông không thể mong đợi tìm thấy một người nào cả. Ông đã vâng lời và ra đi. Và như vậy, Thánh Linh của Đức Chúa Trời có thể dẫn đưa ông đến với hoạn quan Ê-thi-ô-bi, một con người có ảnh hưởng lớn mà ông đã chinh phục về cho Đấng Christ. Trong chương 9, A-na-nia được truyền bảo phải đi và tìm gặp một đối thủ khét tiếng của đức tin, đó là Sau-lơ người Tạt-sơ. A-na-nia không thích cái ý tưởng đó. Ông sợ sệt và ngần ngại. Nhưng ông đã đi. Và rồi Thánh Linh của Đức Chúa Trời có thể hoàn thành sự hoán cải cho Phao-lô và làm đầy dẫy ông bằng sự sống mới. Phi-e-rơ biết rõ rằng Đức Chúa Trời chẳng có ích chi cho dân Ngoại. Thánh Linh của Đức Chúa Trời thuyết phục ông rằng ông thực sự phải đi và rao bảo cho một người trong số họ về Chúa Jesus: ông vâng lời và ra đi. Kết quả là Cọt-nây và cả nhà của ông đã trở lại đạo và một sự tuôn đổ Thánh Linh của Đức Chúa Trời xảy ra ở Sê-sa-rê (chương 10). Trong chương 20, chính Phao-lô cũng nhận biết rõ rằng nếu ông cứ khăng khăng tiến hành cuộc hành trình dự tính đi lên thành Giê-ru-sa-lem của mình thì có thể cuối cùng ông sẽ gặp rắc rối. Nhưng ông vẫn kiên quyết ra đi: và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đồng công một cách mạnh mẽ với ông. Tất cả những gương mẫu nầy bày ra trước mắt chúng ta sự liên kết giữa sự vâng phục và quyền năng của Đức Thánh Linh trong sự truyền bá Tin Lành, nhưng chúng ta không lưu ý đến. Đức Chúa Trời truyền bảo chúng ta phải hạ mình và cầu nguyện nếu chúng ta muốn thấy sự ban phước của Ngài, và chúng ta đã không làm điều đó. Đức Chúa Trời phán rằng chúng ta phải quan tâm đến người nghèo thiếu và đừng ưu đãi kẻ giàu sang; chúng ta đã chọn sự không vâng theo lời Ngài. Đức Chúa Trời phán bảo rằng chúng ta phải đặt Ngài lên hàng đầu nếu chúng ta muốn thấy quyền năng của Ngài hành động; nhưng rồi hầu hết, nếu không phải là tất cả, những thần tượng của chúng ta đã đứng phía trước Ngài. Do đó, đừng lấy làm lạ tại sao chúng ta không có quyền năng!
Ý thức mừng vui về sự khám phá của họ
Những con người nầy đã tìm được của báu và họ muốn cho những người khác biết điều đó. Những người nầy là những con người nhiệt thành đối với Đấng Christ và họ chia sẻ lòng nhiệt thành ấy với người khác. Những người nầy tin chắc rằng ý nghĩa của vũ trụ nầy được bày tỏ ra trong sự giáng trần, sự chết và sự phục sinh của Chúa Jesus, và họ không thể giữ im lặng về điều đó. Họ đã không nói rằng “Nhà thờ là nơi hợp lý để đi đến đó vào mỗi sáng Chúa Nhật – chúng tôi có âm nhạc rất hay”, nhưng họ nói “Hãy đến xem Đấng đã bảo cho tôi về tất cả mọi điều mà tôi đã từng làm”, hoặc họ nói: “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mê-si – Hãy đến xem!”. Họ là những nhân chứng và đã hành động như là những nhân chứng. Còn ngày nay bạn thường thấy điều đó như thế nào trong vòng những tổ chức người Cơ đốc? Trong cái thời đại không mộng mơ nầy, lòng nhiệt thành đã bị nghi ngờ. Nói chung, mọi người đều đề cao ý kiến riêng của mình… chúng ta không muốn bị cáo buộc về việc lôi kéo người ta theo đạo… chúng ta phải tôn trọng sự riêng tư của người ta! Và như vậy chúng ta giữ được sự bình yên cho chúng ta, còn những người nam nữ chung quanh chúng ta, những người mà Đấng Christ đã chết thay cho họ và Ngài truyền cho chúng ta phải đến với họ, thì chẳng được nghe điều gì cả và chúng ta hoàn toàn lãng quên sự kiện (nếu đó là sự thật) chúng ta đã tìm được của báu quí nhất trên thế gian.
Tôi nhớ đến một nữ sinh viên người Do-thái đã theo học tại trường Oxford, cô vừa được nghe nói về Chúa Jesus và cô đã đặt lòng tin cậy nơi Ngài. Cô bảo tôi rằng trong vòng mười ngày cô đã đọc hết cuốn Tân ước qua ba lần và cô đã cảm nhận được Đức Chúa Trời tuôn đổ tình yêu Ngài vào trong cô. Tôi nghĩ đến khoảng ba mươi thanh niên nam nữ ở trong trường đại học đó trong tám tuần lễ qua họ đã bước đi cùng một bước đức tin ấy – không phải vì có người nào đã giảng đạo cho họ nhưng là vì các bạn hữu Cơ đốc của họ không thể giữ im lặng về phúc âm của Cứu Chúa, và họ đã thấy mình được tình yêu của Ngài buộc phải sống một cuộc sống của người môn đồ. Đó là cách mà Tin Lành đã lan rộng trong thời kỳ ban đầu, đó là cách mà Tin Lành sẽ lan rộng ở thời nay khi chúng ta để cho người ta thấy lòng sốt sắng của mình đối với Chúa.
Tình yêu thương trong sáng của họ
Nhưng cũng còn có một điều khác đánh dấu cho những Cơ đốc nhân ban đầu ấy, nếu nó không đánh dấu cho chúng ta thì sẽ không có ai quan tâm đến những gì chúng ta nói, đó chính là tình yêu thương trong sáng của họ. Có rất nhiều sự bất bình đẳng về sự giàu có và về cơ hội ở giữa vòng đa số người thời xưa, nhưng những sự bất bình đẳng như vậy không tồn tại giữa vòng những người Cơ đốc. Cong Cv 4:32 cho chúng ta biết rằng tập thể các tín đồ có cùng một lòng, một ý. Không có người nào đòi hỏi quyền lợi riêng về tài sản của mình. Họ xem mọi vật là của chung. Và chúng ta đọc thấy các sứ đồ có quyền phép rất lớn để làm chứng cho Chúa Jesus. Có thể nào khác đi không khi mà giữa vòng họ chẳng có người nào bị thiếu thốn cả? Khi mà những người có nhà cửa bán đi các nhà cửa đó và góp vào các công việc từ thiện? Sự thông công yêu thương của họ đã đạp đổ những hàng rào ngăn cách tự nhiên giữa những người da đen và da trắng, giữa chủ và tôi tớ, giữa người giàu và người nghèo, giữa những người xuất thân từ bối cảnh Do-thái với những người xuất thân từ bối cảnh Hi-lạp. Họ chia sẻ cho nhau của cải, bữa ăn, sự thờ phượng của nó – chia sẻ mọi thứ, như Justin đã nêu ra, ngoại trừ chia sẻ vợ của họ (lãnh vực mà hầu hết người ngoại hầu như sẵn sàng chia sẻ, khi mà ông nhắc đến họ một cách không thiện cảm). Hãy thử nghĩ đến các môn đồ ban đầu ấy. Điều gì đã làm cho Si-môn người Xê-lốt có thể chung phần với Ma-thi-ơ là người thâu thuế? Họ là những con người không thể hoà giải với nhau về chính trị. Những người Xê-lốt quyết tâm sát hại người La-mã trong khi những người thâu thuế làm giàu cho mình nhờ thuế của người La-mã. Nhưng tình yêu thương của Chúa Jesus đã ràng rịt hai con người nầy lại với nhau. Hãy thử nghĩ đến các anh em của Chúa Jesus, những con người đã có lần không tin Ngài và họ tưởng là Ngài cuồng trí. Trong sách Công-vụ, chúng ta lại thấy họ cùng với mẹ Ngài hiệp chung với các môn đồ mà họ đã từng có lần nhạo báng, hiệp chung trong tình thân và họ đã được đầy dẫy cùng một Đức Thánh Linh.
Tình yêu thương đối với anh em nầy là quyết định. Không có nó thì không thể nào có được sự truyền bá Tin Lành hữu hiệu. Thế gian phải nhìn thấy giữa các vòng người Cơ đốc một sự thông công ấm áp, tiếp nhận và quan tâm nhiều hơn là họ có thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác – và cho tới khi họ thấy rằng đó chưa phải là tất cả những gì thu hút hoặc gây ấn tượng với sự tiếp chuyện cùng Đức Chúa Trời.
Sự chịu đựng của họ
Một nét kỳ lạ khác của những người Cơ đốc ban đầu nầy đó là sự chịu đựng của họ. Không phải chỉ chịu đựng những sự nhạo cười, những cái nhún vai nhưng là chịu đựng sự khuấy rối, sự bắt bớ, tù đày và sự chết. Thử nghĩ đến sự bình an mà nó đánh dấu cho sứ đồ Phi-e-rơ khi ông nằm ngủ giữa những người lính canh trong cái đêm trước ngày ông bị hành quyết. Hãy nghĩ đến Ê-tiên đang quì với khuôn mặt rạng rỡ cầu nguyện cho những kẻ giết mình khi mà những cục đá được ném vào mình ông và cất lấy mạng sống của ông. Hãy nghĩ đến Phao-lô và Si-la đang nằm trong tù với chân họ bị cùm và lưng họ bị xé rách vì sự đánh đòn oan uổng. Và họ đã làm gì? Hát ca ngợi Đức Chúa Trời vào giữa đêm, nếu bạn thích! Đối với tôi, điều đó là một phép lạ còn lớn hơn cả thời điểm động đất đã giải thoát họ ra khỏi tù và đã đem lại sự hoán cải cho viên cai ngục nữa. Đó là một loại chịu đựng mà bạn không thể dập tắt được. Tất cả những gì bạn có thể làm đó là giết những con người không thể có nầy – và họ hát ngợi khen cho đến chết. Thế giới thời cổ đều biết về chủ nghĩa khắc kỷ, ngậm cứng miệng trong những lúc khó khăn. Nhưng thế giới đó đã không bắt đầu hiểu được một người mà họ có thể chịu khổ và chịu chết với một sự vui mừng rạng rỡ và hớn hở.
Thế giới thời nay cũng không hiểu được cái phẩm chất ấy của sự chịu đựng, nhưng họ chú ý đến nó với một sự kinh ngạc. Ba người U-gan-đa bị cáo buộc là phạm tội chính trị chống lại Tướng Amin, họ bị tống giam vào ngục. Họ đã lớn lên trong năng quyền và tình yêu của Đức Thánh Linh. Họ bị đưa ra hành quyết trước công chúng. Họ thúc giục Giám mục Festo Kivengere, người được phép đến đó để khích lệ họ, đi nói về Tin Lành cho những kẻ hành quyết họ, đang khi họ làm chứng cách vui mừng cho Đấng Christ trước đám đông, và họ cứ tiếp tục ca ngợi Đức Chúa Trời là Đấng đã tha thứ và sắp sửa tiếp nhận họ thì những loạt đạn nổ ra từ phía tiểu đội hành quyết đang kinh ngạc. Câu chuyện đó được lan ra trong vùng như một đám cháy. Bạn không thể nhận được điều gì tốt hơn về cái phẩm chất chịu đựng một cách mừng vui ấy. Nơi đâu nó được bày tỏ ra thì ở đó Hội Thánh phát triển. Huyết của người tuận đạo luôn luôn là hạt giống của Tin Lành.
Sự quan tâm của họ đến những người chưa tin Chúa
Những Cơ đốc nhân ban đầu nầy đã hết sức quan tâm đến những “kẻ hư mất” – những kẻ đã lạc lối và không được tiếp xúc với Đức Chúa Trời như Cơ đốc nhân đã nếm biết một cách cá nhân. Họ thực sự quan tâm đến những người ấy. Cường độ của sự quan tâm đó được bày tỏ ra trong các trang đầu của sách Công-vụ. Giới thẩm quyền Do- thái bảo các sứ đồ phải im lặng, nhưng họ nhã nhặn chối từ làm theo những điều như vậy. Họ bị bắt bỏ tù; nhưng khi được thả ra, sau khi quay lại cùng các bạn hữu, họ tham gia vào sự cầu nguyện sốt sắng, và rồi họ lại vào tù. Ngoài đường phố, trong sa mạc, trong các nhà, trước các vua và các quan quyền, thậm chí khi Phao-lô được đem ra trước mặt chính Hoàng đế Nero, thì cũng là câu chuyện ấy: họ không thể giữ im lặng. Họ tìm cách thuyết phục, cảnh cáo, dạy dỗ và mời mọc những người khác bước vào mối liên hệ với Đấng Christ phục sinh, Ngài đã trở thành động lực chính cho cuộc đời của họ. Bạn có thể thấy sự quan tâm ấy đã nung đốt trong linh hồn của Phao-lô như thế nào qua lời ông từ giã các trưởng lão ở thành Ê-phê-sô, như đã được ghi lại trong sách Công-vụ chương 20. Ông nói rằng “tôi tinh sạch về huyết anh em hết thảy, vì tôi không trễ nãi một chút nào để tỏ ra cho anh em biết hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” (câu 26-27). Ông đang nghĩ đến người canh của sách Ê-xê-chi- ên. Ê-xê-chi-ên đã xem chính mình như là người canh của Đức Chúa Trời ở trên các vách thành, người đã thấy được sự nguy hiểm đang gần kề. Nếu ông nói cho người ta và họ không chịu làm gì cả thì ông được tinh sạch về chính mình. Nhưng nếu ông không nói cho người ta, thì dân cư ở trong thành sẽ bị hư mất, nhưng huyết của họ sẽ bị đổ lại trên đầu ông. Phao-lô đã cảm thức về trách nhiệm un đốt như vậy. Huyết của người ta sẽ đổ lại trên đầu ông nếu ông không chịu rao báo cho họ tin tốt lành về Chúa Jesus.
Đây không phải là đặc điểm riêng của Phao-lô. Những người đã đem Tin Lành đến thành An- ti-ốt (Cong Cv 11:19 trở đi) đã phải bị ép buộc bởi cùng một sự quan tâm đối với kẻ khác như vậy. Cũng như Phao-lô, họ đã cảm thấy rằng “Nếu Tin Lành của chúng tôi còn che khuất, là chỉ che khuất cho những kẻ hư mất (IICo 2Cr 4:3). Vì vậy họ quả quyết rằng Tin Lành đó đã không bị che khuất, nhưng họ đã nói Tin Lành ấy ra không những chỉ cho người Do-thái nhưng “cho người Ngoại nữa, rao giảng về Chúa Jesus”. Làm thế nào bạn có thể làm khác đi được nếu như, cũng giống như Phi-e-rơ, bạn tin rằng “chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác, vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Cong Cv 4:12)?
Những việc ưu tiên của họ
Người ta không thể không nhận thấy những việc ưu tiên của các Cơ đốc nhân ban đầu ấy trong toàn cả vấn đề chia sẻ đức tin với người khác. Dầu Cong Cv 6:4 đề cập đến các sứ đồ chứ không đề cập đến sự hoạt động chung của các Cơ đốc nhân, nhưng khó có thể nghi ngờ rằng khi những người lãnh đạo biệt riêng chính mình để “chuyên lo về sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo”, thì các chức viên bên dưới và hàng giáo dân cũng làm như vậy. Ngược lại, sẽ rất khó để thấy được làm sao mà các Cơ đốc nhân không có học thức lại có thể dùng Kinh Thánh Cựu ước biện luận được rằng Đấng Mê-si là Chúa Jesus. Bạn có biết một Hội Thánh nào mà ở đó việc ưu tiên là cầu nguyện không? Cầu nguyện trong từng đời sống cá nhân, cầu nguyện trong từng tiểu tổ, cầu nguyện thâu đêm? Nếu bạn có biết thì tôi có thể nói với bạn một điều về Hội Thánh ấy. Đó sẽ là Hội Thánh truyền bá phúc âm. Bằng cách nầy hay cách khác, tin tức tốt lành về Chúa Jesus sẽ được đồn ra. Sự cầu nguyện là một việc ưu tiên trong công tác truyền bá Tin Lành. Không có nó thì đời sống sẽ không được thay đổi dù cho năng nổ hoạt động và dù cho sự rao giảng có nhiệt thành đến đâu chăng nữa. Đa số các Hội Thánh không nhìn thấy được sự tăng trưởng của Hội Thánh bởi vì họ không khao khát đủ để cầu nguyện cho sự tăng trưởng đó.
Trong chức vụ giảng Lời Đức Chúa Trời cũng vậy. Bạn có biết những Hội Thánh nào mà ở đó có một sự phô bày thành thực và tin tưởng đối với Lời Đức Chúa Trời không? Ở đó những người giảng đạo vật lộn với Kinh Thánh, ở đó từng cá nhân người tín đồ dùng Kinh Thánh để thử nghiệm những gì mình đã nghe, ở đó Hội chúng đọc Kinh Thánh một cách đều đặn và sốt sắng, và họ xem Kinh Thánh như là kim chỉ nam cho đời sống mình và như là khí cụ đầy sức mạnh để dùng nó mà cắt nghĩa về đức tin cho những người khác không? Tôi có thể nói với bạn một điều về một Hội Thánh như vậy. Họ là những người đang sốt sắng truyền bá Tin Lành. Vì “lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi” (HeDt 4:12). Lời đó sẽ thu hút người ta. Nó sẽ thách thức người ta. Nó sẽ gây dựng người ta trong đức tin. Nó sai phái người ta vào công tác truyền giáo. Sống như chúng ta đang sống trong một xã hội cuồng loạn, nơi mà sự ưu tiên được dành cho các cuộc họp hội đồng, các buổi hội thảo, cho sự tổ chức, cho các buổi họp giữa tuần dành cho các công dân lớn tuổi, cho các công việc từ thiện của nhà thờ, và những việc giống như vậy, thì công việc thực sự ở trên chúng ta vẫn phải là làm cho sự cầu nguyện và chức vụ giảng Lời Đức Chúa Trời trở thành những việc ưu tiên của chúng ta. Đó vẫn là cách thức để các Hội Thánh tăng trưởng. Tôi viết những lời nầy ở tại Vancouver. Tôi không còn ở đó đã năm năm rồi. Tôi thật ngạc nhiên về cách thức mà các Hội Thánh và các nhóm Cơ đốc đã dành quyền ưu tiên cho việc đọc Kinh Thánh và cầu nguyện, trong khoảng thời gian ấy và họ đã lớn mạnh cả về số lượng lẫn về ảnh hưởng. Những Hội Thánh mà sứ điệp của họ không vững chắc, những Hội Thánh mà ở đó sự cầu nguyện không phải là nét nổi bật thì đều sa sút. Đó là một sự tàn tạ và tương phản không thể tránh khỏi. Như Phao-lô đã đề ra, “những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn luỹ” (IICo 2Cr 10:4). Những đồn luỹ của sự vô tín và sự thờ ơ sẽ không sụp đổ đối với những vũ khí kém quyền năng hơn sự cầu nguyện và Lời của Đức Chúa Trời – và những con người làm đảo lộn thế giới nầy đã biết được điều đó.
Năng quyền của họ
Tôi kết thúc chương nầy với một trong số những đặc điểm đáng chú ý nhất: quyền năng vô song của những nhà truyền giáo ban đầu nầy. Chúa Jesus đã hứa với họ rằng họ sẽ nhận lãnh quyền năng khi Đức Thánh Linh giáng xuống trên họ và rồi họ sẽ làm chứng về Ngài ở tại Giu-đê, Sa-ma-ri và xa hơn nữa. Năng quyền nầy mọi người đều nhìn thấy. Nó là quyền năng biến đổi cuộc đời. Nó là quyền năng biến cải tâm tánh; thử tưởng tượng xem điều gì phải nằm ở phía sau lời phát biểu rõ ràng rằng nhiều người trong Hội chúng ở Cô-rinh-tô đã từng là những kẻ thờ hình tượng, dâm loạn, trộm cướp, say sưa và trộm cắp. “Trước kia anh em ít nữa cũng có một đôi người như thế, nhưng nhân danh Đức Chúa Jesus Christ và nhờ Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời chúng ta, thì anh em đã được rửa sạch, được nên thánh, được xưng công bình rồi” (ICo1Cr 6:11). Hãy nghĩ đến quyền năng biến cải đạo đức nằm ở đằng sau một sự hàm ý về sự vứt bỏ đi như vậy. Người ta có thể thấy năng quyền ở trong những Cơ đốc nhân nầy: quyền năng của sự khám phá mới, của nguồn đạo đức mới, của lòng nhiệt thành mới. Họ cũng có thể thấy quyền năng chữa bệnh và đuổi quỉ mà các Cơ đốc nhân ban đầu đã thực thi.
Ngày hôm nay cũng còn như vậy. Tôi có biết nhiều người đã đến với đức tin, một số người trong số ấy ở tại các nước theo Ấn-độ giáo, khi mà một người trong gia đình họ được chữa lành một cách thình lình qua sự đáp lời cầu nguyện, hoặc có một người bị quỉ ám và đã được đuổi ra khỏi đời sống họ. Quyền phép vô song của Đức Thánh Linh trong đời sống người Cơ đốc là một trong những nam châm có sức thu hút đã lôi kéo người ta đến với Đấng Christ. “Tin Lành chúng tôi đã rao truyền cho anh em, không những bằng lời nói thôi, lại cũng bằng quyền phép, Đức Thánh Linh và sức mạnh của sự tin quyết nữa”, Phao-lô đã tuyên bố như thế (ITe1Tx 1:5). Người ta không chỉ bị thu hút ở trong đợt rao giảng ba tuần lễ ngắn ngủi của ông ở tại Tê-sa-lô-ni-ca, nhưng họ còn được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dẫn vào sự xác tín và bởi Đức Thánh Linh đó họ đã được hoán cải. Từ ngữ Phao-lô dùng cho “sự tin quyết” là một từ ngữ rất hay, đó là plèrophoria. Nó gợi ý về một cái chén đầy cho tới miệng đến nỗi tràn ra. Nó gợi lên ý tưởng người Cơ đốc đầy dẫy Đức Thánh Linh đến nỗi khi họ được đụng vào thì họ tuôn tràn ra, không phải tuôn tràn phản ứng riêng của họ về sự thất vọng hay sự châm chọc, nhưng là tuôn tràn Thánh Linh ban sự sống khoan nhân của Đức Chúa Trời.
Cách truyền đạt siêu lời nói nầy rất là có sức mạnh. Chính quyền năng của Đức Thánh Linh được Chúa ban cho đã trang bị cho các tôi tớ Ngài để thực hiện sứ mạng của Ngài. Lẽ thật của vấn đề nầy đó là Đức Thánh Linh và người làm chứng cùng đồng công. Đó há không phải là ý nghĩa của khúc Kinh Thánh Mac Mc 13:10 trở đi hay sao? Tin Lành phải được rao giảng cho người ngoại, người tín đồ phải làm công việc đó, còn Đức Thánh Linh thì sẽ phán thông qua họ. Nhưng trước khi Ngài có thể làm điều đó, Ngài phải hạ chúng ta xuống. Ngài loại bỏ khỏi chúng ta sự kiêu ngạo và sự độc lập đã đến với chúng ta một cách tự nhiên. Ngài loại bỏ khỏi chúng ta sự không vâng lời và sự mê muội mà nó làm cho chúng ta im lặng trong ngày có Tin Lành. Đức Thánh Linh không luôn luôn là một ngọn gió hiu hiu dịu mềm, đôi khi Ngài như một đám lửa hừng thiêu đốt mọi rác rến của đời sống chúng ta, hoặc như một cơn bão quét những rác rến ấy đi. Khi Ngài được để cho cầm quyền trong một Hội Thánh, trong một đời sống cá nhân, thì khi ấy những khả năng cho sự truyền bá Tin Lành là vô bờ bến, nhưng chỉ khi ấy mà thôi.
Năm 1736, Giám mục Butler đã viết cuốn sách Analogy of Religion (Sự Tương Tự của Tôn Giáo của ông. Lúc ấy ông là triết gia lừng danh nhất ở Anh quốc, và ông đã hoài nghi không biết người nào sẽ kế nhiệm ông để làm giám mục, bởi vì đối với ông dường như không chắc rằng Cơ đốc giáo sẽ còn tồn tại trong suốt cả cuộc đời ông. Đó là một thời đại thật vô tín, không có tôn giáo, tự kỷ trung tâm, không phải là không giống như thời đại của chúng ta. Butler đã viết rằng “Nhiều người đã mặc nhiên công nhận rằng Cơ đốc giáo không phải là vấn đề đáng để tìm hiểu nhiều, giờ đây người ta khám phá ra nó chỉ là giả tưởng. Theo đó, họ xem như thể là trong thời đại hiện nay, Cơ đốc giáo là một điểm được đồng ý giữa vòng những người không biết phân biệt, và chẳng có gì còn lại nhưng chỉ dùng làm đề tài chính cho sự vui đùa và sự chế nhạo, như là cách trả thù cho việc nó đã làm gián đoạn niềm vui của nhân loại khá lâu”. Vào cuối cuộc đời của Butler, thay vì bị quét sạch, tin tức tốt lành về Chúa Jesus Christ đã được giảng ra bởi Wesley và Whitefield và đã làm biến đổi bộ mặt của Anh quốc. Điều nầy đã có thể diễn lại nữa.
Phẩm chất các sinh hoạt Hội Thánh của họ
Cho đến đây, chúng ta đã xem xét những phẩm chất của tâm tính mà các Cơ đốc nhân ban đầu đã biểu lộ. Giờ đây, chúng ta hãy xem xét đến phẩm chất của sinh hoạt trong Hội Thánh của họ. Đây là nơi mà những nan đề lớn nhất trong sự truyền bá phúc âm thường xảy ra. Hội Thánh tạo đá vấp chân cho rất nhiều người từ bên ngoài nhìn vào xem thử Cơ đốc giáo có gì để nói không. “Thưa vâng đối với Đức Chúa Trời và thưa không đối với giáo hội” là thái độ rất dễ hiểu của họ. Tôi nghĩ rằng bạn có thể thấy được điều nầy sẽ trải rộng như thế nào khi bạn bắt đầu hỏi những người không đi nhà thờ xem họ có cầu nguyện không. Tôi thật ngạc nhiên khi thấy rằng phần lớn họ đều có cầu nguyện. Nhưng họ không bao giờ chen chân vào cửa nhà thờ. Tóm lại, có điều gì xảy ra thế?
Dường như không ai có cái thái độ ấy trong những ngày đầu cả. Tác động của Hội Thánh như vậy là do từng ấn tượng của tác động từng cá nhân gây nên. Thực ra, phần lớn chính là do tác động hỗ tương lẫn nhau của họ đã bày tỏ tình yêu Cơ đốc bằng hành động, và không có điều gì gây chú ý nhiều hơn điều đó. Dường như không ai đã nghĩ rằng nhà thờ thì quá u ám, quá trang nghiêm, quá khiếm nhã – mà đó là những điều mà giờ đây người ta thường nghĩ đến. Và có thể họ đã có lý. Đó là lý do tại sao đáng để chúng ta xem xét một trong những Hội Thánh ở trong sách Công-vụ các sứ đồ, và tìm xem Hội Thánh đó có thể đem lại cho chúng ta những nhận định gì về một số những nan đề chúng ta hiện đang gặp ở trong Hội Thánh. Câu chuyện nầy có thể được thấy ở trong sách Công-vụ chương 11.
Thành An-ti-ốt trên lưu vực sông Orontes là thủ phủ của xứ Sy-ri giàu có hùng mạnh của đế quốc La-mã. Nó được xếp vào thành phố đứng hàng thứ ba trên thế giới sau La-mã và Alexandria. Thành phố ấy có nhiều sắc dân, theo chủ nghĩa quân phiệt, phóng túng, giàu có và dâm loạn. Ở đó có nhiều người Do-thái sinh sống, họ có những đặc quyền dân sự mà họ rất kiêu hãnh. Coi thường sự phồn vinh cực đại của cuộc sống, công dân thành An-ti-ốt dường như không hoàn toàn thoả lòng. Những bia kỷ niệm được dựng lên cho Thần May mắn, Thần Số mệnh, cho Thần Serapis, cho sự Bất tử v.v… Có nhiều người xem tử vi, và cũng có bằng chứng cho thấy họ ưa chuộng khoa chiêm tinh và sử dụng pháp thuật.
Chính trong thành phố khó khăn nhưng tân tiến một cách kỳ lạ nầy mà Cơ đốc giáo đã trở thành một đức tin của cả thế giới. Chính từ nơi đây mà đầu cầu bắt vào Âu Châu của Hội Truyền Giáo Cơ Đốc đã phát khởi. Phải chăng vì An-ti-ốt mà Cơ đốc giáo đã vẫn cứ là nền văn hoá phụ của Do-thái giáo? Thay vào đó, Cơ đốc giáo đã trở thành một nền văn hoá đối kháng và vẫn cứ tồn tại trước sự suy vong của Do-thái giáo lẫn sự sụp đổ của đế quốc La-mã.
Chúng ta sống trong một thời đại mà Cơ đốc giáo có khuynh hướng được xem không phải như là một nền văn hoá đối kháng bởi hầu hết các nước Phương Tây, cũng không phải là như muối ở giữa một xã hội suy đồi, nhưng như là một nền văn hoá phụ sùng kính dành cho những người sẽ hy sinh đầu óc của họ và đồng hoá hành vi của họ theo niềm hy vọng rằng họ có thể, sau khi cõi đời nầy qua đi, thành một vì sao ở trên bầu trời. Một sự thờ phượng riêng tư và tận tâm cho một sự thờ phượng vị kỷ. Có thể Hội Thánh Cơ đốc đã chìm vào sự thờ phượng mà có rất nhiều ở trong nền văn minh Tây Phương. Hội Thánh Cơ đốc không có ảnh hưởng có ý nghĩa nào ở trong chính trị, tư tưởng, luận bàn tương lai, thương mại, quan niệm học, giáo dục hay là luân lý. Hội Thánh Cơ đốc không có lối sống nào dễ dàng phân biệt biệt lập với thói quen kỳ lạ nhóm họp trong một khu nhà rộng lớn và lạnh lẽo một tuần một lần – hoặc một tháng một lần.
Ngược lại, tại An-ti-ốt, Hội Thánh được xem thấy là một sự thay đổi triệt để, một nền văn hoá đối kháng, một chủng loại thứ ba không phải là ngoại giáo cũng không phải là Do- thái giáo. Họ đã không tạo nên ấn tượng nầy vì cớ dựa vào tổ chức đã thành lập: chưa có một Hội Thánh nào được thành lập. Cũng không phải vì các giáo phẩm tài ba: họ thảy đều là giáo dân. Cũng chẳng phải vì họ đã xem xét những nan đề về sự tăng trưởng của Hội Thánh một cách kỹ lưỡng nhờ sự viếng thăm của một bậc cao kiến ở tại hội nghị. Họ thành công bởi vì họ thuộc vào nền văn hóa đối kháng của Đức Chúa Trời. hội hết mọi khía cạnh của sự thay đối triệt để nầy đối với những cách sống bình thường ở An-ti-ốt đều phải trả giá rất đắt. Tôi khó tin rằng, trong thời đại của chúng ta, chúng ta có thể có sự truyền bá Tin Lành hữu hiệu mà không cần phải có một cuộc cách mạng đắt giá ở trong sinh hoạt của Hội Thánh, trong những sự ưu tiên và trong thái độ của Hội Thánh. Chúng ta cũng chẳng kỳ vọng được điều đó.
Đây là một Hội Thánh mà mỗi tín hữu đều thi hành chức vụ
Điều đầu tiên chúng ta ta học biết về việc thành lập Hội Thánh đáng chú ý nầy sẽ chận chúng ta lại ở giữa đường. Không có ai nêu nó ra như là mục tiêu chính yếu cho việc tăng trưởng Hội Thánh cả. Chẳng ai sai phái giáo sĩ đến đó cả. Nó xảy ra hầu như là do lầm lỗi! Những người Cơ đốc, những con người rất tầm thường, thấy Giê-ru-sa-lem là quá nóng bỏng để cho họ ở lại đó sau cái chết của Ê-tiên, họ đã rời bỏ nhà cửa, lang thang từ thành nầy đến thành khác, lên tận vùng bờ biển xứ Phê-ni-xi, và cuối cùng họ đến An-ti-ốt. Đương nhiên họ thường xuyên đàm luận với tất cả những người mà họ gặp về sự việc mới mẻ kỳ diệu đã xảy ra: Đấng Mê-si của Đức Chúa Trời, mà người ta trông đợi từ lâu, đã thực sự đến, Ngài đã chịu chết, đã sống lại và người ta có thể đến để nhận biết Ngài. Họ giới hạn thông tin nầy vào dân của Đấng Mê-si, tức là dân Do-thái. Nhưng khi họ phản ánh về sự nhìn thấy của vị lãnh đạo Ê-tiên của họ, thì họ đã tự hỏi tại sao họ phải giới hạn chỉ vào dân Do-thái mà thôi, vì sự chết của Chúa Jesus có ý nghĩa phổ quát cho mọi người kia mà. Vậy họ bắt đầu thuật cho dân tộc khác, đó là người Hi-lạp (Cong Cv 11:20). Và họ thấy người ta nghênh tiếp sứ điệp của họ. Há không phải dân chúng thành An-ti-ốt đang tìm kiếm sự thoả đáp sao? Họ có thể tìm thấy sự thoả đáp đó bởi Tin Lành. Há chẳng phải họ đang tìm kiếm sự giải thoát khỏi sự thất vọng, khỏi xiềng xích của dục lạc, khỏi những mối quan hệ xấu, khỏi sự đòi hỏi cuồng điên về sự giàu có và khỏi sự kiềm toả của quyền lực quỉ ma đó sao? Những người dân quê lang bạt nầy nói cho họ rằng sự giải thoát có thể xảy ra cho họ thông qua Con độc sanh của Đức Chúa Trời là Chúa Jesus. Và trong một thành phố, nơi mà chúng ta biết họ đã thờ phượng nhiều “chủ” thì quyền chủ trị của Chúa Jesus là một phần quan trọng ở trong cái giá phải trả để làm môn đồ. Họ xuất hiện như vậy đó, dường như khá lâu trước đó, đã có một Hội Thánh, bao gồm cả người Do-thái lẫn các tín đồ người Ngoại bang. Một sự tiến bộ hoàn toàn mới trong sự làm chứng Cơ đốc đã được kết quả vì một nhóm người Cơ đốc đếm được trên bàn tay đã không thể giữ im lặng về Chúa trong ngày nghỉ.
Không phải cho tới khi các tín đồ trong Hội Thánh có lòng sốt sắng nói cho thân hữu họ và giới thiệu về Chúa Jesus mà người ta thực sự tin rằng chúng ta có tin tức tốt lành để mà nói. Những hàng rào về sự tôn kính, hàng rào về giáo phẩm phải bị hạ xuống nếu Hội Thánh muốn gây tín nhiệm trở lại. Điều đó có thể làm được. Tôi nghĩ đến một Hội Thánh mà tôi đã có lần truyền giáo ở đó. Đó là một Hội chúng Anh quốc giáo Công giáo khá truyền thống. Kết quả của sự truyền giáo đó là không những nhiều người ở đó đã vui mừng nhìn nhận quyền chủ trị của Chúa Jesus, nhưng chính họ cũng không thể giữ im lặng về Ngài. Nhiều người trong số những người đã được hoán cải trong tuần lễ đầu đã dẫn đưa người khác đến với Chúa vào tuần lễ thứ nhì, và công việc ấy cứ tiếp tục phát triển. Tôi nghĩ đến một người bạn ở Srilanka (Tích-lan), người nầy thường giảng dạy ngoài đường phố, và kết quả đã có một số đều đặn những người Phật giáo quay về với Chúa. Vào một buổi sáng trong Tháng Năm, ở tại Oxford, khi có khoảng 10.000 người ở ngoài đường vào lúc 6 giờ sáng để xem các cuộc rước lễ, bạn sẽ thấy một số người Cơ đốc chụp lấy cơ hội để nói cho khách qua đường về quyền chủ trị của Chúa Jesus. Cũng vậy, ở trong nhiều khu cư xá của sinh viên và các nhà trọ, Tin Lành được bàn đến qua các tách cà phê mãi cho đến tận khuya.
Nhưng đây là một ngoại lệ hơn là một qui luật. Nếu chúng ta thấy được sự bùng nổ rộng rãi của sự làm chứng của hàng tín hữu thì sẽ phải có sự cách mạng ở trong các Hội Thánh. Sự cách mạng ở trong thái độ của hàng giáo phẩm: họ phải thôi xem mình là những tác nhân duy nhất trong sự truyền giáo. Sự cách mạng ở trong sự hiểu biết của Hội chúng: họ phải thấy rằng việc làm chứng theo một hình thức nào đó là trách nhiệm của mọi Cơ đốc nhân. Sự cách mạng ở trong sinh hoạt của Hội Thánh, sẽ có những cuộc huấn luyện, người ta sẽ chấm dứt những sinh hoạt hướng nội tầm thường để mà trở thành “đoàn thể hoạt động vì ích lợi của những người chưa phải là tín đồ” mà Hội Thánh được chỉ định phải trở thành. Việc huấn luyện là quan trọng. Trong Hội Thánh của chúng tôi, chúng tôi có một khoá huấn luyện dài mười lăm tuần, được tiếp theo đó bằng một chuyến tham quan kéo dài ba tuần ở trong một giáo khu gần đó, bao gồm các buổi nhóm tư gia ở các đêm trong tuần và buổi giảng vào đêm Chúa Nhật, một trong số các buổi giảng nầy là buổi đặc biệt cho truyền giảng. Các học viên của khoá học dự các buổi nhóm tư gia, nói chuyện trong các buổi nhóm và giúp đỡ những người tìm hiểu đến với đức tin. Không cần phải nói, điều nầy làm tăng thêm sức mạnh rất nhiều cho quan niệm về chức vụ của mỗi tín đồ ở trong Hội Thánh. Các tín đồ thấy rằng họ có thể làm được việc đó, và họ thấy rằng không có niềm vui nào lớn hơn là giúp đỡ người khác đến với đức tin.
Sự khó khăn lớn nhất thường là phải làm cho một Hội Thánh nghĩ đến việc truyền bá Tin Lành và thực sự muốn tăng trưởng. Nhiều Hội Thánh muốn mọi việc cứ tiếp tục đều đều như xưa nay. Đó không phải là điều dành cho Hội Thánh! Tôi nghĩ đến một Hội Thánh mà tôi biết ở tại Singapore, Hội Thánh nầy có rất nhiều ý kiến về sinh hoạt Hội Thánh. Một cặp vợ chồng ở trong hội chúng được thúc giục để dự định mua hoặc thuê một căn hộ ở trong một khu cao ốc gần đó trong khi nó gần xây dựng xong. Họ đã làm việc đó và dọn đến ở cùng với những người cư ngụ đầu tiên. Họ đi quanh nơi đó và mời mọi người đến nhà thờ. Người ta hỏi: “Nhà thờ hả, ở đâu vậy?”. Câu trả lời là: “Ở trong căn hộ của chúng tôi, số nhà 126”. Tôi đã nhìn thấy một “nhà thờ” như vậy, nhà thờ ấy có sáu mươi người nhóm thờ phượng đều đặn ở đó vào các ngày Chúa Nhật, có một số tiểu tổ họp lại trong tuần để cầu nguyện, học Kinh Thánh và chia sẻ cho nhau. Đây là tinh thần mà những người truyền bá Tin Lành ở An-ti-ốt đã có. Chúng ta cần giống họ nhiều hơn nữa.
Đây là một Hội Thánh biết chăm sóc
Họ quan tâm đến tín đồ mới
Ba-na-ba, người khích lệ vĩ đại, được sai đến, ông đã làm việc nhiều để giữ vững các Cơ đốc nhân mới, ông khuyên bảo họ “phải cứ vững lòng theo Chúa” (Cong Cv 11:23). Phương diện chăm sóc của công tác truyền bá Tin Lành đã bị bỏ qua nhiều ở thời nay, đây là điều thật xấu hổ. Đức Chúa Trời không sinh ra những con trẻ để rồi bỏ mặc cho chúng lạnh cóng hay chết đói. Có lẽ lý do tại sao nhiều Hội Thánh thấy có quá ít người trở về tin Chúa là vì họ không được chuẩn bị để đặt mình vào công tác chăm sóc như vầy. Tuy nhiên, một số Hội Thánh đang phát triển một hệ thống những nhóm người chăm sóc, ở đó, các loạt tín đồ mới họp mặt hằng tuần trong vòng hai tháng để được học những điều cơ bản trong đời sống Cơ đốc. Một cặp “Ba-na-ba” được đặt trông coi nhóm ấy, không những họ chỉ dạy dỗ khích lệ; nhưng không bao lâu nhóm ấy, bằng nhiều cách, họ có mục sư riêng thông qua các buổi nhóm thân hữu, việc khích lệ và tìm hiểu chung, việc cầu nguyện và học Kinh Thánh chung với nhau. Mỗi đêm đều có đề tài riêng liên quan đến một trong các khía cạnh chính của niềm tin và cách xử sự của người Cơ đốc. Lãnh đạo của nhóm sẽ dạy dỗ, nêu ra câu hỏi và rồi khích lệ các nhóm viên nói lại những việc đã diễn tiến trong tuần qua như thế nào. Kế đó họ quay sang một khúc Kinh Thánh có liên hệ đến đề tài, họ bàn thảo khúc Kinh Thánh ấy và rút ra những ý tưởng từ nơi khúc Kinh Thánh; trước khi kết thúc, mỗi người cầu nguyện ngắn. Bằng cách nầy, các nhóm viên tăng trưởng nhanh và đáng tin cậy. Đó là một khía cạnh của việc chăm sóc mà các Cơ đốc nhân ở An-ti-ốt biết rất rành rẽ, nhưng hầu hết các Hội Thánh thời nay thì rất yếu kém về điều nầy. Các buổi nhóm từng lớp của Wesley đã thành ra lỗi thời bao lâu rồi?
Họ quan tâm đến người nghèo đói
Câu 28 cho thấy một con người đáng chú ý, có ơn nói tiên tri, đó là A-ga-bút, ông đã đến trong buổi nhóm và nói về một cơn đói kém sẽ ảnh hưởng đến các Cơ đốc nhân ở tại Giê-ru-sa-lem. Điều đó đã xảy ra đến nỗi chúng ta có được chứng cớ độc lập cho biến cố nầy, cơn đói kém đã xảy ra vào cuối thập niên 40 (của thế kỷ thứ nhất). Nhưng đối với tôi, phản ứng của Hội Thánh An-ti-ốt còn đáng chú ý hơn nan đề ở tại Giê-ru- sa-lem, mà sự khó khăn nầy có lẽ do một năm Sa-bát về mặt nông nghiệp (một trong bảy năm, để đất nghỉ theo luật pháp thời Cựu ước) bị trầm trọng bởi việc hùn hạp tư bản mà các Cơ đốc nhân ban đầu ở Giê-ru-sa-lem thường làm. Hội Thánh An-ti-ốt có thể nói: “Chúng ta không rành lắm về thần học và những điểm trọng yếu về Do-thái giáo của những Cơ đốc nhân nầy ở tại Giê-ru-sa-lem”. Họ cũng có thể nói: “Điều đó sẽ dạy cho họ học biết thêm về kinh tế: những người sinh sống bằng cách bỏ tiền ra để kiếm lợi luôn luôn là gặp rắc rối”. Họ chẳng nói điều gì như vậy cả, nhưng họ đã bày tỏ tình yêu thương và sự quan tâm của họ đối với anh em mình bằng cách quyên trợ và gửi đến cho những người đó trong lúc có cần.
Đó là một cách quan tâm thực tiễn mà nó tạo một sự chấn động đối với Tin Lành. Cho đến khá gần đây, tôi thâu thập được rằng đã có rất ít hoặc chẳng có sự đáp ứng nào cả đối với Tin Lành ở giữa vòng sắc tộc Masai, một bộ lạc hung dữ, ở Kenyan gồm những người lang bạt hiếu chiến. Nhưng giờ đây đã có một nhà thờ sống động tại đó. Phần lớn sự thành công ấy là do sự giúp đỡ ưu ái thực tiễn trong những lúc hạn hán và hiểm nghèo do kẻ thù truyền kiếp của họ, bộ tộc Kikuyu, giúp cho. Trừ phi có một sự quan tâm ưu ái, sâu sắc, thực tiễn đối với người nghèo khó trong tình cảnh khó khăn của họ được bày tỏ ra, bằng không thì sự rao giảng Tin Lành suôn sẻ thành vô dụng. Tôi đã gặp một mục sư Hoa Kỳ, ông đã trải qua nhiều năm công tác giữa hàng trăm gái mãi dâm tại Seoul trong những giai đoạn sau nầy của cuộc chiến Việt Nam. Hàng chục người trong số họ đã được dẫn về với Đấng Christ, nhưng điều đó đã không xảy ra trước khi ông thấy được những nhu cầu của họ để tìm công việc làm mới và trợ cấp cho những đứa con bất hợp pháp của họ, và những việc đại loại như vậy. Không thể có sự phân chia giữa một Tin Lành xã hội với một Tin Lành thuộc linh. Chúng thuộc về nhau, và nếu không có cả hai yếu tố thì Tin Lành về Chúa Jesus sẽ không vượt qua được.
Họ quan tâm đến những người chưa từng được nghe Tin Lành
Đây là một nét đáng chú ý của Hội Thánh An-ti-ốt. Họ không chỉ đã nói về Chúa Jesus cho người Hi-lạp, tức là những người Hi-lạp hư mất đáng thương chưa bao giờ được nghe nói về Ngài. Họ còn trông ra bên ngoài và quan tâm đến các vùng xa xôi, sẵn sàng để cho hai người lãnh đạo tài ba nhất của họ, là Phao-lô và Ba-na-ba, ra đi trong chuyến hành trình truyền giáo thứ nhất để đến với càng nhiều người trong các vùng ấy càng tốt. Bạn không chịu mất hai người trong số những người lãnh đạo đầy ơn nhất của bạn vì cớ những người mà bạn chưa từng thấy họ trừ khi bạn quan tâm nhiều đến những người đó. Chính ở nơi cả ba khía cạnh nầy của một Hội Thánh biết chăm sóc mà có những Hội Thánh đã chinh phục và giữ vững những người trở về với Chúa.
Đây là một Hội Thánh mà ở đó có sự thông công thực sự
Điểm nầy nổi bật thật rõ nét. Vì chính ở tại thành An-ti-ốt mà lần đầu tiên các tín đồ Do-thái và Ngoại bang ngồi ăn chung với nhau như là một vấn đề vừa thuộc về nguyên tắc vừa thuộc về thói quen. Thật khó để cho chúng ta cảm nhận được điều nầy có ý nghĩa như thế nào. Đủ để có thể nói rằng cả người Do-thái và người Hi-lạp đã xem nhau như là không đáng để cho họ khạc nhổ! Ngồi ăn chung với nhau thật là một sự cách mạng. Nó cho thấy phẩm chất của sự thông công mà họ đã không sẵn sàng đảo ngược sự thoả thuận nầy khi những vị quan trọng từ Giê-ru-sa-lem đến vào dựa vào họ. Sự thông công là quan trọng hơn cả sự cấm cản
Một khía cạnh khác về phẩm chất của sự thông công ở trong Hội Thánh nầy được cung cấp bởi những tên tuổi trong ban lãnh đạo ở tại An-ti-ốt (Cong Cv 13:1). Họ có Ba-na-ba, một điền chủ quê ở Chíp-rơ thuộc về họ Lê-vi; Si-mê-ôn biệt danh là “da sậm” (ni-giê), rõ ràng là người da đen; Lu-si-út người Sy-ren ở tại Bắc Phi, người nầy có lẽ cũng là da đen; Ma-na-hem là một trong số những người thân thiết với gia đình Hê-rốt, và do đó ông là một nhà quí tộc; và một người học thức uyên bác đến từ Tạt-sơ tên gọi là Sau-lơ. Tôi không hình dung được thật dễ dàng để cho nhóm người nầy sống chung hoà bình. Nhưng họ đã phải hoàn thành được điều đó, bằng không thì sự hiệp tác lãnh đạo của họ đã không thể có được. Rõ ràng rằng sự thông công là một thực tại sâu nhiệm ở tại An-ti-ốt. Nó vượt trên những hàng rào chủng tộc, màu da, bối cảnh xã hội và học vấn. Nó nói lên được rất nhiều điều.
Giờ đây, phẩm chất của sự thông công nầy phải được nhìn thấy ở giữa vòng chúng ta nếu như người ta sẽ tin lời chúng ta nói về sự giải hoà. Đức Chúa Trời sẽ không dùng các nhà thờ của chúng ta trong sự truyền bá Tin Lành nếu chúng chất chứa sự chia rẽ, sự nói hành, sự bực tức và sự quan hệ lạnh nhạt giữa các tín đồ của Hội Thánh. Sự thông công của Hội Thánh mà nó truyền bá Tin Lành phải được nóng ấm hơn bất kỳ nơi nào khác ở trong thành phố. Há không phải Chúa Jesus đã ban cho chúng ta một điều răn mới rằng chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta hay sao? Ngài đã yêu thương chúng ta như thế nào? Một cách hy sinh và hoàn toàn. Đó là phẩm chất của tình yêu thương mà Ngài mong đợi nhìn thấy ở trong các Hội Thánh giữa vòng các tín hữu. Ngài truyền bảo cho chúng ta loại tình yêu thương nầy. Ngài đã cầu thay cho nó ở trong bài cầu nguyện như thầy tế lễ cả của Ngài. Ngài đã chết để làm cho nó có thể hiện thực bằng việc phá bỏ bức tường ngăn cách ở giữa dân Do-thái và dân ngoại bang. Ngài đã ban Đức Thánh Linh Ngài đến để làm nẩy nở ở trong đời sống không có tình yêu thương của chúng ta bông trái đẹp đẽ của tình yêu.
Gần đây, Hội Thánh của chúng tôi đón tiếp một nhóm người được mệnh danh là Sacred Dance Group (Nhóm khiêu vũ thánh). Họ thường dùng sự nhảy múa làm phương tiện để thờ phượng, và điều nầy rất là gây ấn tượng. Nhưng điều gây ấn tượng hơn nữa là tình yêu thương rất rõ ràng họ đã dành cho nhau. Điều nầy đụng chạm và thách thức nhiều người một cách sâu xa.
Tôi nghĩ đến một buổi hội thảo ở Tân Tây Lan, nơi một người bạn của tôi đã mời một người Mác-xít đến, người mà bạn tôi biết rất rõ. Đó là một buổi hội thảo truyền giáo, nó thật sự sống động trong sự thờ phượng và ở trong cảm xúc yêu thương của sự liên lạc của những người thuộc về Chúa. Người nầy đã phải kinh ngạc. Vì trong tất cả kinh nghiệm của anh về các tiểu tổ của người Cộng sản, anh đã thú nhận rằng anh chưa bao giờ từng trải một sự thông công nào như vậy trước đây. Đó là điều phải xảy ra khi những Cơ đốc nhân hiệp lại cùng nhau, nhưng thường thường điều đó đã không xảy ra.
Tôi nhớ lại một giám mục người Úc đã kể cho tôi về các cuộc viếng thăm của ông đến một bộ lạc thời đại đồ đá ở Indonesia (Nam Dương). Ông đã thấy họ đem mười hai con heo lên một ngọn đồi. Ông hỏi cho biết lý do, và đây là điều đã nổi lên. Đã từng có hai bộ lạc ở trong vùng thù địch nhau. Một thanh niên ở trong bộ lạc nầy đã ngủ với một thiếu nữ ở trong bộ lạc kia. Vị tù trưởng bộ lạc của cô gái giận dữ và tuyên án tử hình cô. Người thanh niên là một người Cơ đốc. Anh đã phạm tội một cách đáng buồn. Nhưng các anh em ở trong bộ lạc đó đem anh trở lại ngọn đồi. Họ trình cho vị tù trưởng thù địch thấy anh đã tỏ lòng ăn năn như thế nào và họ nài xin ông tha mạng sống cho anh. Cuối cùng vị tù trưởng đồng ý và chấp nhận mười hai con heo thay thế. Nhóm người Cơ đốc ở đó không có mười hai con heo; chúng rất có giá trị và không dễ dàng để mà kiếm được. Nhưng họ đã xoay xở và cùng trả giá, từ bỏ mình cho đến khi họ có được cách để nhận được mười hai con heo, và họ đã mang chúng lên ngọn đồi ấy cho bộ lạc kia vừa khi vị giám mục đến. Họ đã yêu thương một thành viên có sai lầm ở trong nhóm thông công của họ đủ để có thể làm được điều ấy! Không có gì đáng ngạc nhiên Tin Lành đã lan ra như một đám cháy ở trong bộ lạc ấy.
Đây là một Hội Thánh mà ở đó sự lãnh đạo được san sẻ
Sự lãnh đạo được san sẻ
Trong một Hội Thánh như An-ti-ốt, bạn có thể hi vọng tìm được một giám mục, chắc chắn bạn sẽ hi vọng tìm được một mục sư năng động và một hay hai người phụ tá. Nhưng bạn không thấy được điều gì như thế. Thay vào đó, có năm người gồm các chủng tộc, màu da và học vấn khác nhau, họ đã lập thành một ban lãnh đạo. Thậm chí chúng ta không biết người nào trong số họ đã chủ toạ các buổi nhóm. Sự lãnh đạo của họ là một sự lãnh đạo hiệp tác. Dĩ nhiên, điều hành một mẫu lãnh đạo dạng kim tự tháp thì dễ dàng hơn nhiều, như hầu hết các Hội Thánh đều có. Nhưng một sự lãnh đạo cùng chia sẻ thì hiệu quả hơn nhiều. Nó giữ gìn Hội chúng khỏi những tính đặc thù của một con người. Nó động viên được nhiều tài năng và ân tứ. Nó cung cấp một hội trường để thảo luận một cách sống động và cầu nguyện sốt sắng. Những người ở tại An-ti-ốt tin nơi sự lãnh đạo đó. Tôi nghĩ rằng chúng ta cũng sẽ lắng nghe họ.
Vài năm trước, tôi được bổ nhiệm làm hiệu trưởng của một trường thần đạo, và được thừa kế một cơ cấu lãnh đạo kim tự tháp, với hiệu trưởng là người đứng đầu một cách không thể tránh khỏi. Khi tôi rời khỏi chức vụ sáu năm sau đó, chúng tôi đã hoạt động theo cách của chúng tôi qua một sự lãnh đạo theo nhóm. Tất cả mọi vấn đề về đường lối đều được mổ xẻ giữa vòng chúng tôi trong sự bàn bạc đầy sự cầu nguyện. Chúng tôi không nhổ bỏ những người cản trở nhưng yêu thương nhau ngay cả khi chúng tôi nghĩ rằng một số người trong chúng tôi đang nói chuyện tầm phào! Khi chúng tôi không thể đồng ý con đường trước mắt, chúng tôi đã không đầu phiếu nhưng hoãn vấn đề lại cho đến khi chúng tôi đi đếm một ý kiến chung. Sự lãnh đạo được san sẻ và nó kết quả nhiều. Dĩ nhiên, phải trả giá nhiều – phải hạ mình lắng nghe lẫn nhau và học hỏi ở nơi nhau, phải phó thác và trung thành đối với nhau, phải sẵn sàng cầu nguyện khi giải pháp chưa được sự chấp nhận chung. Nhưng sự lãnh đạo như vậy thật đáng giá.
Tôi thấy rằng nguyên tắc nầy hoàn toàn có thể vận hành ở trong một giáo khu. Thực ra, chúng tôi đã thực hiện nó ở trong giáo khu của chúng tôi. Mọi vấn đề về đường lối sẽ xảy đến trước cuộc họp ban cán sự hay ban trị sự, và chúng tôi thảo luận, làm việc và cầu nguyện cho tới khi chúng tôi có đồng một ý. Sự can dự đến một đội ngũ nầy trong sự quyết định làm cho chúng tôi tránh được những ý kiến riêng, tránh khỏi những sai lầm mà một người không nhìn thấy trước và khỏi sự mất quân bình. Nó có thể tạo nhiều điều khác nhau trong sự gây dựng và đi ra chứng đạo của nhiều Hội Thánh địa phương. Chính cách thức mà trong đó ban lãnh đạo yêu mến và tin cậy lẫn nhau sẽ là một minh chứng hùng hồn cho Tin Lành được rao giảng tại toà giảng. Tại sao có quá nhiều Hội Thánh vẫn cứ hoạt động theo những nhóm-một-người? Phải chăng mục sư sợ có những người đồng công? Phải chăng hội chúng sợ có liên can đến? Đây không thể là điều được nói đến về Hội Thánh ở An-ti-ốt.
Kiểu mẫu lãnh đạo được chia sẻ
Nhưng hãy chú ý đến một điều khác. Họ không chỉ có sự lãnh đạo được san sẻ ở tại An-ti-ốt, điều đáng chú ý đó là họ có một kiểu mẫu chức vụ được san sẻ. Chúng ta đọc thấy rằng ban lãnh đạo gồm các tiên tri và các giáo sư. Giờ đây khó có thể tìm được những con người đồng sàng bất tiện hơn ban lãnh đạo đó. Các tiên tri thì luôn luôn có khuynh hướng cảm động theo bản năng, bạn không bao giờ biết được con người ấy sẽ làm điều gì kế tiếp. Còn giáo sư thì có thể tiên đoán được. Sử dụng ngôn ngữ thời nay thì tiên tri là “có ân tứ” còn giáo sư thì không có. Đây là một trong những vấn đề phát sinh nóng bỏng nhất ở trong các Hội Thánh của tất cả các hệ phái trên khắp thế giới vào lúc này. Hội Thánh An-ti-ốt đã giải quyết điều đó bằng cách có cả hai loại đại biểu ở trong ban lãnh đạo. Họ thật khôn ngoan biết bao! Điều nầy có nghĩa là sự thờ phượng được kết hợp bởi sự thuộc linh ấm áp của các người có ân tứ và chức vụ dạy dỗ tạo quân bình của các giáo sư.
Sự quân bình ấy thật hiếm có biết bao ở trong một Hội Thánh thời nay, nhưng thật là quyền năng biết bao khi sự kết hợp ấy được thực hiện. Đối với tôi thật là bi thảm khi mà các Cơ đốc nhân “có ân tứ” loại bỏ những người không hiểu biết sâu nhiệm về đức tin như là những Cơ đốc nhân hạng nhì; và khi mà những người “không có ân tứ” sợ những điều mà những người “có ân tứ” mang lại – chính những yếu tố của sự sống, sự kỳ vọng và sự cảm nhận rung động về thực tại về Đức Chúa Trời mà hầu hết các Hội Thánh có thể đã thực hiện. Không có sự chia rẽ nào như vậy ở tại An-ti-ốt. Cũng không cần phải có như vậy ở trong thời đại của chúng ta. Tôi đã hai lần công tác trong những đội ngũ mà ở đó cả hai phía trọng yếu đều có đại diện, và không những chỉ có thể nhưng còn có lợi rất nhiều để giữ cho cả hai phía làm việc khẩn trương. Đó là một sự khẩn trương cấu tạo được và tôi không bao giờ muốn chọn lựa rút lui khỏi nó để trở về một kiểu mẫu đơn sắc. Tôi hoàn toàn chắc chắn rằng sự kết hợp là một sự thu hút mạnh mẽ trong việc rao giảng và minh chứng cho tin tức tốt lành.
Đây là một Hội Thánh mà ở đó sự thờ phượng thật sinh động
Thử tưởng tượng xem các Cơ đốc nhân ở tại An-ti-ốt thờ phượng như thế nào (Cong Cv 13:2). Họ đang tập trung vào Chúa, tôn thờ Ngài. Tiếng Hi-lạp cho thấy họ đang “hành giáo nghi” đối với Chúa. Họ rất coi trọng sự thờ phượng, coi trọng đến nỗi kiêng ăn. Thình lình, Đức Thánh Linh hướng dẫn một người trong Hội chúng đứng lên giữa vòng họ và phân phát một lời tiên tri – một lời trực tiếp đến từ Đức Chúa Trời cho hoàn cảnh của họ. Đó là một sứ điệp đáng chú ý: “Hãy để riêng Ba-na-ba và Sau-lơ đặng làm công việc ta gọi làm”. Điều đáng chú ý hơn hết đó là họ hành động theo sự mặc khải ấy. Họ lại kiêng ăn, cầu nguyện và sai phái hai người ra đi trong cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất lập nên thời kỳ mới, như chúng ta đã gọi nó.
Sự hiệp nhất và sự đa dạng
Một số điều rất đáng chú ý trong sự nổi bật đơn sơ đó. Họ hiệp một trong sự thờ phượng: đó là điều đầu tiên. Sức thu hút của một Hội chúng lúc thờ phượng là khó mà thêu dệt. Sự hiệp nhất, cường độ, sự đa dạng của sự thờ phượng tạo ra những thắc mắc ở trong tâm trí của người ngoài mà nhiệm vụ của sự giảng giải là phải giải thích. Tôi đã từng thờ phượng ở trong một Hội Thánh mà ở đó các yếu tố sau đây được nhìn thấy: hết lòng ca ngợi Chúa, bắt đầu dẫn vào việc hát xướng bằng tiếng lạ; sử dụng một ban hát, một ban nhạc nhỏ, một nhóm người nhảy múa và hai người diễn một vở bi kịch về một cuộc hôn nhân bị đổ vỡ, với một người thợ gốm tài giỏi đang giải thích về sự tái uốn nắn cuộc đời của họ trong lúc ông đặt hai bình đất lên bánh xe quay để minh hoạ cho đề tài đang được trình bày. Đó là một cách thờ phượng đa dạng kỳ lạ và nó là một sự chuẩn bị cho việc giảng dạy. Cả buổi nhóm kéo dài ba tiếng rưỡi giờ đồng hồ. Dường như không ai phiền hà về điều đó. Họ đang thờ phượng Chúa và hoàn toàn bị cuốn hút ở trong đó. Thật là tương phản với nhiều buổi thờ phượng của các Hội Thánh buồn tẻ, cứ lập đi lập lại, không giàu tưởng tượng gì cả!
Kiêng ăn và cầu nguyện
Có những nét đáng chú ý khác ở trong sự mô tả nầy về sự thờ phượng ở tại An-ti-ốt. Họ đã kiêng ăn. Đây là việc ít hợp thời nhất ở thời nay. Tôi thường nghe người ta bảo rằng người Công giáo Anh quốc thì uống, còn người Tin Lành thì ăn – còn sự kiêng ăn dường như không còn nữa đối với cả hai phái nầy. Kiêng ăn có nghĩa là chúng ta thưa với Chúa rằng: “Xin Chúa hãy nhìn xem! Con muốn sẵn sàng làm việc mà không ngủ nghỉ, ăn uống, không ham dục lạc và những điều chi khác mà con cho là quan trọng bởi vì con muốn dành cho Chúa 100% vào lúc này”. Đó là một dấu của việc chúng ta coi trọng Đức Chúa Trời.
Đi kèm với sự kiêng ăn là sự nhấn mạnh về sự cầu nguyện. Chắc chắn bạn có thể mong đợi họ làm điều đó ở trong một buổi nhóm thờ phượng! Nhưng đây không phải chỉ là sự kể lể lặp đi lặp lại. Cả Hội chúng đều chờ đợi Chúa trong một sự yên lặng mà người ta có thể cảm nhận được. Chính khi bước vào hoàn cảnh nầy mà Đức Thánh Linh có thể phán bảo. Chính ở trong sự cầu nguyện mà chúng ta được uốn nắn, được tái dựng, và chính thông qua sự cầu nguyện mà Đức Chúa Trời tự do đến với chúng ta và sử dụng chúng ta. Nếu chúng ta làm công việc cho Đức Chúa Trời mà không cầu nguyện thì Ngài không thể tạo sự dấn thân để chúng ta tiến bước thành công. Vì chúng ta sẽ trở nên kiêu ngạo, sẽ cứng lòng trong sự xác tín của chúng ta rằng chủ nghĩa hoạt động, chớ không phải sự tuỳ thuộc vào Đức Chúa Trời, là cách thức để cho Cơ đốc nhân hầu việc Chúa. Tôi tin rằng không có bài học đơn giản nào mà chúng ta cần phải học một cách sốt sắng ở trong toàn bộ công tác truyền bá Tin Lành hơn là sự cầu nguyện. Nếu chúng ta xin Đức Chúa Trời sai các con gặt vào mùa của Ngài, nếu chúng ta đã cầu nguyện rằng xin Ngài bày tỏ cho chúng ta biết điều chi Ngài muốn Hội Thánh của chúng ta phải làm, nếu chúng ta đã cầu nguyện trong sự ủng hộ sự truyền bá Tin Lành và công tác truyền giáo thay vì chỉ dành sự phục vụ bằng môi miếng cho nó – thì chúng ta sẽ thấy được sự tiến triển lớn lao. Nói chung, chúng ta chính là những Cơ đốc nhân không cầu nguyện. Đó là lý do tại sao chúng ta hoạt động không có kết quả. Tôi sẽ không bao giờ quên học bài học nầy một cách tươi mới. Cơ hội đó là khi tôi hướng dẫn một đợt truyền giảng ở Đại học đường Cambridge. Đông đảo người tụ họp trong phòng tiếp tân mỗi đêm, nhưng có rất ít người tuyên xưng đức tin trở lại với Chúa. Nhiều Cơ đốc nhân ở trường Cambridge được nhắc nhở rằng họ đã thấy rất khó cầu nguyện. Tôi cũng vậy. Vào cái đêm kế chót của đợt truyền giảng tôi đã không ngủ được ngon giấc, tôi nghĩ rằng đó là điều khá phổ thông ở giữa vòng cộng đồng Cơ đốc. Cuối cùng tôi đã bắt đầu dành chỗ cho sự cầu nguyện. Trở lại Nottingham ở tại nhà thờ St. John, nơi mà tôi đang họp ban cán sự, một số người đã có khải tượng vào đêm ấy. Đó là thứi tượng về tôi đang đứng giữa các chiến hào ở trong Vùng Đất Không Người trong kỳ thế chiến thứ nhất. Có những chiến sĩ ở trong các chiến hào đáng lẽ phải đang cung cấp hoả lực. Thay vào đó, họ đang đánh bài. Cái khải tượng ấy thúc đẩy những người ở nhà thờ St. John phải cầu nguyện, một buổi cầu nguyện liên tục được tổ chức trong một căn phòng riêng ngày hôm ấy. Vào buổi chiều, ở tại Cambridge, khoảng 800 sinh viên đã ở lại để giải thích về con đường dẫn đến Đấng Christ sau buổi nói chuyện cuối cùng, và có hàng chục người trong số họ đã phó thác mình cho Chúa. Điều đó chắc chắn đã dạy tôi một bài học về sự liên kết giữa sự cầu nguyện và sự truyền bá Tin Lành.
Sự trật tự, sự tự phát biểu và sự im lặng
Một nét khác của sự thờ phượng mà nó thu hút tôi ở tại An-ti-ốt đó là sự hỗ tương tác dụng giữa sự trật tự, sự im lặng và sự tự phát biểu mà rất khó để khám phá ra. Một mặt họ điều hành giáo nghi đối với Chúa, mặt khác, họ cởi mở đủ để cho Đức Thánh Linh hành động và một trong số các thành viên của họ có thể nhận được lời tiên tri và nói ra một cách hoàn toàn tự nhiên. Ít ra, đó là điều tại sao tôi cho rằng họ trở nên bén nhạy với sự kêu gọi của Đức Thánh Linh cho Ba-na-ba và Sau-lơ. Nếu không, thì càng đáng ngạc nhiên hơn khi họ đều đi đến cùng một kết luận một cách thầm lặng về kết luận riêng của mỗi người trong khi họ cầu nguyện. Chắc chắn tác dụng hỗ tương nầy trong sự cầu nguyện, sự im lặng và sự chờ đợi rằng Đức Chúa Trời có thể thực thi theo một cách không mong đợi nào đó đã đánh dấu cho một Hội chúng sống động phải không? Nhưng Đức Thánh Linh có một công việc đáng sợ áp đặt đường lối của Ngài vào trong các buổi nhóm của hầu hết các Hội Thánh! Người ta có thể tiên đoán trước và mọi sự có thể được tổ chức trước. Tôi không biện hộ cho sự thiếu chuẩn bị. Tôi nài xin một sự nhạy cảm như vậy đối với Đức Chúa Trời ở giữa vòng những người hướng dẫn sự thờ phượng để cho Thánh Linh của Đức Chúa Trời có thể nhận được một điều gì đó trên dân sự mà Ngài mong muốn. Trong Hội chúng của chúng tôi, chúng tôi cảm thấy đường lối của chúng tôi hướng về điều nầy mỗi tháng một lần, với một buổi nhóm ban chiều không theo khuôn khổ, ở đó một cấu trúc đại cương được đưa ra, nhưng thì giờ thì được dùng cho sự yên lặng chờ đợi Đức Chúa Trời và các tín đồ trong Hội chúng được mời để góp phần vào việc hướng dẫn, hát ngợi khen, đọc Kinh Thánh, nêu ra những nhu cầu cần cầu nguyện và có ít lời từ nơi Đức Chúa Trời cho dân sự. Những buổi nhóm nầy được tổ chức một cách không thay đổi; và sự thờ phượng, sự thông công, sự mong chờ đều rất cao độ. Chúng tôi dần dần học biết cách kết hợp giữa cơ cấu với sự linh động dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh – nhưng chúng tôi đã trải một chặng đường dài trước khi chúng tôi đạt đến được sự nhạy cảm của Hội Thánh An-ti-ốt.
Sự vâng lời
Có một nét cuối cùng về sự thờ phượng của họ mà chúng tôi đã học được một vài điều. Họ đã vâng lời. Một khi tin quyết rằng Đức Chúa Trời muốn Sau-lơ và Ba-na-ba đi ra hải ngoại, họ đã chuẩn bị để dự phần với những người lãnh đạo được tín nhiệm nầy. Sự vâng lời là một phần của sự thờ phượng và là phần bị bỏ qua nhiều nhất. Tại Argentina (Á căn đình) có một vị mục sư vui vẻ và đầy ân tứ, mục sư Juan Carlos Ortiz, ông có khuynh hướng giảng cùng một đề tài trải một thời gian. Một người trong Hội chúng của ông hỏi ông rằng: “Tại sao mục sư giảng cho chúng tôi cùng một sứ điệp từ Chủ nhật nầy sang Chủ nhật khác vậy?”. Câu trả lời là không thể biện bác được. “Bởi vị quí vị không vâng lời Đức Chúa Trời về vấn đề nầy. Khi nào Hội chúng bắt đầu vâng lời thì tôi sẽ giảng về một đề tài khác!”. Có quá nhiều bầu không khí của câu lạc bộ ở trong nhiều sự thờ phượng ngày Chủ nhật. Khi chúng ta bắt đầu chờ đợi Đức Chúa Trời một cách hiệp một, mong đợi Ngài bày tỏ ý muốn Ngài ra cho chúng ta và nhất định để cho thì giờ thờ phượng tác động đến đời sống của chúng ta trong sự vâng lời suốt cả tuần lễ sau đó, thì khi ấy chúng ta có thể kỳ vọng thấy được người ta quay trở về với Chúa chỉ bằng sức mạnh của sự thờ phượng mà thôi. Người ta sẽ thấy Đức Chúa Trời ở giữa chúng ta, và họ cũng muốn tìm kiếm Ngài nữa. Về phần tôi, đây không phải là sự lạc quan của sự nhìn ngắm các vì sao. Tôi đã chứng kiến nó xảy ra ở tại Hội chúng của chúng tôi khi mà người ta đã được hoán cải nhờ sự cảm biết rõ ràng về Đức Chúa Trời ở trong nơi mà không có sự rao giảng Tin Lành gì cả. Tiếc thay, nó đã không xảy ra một cách thường xuyên…
Đây là một Hội Thánh biết nhìn xa
Chính Hội Thánh An-ti-ốt là một trụ sở truyền giáo. Họ là một Hội Thánh son trẻ được sáng lập bởi các nhà truyền giáo không chính thức. Họ có thể biện luận rằng họ đã có quá nhiều việc phải làm ở tại An-ti-ốt, không việc gì phải bận tâm đến những vùng xa xăm. Nhưng đó không phải là cách một Hội Thánh cư xử khi việc chia sẻ Tin Lành là một con đường sự sống. Như chúng ta đã thấy, họ sốt sắng dâng mình cho chức vụ của mỗi tín đồ ở giữa vòng họ. Họ mong đợi mỗi tín hữu phải khởi xướng một cách chủ động nào đó cho Chúa Jesus. Do đó, dường như chỉ là điều tự nhiên khi thấy họ quan tâm rộng rãi hơn. Do vậy, họ hỗ trợ các Cơ đốc nhân ở Giê-ru-sa-lem khi cơn đói kém xảy ra. Do vậy họ sẵn sàng sai phái Phao-lô và Ba-na-ba vào cuộc hành trình truyền giáo đến đảo Chíp-rơ và vùng Nam Tiểu Á.
Sự ra đi có khải tượng của họ thật sự đáng chú ý. Tôi không chắc họ sẽ lắng nghe Đức Thánh Linh về sự kêu gọi truyền giáo hay không, nếu như họ đã không nghĩ đến người đồng loại là những người cần được nghe Tin Lành, không những chỉ ở tại An-ti-ốt nhưng còn ở các nơi xa xăm hơn. Nhưng họ đã có sự quan tâm, và khi sự kêu gọi xảy đến thì họ liền đi theo. Hãy thử tưởng tượng xem sự hi sinh có liên can đến trong việc để cho hai người trong số các giáo sư và các người lãnh đạo có tài năng nhất của họ ra đi trong một cuộc phiêu du điên cuồng nào đó, không biết họ sẽ đi đâu, cũng không biết có còn gặp lại họ nữa không. Một tín đồ ở An-ti-ốt có thể nói: “Thật là phí phạm khi để cho họ ra đi vào những nơi hoang dã; dân ngoại giáo cũng hoàn toàn được hạnh phúc rồi”. Một tín đồ khác cũng có thể nói thêm vào: “Dù sao chúng ta cũng cần các vị ấy ở đây. Chẳng lẽ An-ti-ốt không cần có người trở lại với Chúa sao?”. Chúng ta không biết họ có những thái độ của thời nay như vậy hay không. Nếu có, thì họ cũng đã loại bỏ chúng đi. Vì phần lớn Hội chúng và nói riêng là Phao-lô và Ba-na-ba đều vui mừng làm theo điều mà họ tin chắc là một sự kêu gọi đến từ Chúa, mà sự kêu gọi đó không thể bị cãi lại hay bị bỏ qua được.
Không có một bài học quan trọng nào ở đây sao? Chúng ta sẽ nóng nảy truyền bá Tin Lành ở trong địa phương của chúng ta tỉ lệ với việc chúng ta sẵn sàng bỏ qua mọi nhu cầu riêng của mình và nhìn đến những nơi có cần hơn ở hải ngoại mà chúng ta có thể yểm trợ. Chính Hội Thánh nào biết tưới gội cho các Hội Thánh khác là Hội Thánh tưới gội cho chính mình. Nhưng dường như thật rất ít Hội Thánh tin điều nầy. Không có sự quan tâm thực thụ đến việc truyền giáo. Bao nhiêu năm qua, không có ai từ Hội Thánh đó ra đi cho địa hạt hải ngoại cả. Không có sự hi vọng nào rằng có ai đó sẽ ra đi. Không có cảm xúc nào về việc ấy – trong khi mà từ khắp nơi trên thế giới tiếng nài xin vẫn vang vọng đến, những tiếng kêu xé lòng, xin cho có người yểm trợ và phục vụ như là những bạn đồng công với Hội Thánh quê nhà. Nếu tiếng kêu xin được nghe thấy, thì người ta có khuynh hướng nói rằng: “Ồ, chúng tôi đã dâng tiền cho hội truyền giáo. Như vậy không đủ hay sao? hay là “Chúng tôi không thể sai phái ông Bill được – ông ấy đang cần cho ở đây”, hoặc là “Những quốc gia đó họ có tôn giáo riêng của họ kia mà, chúng ta có quyền gì mà can thiệp vào?”. Nếu Hội Thánh An-ti-ốt đã theo đuổi những đường lối như vậy, thì chúng ta là những người ở Tây Âu đã vẫn cứ là những người xa lạ với Tin Lành của Chúa Jesus Christ.
Kinh nghiệm nhỏ bé của tôi cho thấy rằng một khi có một Hội Thánh bắt đầu quan tâm đến việc truyền giáo ở hải ngoại và bắt đầu cầu xin cho có những con gặt được sai vào mùa gặt, khá lâu trước khi có ai đó được sai đi, rồi thì lần lượt sẽ có những Hội Thánh khác làm theo. Và những người ra đi thấy được sự thành nghiệm mà ít khi họ thấy được ở đất nước quê nhà. Còn những người đã thực sự cầu nguyện và quan tâm đến những người ra đi – Há không phải họ đã ra đi từ Hội Thánh của mình sao? Tôi thấy rằng hội chúng sẽ dâng hiến một cách rộng rãi để yểm trợ cho một người đã ra đi giữa vòng họ, đó là phương cách tốt hơn nhiều so với việc dâng hiến một cách mơ hồ cho ngân quỹ chung của một hội truyền giáo. Tôi thấy rằng các tín hữu của Hội Thánh ấy viết thư thăm họ và gởi cho họ những món quà. Tôi thấy những phim rọi, những tin tức được gởi trở về; được trình bày vào những giờ cầu nguyện và ở trong những nhóm thông công. Hội Thánh ở hải ngoại và Hội Thánh ở quê nhà đều được thêm giàu có và được gây dựng giống như nhau.
Tôi tin rằng cách làm cho giàu có nầy vượt trên các nền văn hoá, vượt trên các hàng rào quốc tịch là quan trọng đến nỗi nó trở thành một chức năng chủ chốt trong sự truyền bá Tin Lành. Không lâu trước đây, một nhóm người Auca Indians tin Chúa đã đến và mở một loạt các buổi nhóm ở tại Anh quốc. Gần đây hơn, một số giám mục ở Đông Phi đã tổ chức truyền giảng ở các miền khác nhau trong nước ấy. Thật là một cách sáng lạng qua đó cho thấy rằng Tin Lành là dành cho mọi người, cho thấy rằng phong trào ấy không phải chỉ tiến hành theo một cách (từ Anh Mỹ hướng đến thế giới thứ ba), và cho thấy rằng thế giới thứ ba cần phải làm thầy của chúng ta trong lãnh vực truyền bá Tin Lành.
Tôi tin rằng phần đông các Hội Thánh có thể làm nhiều điều để khích lệ cái nhãn quan nhìn ra bên ngoài nầy, ngay cả theo một cách nhỏ bé, bằng những nhóm thảo luận ở trong Hội chúng để khuyến khích về sự truyền giáo, ngay cả nếu chỉ dành một buổi nhóm hay một kỳ nghỉ cuối tuần ở tại một Hội Thánh khác kế cận. Tôi khó nhận lời mời giảng ở thời nay trừ phi tôi có thể đem một đội ngũ theo với tôi. Bằng cách nầy, nhiều Hội chúng đã nếm biết sự ra đi truyền giáo và được chuẩn bị cho những thánh thức lớn hơn rằng Đức Chúa Trời có thể mở đường cho họ hoặc là một cách cá nhân hoặc là với tư cách một Hội Thánh.
Có một số Hội Thánh có nguồn tài chánh để giúp cho một hai người trong số tín hữu của họ, hoặc thậm chí cho cả một ban cán sự để phục vụ ở hải ngoại trong một hạn kỳ từng hồi từng lúc. Tôi đã từng ở trong một Hội Thánh như vậy, hai người trong chúng tôi ra đi đều đặn trong những chuyến truyền giáo hải ngoại, nhưng chỉ sau khi Ban trị sự của Hội Thánh đã tin chắc rằng việc chúng tôi ra đi là đúng; và chỉ khi những người lãnh đạo trong Hội chúng đã đặt tay trên chúng tôi và sai phái chúng tôi ra đi nhân danh họ; chỉ khi Hội chúng quan tâm cầu nguyện cho chúng tôi khi chúng tôi đã ra đi và họ họp nhau lại để xem xét các phim rọi và nghe các tin tức chúng tôi gởi về. Bằng cách nầy, tất cả chúng tôi nắm bắt được một điều gì đó về tính phổ thông của Hội Thánh Đức Chúa Trời – một Hội Thánh trải khắp toàn cầu mà trong đó chúng ta có đặc ân làm một phần tử nhỏ. Đó là điều mà Hội Thánh An-ti-ốt đã học biết một cách rõ ràng. Họ đã nghe sự kêu gọi. Họ ủng hộ nó. Họ đã đặt tay trên Sau-lơ và Ba-na-ba. Họ cầu nguyện cho hai người nầy. Chắc chắn họ đã giúp đỡ tài chánh. Họ đã họp nhau lại để nghe tin tức từ Sau-lơ và Ba-na-ba, và họ dự phần trong sự cầu nguyện và ngợi khen Đức Chúa Trời về những điều Ngài làm với hai người đó và thông qua hai người đó. An-ti-ốt là một Hội Thánh biết nhìn xa.
Đây là một Hội Thánh mà ở đó sự dạy dỗ cặn kẽ được nổi bật
Với sự thường xuyên đàm đạo về đức tin và khởi xướng sự truyền giáo, e chúng ta có ấn tượng rằng những Cơ đốc nhân ở An-ti-ốt chỉ có trái tim mà không có đầu óc, chúng ta hãy xem xét nhãn hiệu đầy ý nghĩa của Cơ đốc giáo mà họ đã trình bày. Đó là một nhóm người Hê-lê-nít (gốc Hi-lạp) được dẫn đưa đến Đấng Christ vào lúc đầu, họ là những môn đồ của Ê-tiên, người tuận đạo. Họ nói tiếng Hi-lạp, họ suy nghĩ theo cách người Hi-lạp; trong khi các Cơ đốc nhân Do-thái nhìn thấy Đức Chúa Trời chủ yếu như là Đức Chúa Trời của luật pháp, của đền thờ và của dân Y-sơ-ra-ên, thì những con người nầy đã suy nghĩ cách khác. Họ nhận định rằng đền thờ được che phủ bởi sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở trong Đấng Christ, rằng cái tập tục do Môi-se ban ra (luật về thức ăn, ngày Sa-bát và phép cắt bì) không thể đạt được tiêu chuẩn sự tự do Cơ đốc ở trong thời đại của Đức Thánh Linh. Trọng tâm cái nhìn của họ là Chúa Jesus phục sinh. Ngài là tối cao trên cả thế gian. Ngài là Chúa Jesus. Điều đáng chú ý đó là những người Hê-lê-nít nầy đã bị đuổi ra khỏi Do-thái giáo, trong khi các Cơ đốc nhân bảo thủ ở Giê-ru-sa-lem lại được ung dung sống bình an: mười hai sứ đồ, Gia-cơ người Công nghĩa và những người còn lại hiển nhiên được ở lại thành thánh không bị làm khó dễ gì. Nói cách khác, chính người Do-thái đã phân biệt đối xử giữa những người cực đoan Hê-lê-nít nầy (với những quan điểm cách mạng của họ về người ngoài, về luật pháp và về sự thờ phượng chung) với những Cơ đốc nhân người Pa-lét-tin (dân đã được xác lập, những người dường như chỉ là những kẻ mộ đạo vô hại).
Điều bổ ích là phải nhớ rằng tương lai nằm ở phía người Hê-lê-nít nầy chớ không phải ở phía những người bảo thủ. Họ đã phiên dịch Tin Lành ra những từ ngữ mà người thế tục ở thời ấy hiểu được. Họ đã có một quan niệm đủ lớn về Chúa Jesus phải được giải phóng khỏi gông cùm của sự cố gắng chỉ cho những gì đã được thực hiện trước đó. Họ thấy tôn giáo bất động là một sự phản bội đối với Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham; lời tố cáo cao độ trong bài giảng của Ê-tiên đó là vua Sa-lô-môn đã cất cho Ngài một cái nhà (Cong Cv 7:47). Họ đã nhận định rằng Đức Chúa Trời không sống ở trong các ngôi nhà nhưng sống ở trong dân sự Ngài. Họ đã nhìn thấy lãnh vực dành cho Tin Lành không phải ở trong sự tù túng của Do-thái giáo ở xứ Pa-lét-tin nhưng ở trong Đế quốc thế tục La-mã. Chính trong tinh thần nầy mà họ đã đến An- ti-ốt.
Họ đã tiếp tục suy nghĩ một khi họ đã đến đó. Làm thế nào bạn có thể giới thiệu chủ quyền của Chúa Jesus trong tình huống nầy? Người Do-thái và người Hi-lạp có nên ngồi ăn chung không? Đâu là những giới hạn của sự quan tâm Cơ đốc? Còn việc truyền giáo thì sao? Việc huấn luyện thì sao? Đây là những vấn đề mà họ phải vật lộn. Lời ký thuật nhấn mạnh họ đã dạy dỗ đức tin Cơ đốc cặn kẽ như thế nào. Khi họ đã có Ba-na- ba đến giúp, ông đã đem Sau-lơ từ Tạt-sơ đến, trọn một năm họ đã nhóm họp với Hội Thánh và đã dạy dỗ nhiều người (Cong Cv 11:26). Chúng ta tham khảo đến những người dạy dỗ của họ ở trong khúc Kinh Thánh Cong Cv 13:1 và sự lôi cuốn rộng rãi hơn của sự dạy dỗ tiếp sau cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất. Sự dạy dỗ đó được tiến hành một cách kỹ lưỡng.
Rất ít Hội Thánh có được sự dạy dỗ chu đáo. Kết quả là các tín hữu của Hội Thánh bắt đầu nghi ngờ về việc có một sự suy nghĩ Cơ đốc về các vấn đề chính của thời đại – họ chỉ chấp nhận nó mà thôi. Sự hiểu biết Cơ đốc kém cỏi ở trong hầu hết Hội chúng rất là trẻ con, là sự vô tín lớn, là sự đồng hoá với những tiêu chuẩn của trần gian gần như hoàn toàn. Sự thiếu phê phán về các nền văn hoá đương thời bởi các Hội Thánh, sự thiếu quan tâm đến các đề tài chính yếu về xã hội và chính trị, sự thiếu vật lộn với các nội dung của Tin Lành và cách chia sẻ nó, sự thiếu vắng những khoá huấn luyện và những chương trình học đang thật là trầm trọng. Kinh Thánh nói đến một sự sanh lại, một tâm chí mới, một xã hội mới. Nhiều Hội Thánh không ưa cả ba điều nầy, nhiều người trong số những người nhiệt thành nhất cho điều đầu tiên thì yếu kém nhất về hai điều còn lại. “Sự biến đổi” là chìa khoá cho hầu hết những quan niệm luận của thời nay. Một chìa khoá rất mang tính Thánh Kinh. Nhưng chúng ta có sử dụng nó không?
Tôi viết sách nầy từ một khoá học mùa hè ở tại Vancouver, 200 người từ mọi nẻo đường của cuộc sống đã bỏ ra ba bốn tuần lễ của ngày nghỉ của họ để mà đến thực hiện một loạt các khoá học theo yêu cầu trong ngành Cơ đốc Giáo Dục: thần học hệ thống, thế giới Cựu ước, khảo cứu Tân ước từ sách Hê-bơ-rơ đến sách Khải thị, thần học Cơ đốc ở trong khung cảnh các nền văn hoá loài người, văn học đương thời, luân lý y học, giáo lý về Hội Thánh, âm nhạc trong Hội Thánh và gia đình trong xã hội thế tục. Khi Hội Thánh xem sự dạy dỗ một cách nghiêm túc thì sẽ không có thiếu người tham dự. Trong khi một chương trình thuộc loại nầy là xa vời đối với nhiều Hội Thánh thì các khoá học về soạn bài giảng, sử dụng đúng buổi nhóm trong tuần, trường Chúa nhật cho một hạng tuổi, các khoá huấn luyện về cách ăn nói trước công chúng và sự khải đạo có thể nằm trong khả năng của nhiều Hội Thánh hay từng nhóm nhỏ trong Hội Thánh, và kết quả sẽ là một sự tăng tiến ở trong các Cơ đốc nhân thực sự có suy nghĩ về đức tin của họ và áp dụng nó vào cuộc sống. Điều nầy có thể làm tiêu tan cái tư tưởng cho rằng các Cơ đốc nhân thì ngây thơ và giữ đạo chỉ trong một phạm vi và phần còn lại của đời sống họ thì ở trong một phạm vi hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta cần có tấm lòng nóng cháy và đầu óc tươi mát của Hội Thánh An-ti-ốt biết bao! Đó là một sự kết hợp đầy sức mạnh ở trong sự truyền bá Tin Lành.
Đây là một Hội Thánh với một khát vọng có kiềm chế
Chúng ta được bảo cho biết rằng chính ở tại An-ti-ốt mà các tín đồ được gọi là Cơ đốc nhân lần đầu tiên (Cong Cv 11:26). Điều nầy có ý nghĩa cao độ. Bạn sẽ thấy họ không tự gọi mình là Cơ đốc nhân. Những người khác đã gọi họ như thế. Đó là một biệt danh.
Chắc chắn biệt danh nầy dựa cơ sở trên cách gọi thông dụng “người nhà” của Hoàng đế. Những con người nầy được biết đến với cái tên “Augustiani”, bởi vì họ được Hoàng đế Augustus sử dụng, họ trung thành và tận tuỵ với Hoàng đế. Cũng vậy, dường như hữu lý để các công dân thành An-ti-ốt tạo một từ ngữ cho những người theo Đạo ở giữa họ. Họ sử dụng chữ “Augustiani” như là một khuôn mẫu. Do đó, chữ “Christiani” đã xuất hiện, đó là những người của Đấng Christ, được Ngài sai phái, họ trung thành và tận tuỵ đối với Ngài.
Tôi tự hỏi điều gì đã khiến cho người An-ti-ốt tạo ra từ ngữ nầy để gọi các tín đồ ở giữa vòng họ? Đó phải là vì họ luôn giữ việc nói về Đấng Christ, luôn làm việc cho Ngài, luôn làm đẹp lòng Đấng Christ, họ hành động theo cách họ nghĩ rằng Đấng Christ sẽ hành động. Biệt danh nầy thật là một lời làm chứng cho những người trung tín và hết lòng tận hiến của Hội Thánh ban đầu ở tại An-ti-ốt. Họ bị thiêu đốt bởi một khát vọng về Chúa Jesus. Ngài là Chủ của họ, Ngài là tình yêu hàng đầu của họ, không có điều chi khác là quan trọng hơn đối với họ. Và những người ngoại giáo biết điều đó.
Tôi cho rằng đây là dấu hiệu quan trọng nhất của bất kỳ Hội Thánh nào khi chúng ta xem xét đến vấn đề truyền bá Tin Lành. Nếu người ta thực sự đã tìm thấy tin tức tốt lành thì họ sẽ luôn luôn coi trọng nó, họ sẽ luôn luôn trở về để nói về Chúa Jesus và tình yêu thương của Ngài. Họ sẽ tìm cách để Ngài làm Chủ ở trong mọi khía cạnh của cuộc sống họ. Bằng cách nói năng và hành động, họ sẽ nhắc nhở người ta biết họ thuộc về ai và họ phục vụ cho ai. Đó là điều đã có ở tại An-ti-ốt. Khi một tỉ lệ đông đảo những tín hữu của một Hội Thánh nào đó yêu mến Chúa Jesus một cách cuồng nhiệt như vậy, thì Đức Chúa Trời sẽ gia thêm những người tin Chúa một cách không tránh khỏi. Vì không có điều gì thu hút ở trong trần gian nầy cho bằng một đời sống có Chúa Jesus chủ trị. Và những người nào được Ngài chủ trị sẽ không xấu hổ để dâng vinh hiển cho nơi đáng được và để nói về Chúa của mình, tuy nhiên nói một cách đúng lúc và một cách hiền hoà. Đó là bí quyết tối thượng của một Hội Thánh có truyền bá Tin Lành: một Hội Thánh mà chỉ có một khát vọng duy nhất – chỉ Chúa Jesus mà thôi.
Dạng thức sứ điệp của họ
Trong thời nay, có nhiều sự tranh luận về sự truyền bá Tin Lành, sẽ thật lạ lùng nếu chúng ta có thể hỏi những Cơ đốc nhân ban đầu nầy một số vấn đề mà nó gây phiền toái cho chúng ta. Quả thực do phẩm chất đời sống cộng đồng và đời sống cá nhân của họ, mà những điều đó mang một lời làm chứng hùng hồn cho quyền năng của Chúa Jesus Christ, họ đã thực sự bận rộn như thế nào khi người ta hỏi họ về những gì mà họ được kích động như vậy? Do đó, trong chương nầy, tôi dự định xem xét bốn vấn đề mà chắc chắn các Cơ đốc nhân đương thời đang nghĩ đến, và đối với tôi dường như các nhà truyền giáo ban đầu đã đưa ra một lời giải đáp khá quyết định về chúng.
Quan điểm của bạn như thế nào?
Thế giới Cơ đốc đã có phần bị phân cực giữa hai cực đoan. Một bên thì nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự rao giảng Tin Lành cho mọi người không phân biệt chi cả. Bên kia thì nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chén nước lạnh được ban ra trong danh Đấng Christ. Tin Lành xã hội và Tin Lành thuộc linh không phải là thay thế nhau: chúng thuộc về nhau.
Khi tôi còn là một sinh viên chưa tốt nghiệp, Phong trào Sinh viên Cơ đốc ở trong các trường đại học dường như nhấn mạnh đến Tin Lành xã hội, Đoàn Sinh viên Thông công thì trình bày nhu cầu về sự cứu rỗi cá nhân và sự rao giảng bằng lời nói. Trong trường hợp đặc biệt nầy, những sự xác tín về giáo lý đã chia rẽ hai đoàn thể nầy, họ đã nghi ngờ và bất tín nhiệm lẫn nhau rất nhiều. Nhưng rõ ràng sự rao giảng Tin Lành và sự quan tâm đến xã hội là thuộc về nhau. Không thể nghĩ rằng Chúa Jesus đã giảng dạy mà không chữa bệnh; hoặc là Ngài đã nuôi đoàn dân nhưng không đưa ra sự chỉ tỏ nào về Bánh Hằng Sống có thể tìm được ở nơi đâu. Hai điều nầy là bất khả phân ly.
George Hoffman đã khám phá ra điều nầy khi ông ở trong ban chỉ đạo của tạp chí Crusade. Ông đã tự hỏi những Cơ đốc nhân Tin Lành, những người mà họ không nhiệt thành về giá trị của những hoạt động cứu đói ở đó Danh của Chúa Jesus Christ bị câm lặng, có thể quan tâm đến việc ủng hộ cho một dự án ở đó sự rao truyền và sự hiện diện của người Cơ đốc đều cùng có mặt hay không. Kết quả là ngân quỹ bảo trợ TEAR đã ra đời mà trong vòng vài năm nó đã trở thành một trong những tổ chức cứu trợ lớn nhất ở trong thế giới Tây Phương. Một tổ chức Cơ đốc mà đáp ứng được những nhu cầu xã hội và thuộc linh cùng một lúc thì đã có thể nắm bắt và vẫn nắm bắt được sự hình dung của quần chúng Cơ đốc, và khơi dậy sự ủng hộ không chỉ bằng việc dâng hiến một cách rộng rãi mà còn cả việc ra đi một cách hi sinh nữa.
Alan Walker, một người thuộc Hội Giám Lý Úc Châu mà ảnh hưởng của ông trải rộng cả thế giới, đã có những nhận xét sâu sắc về vấn đề nầy.
“Sự biện luận cho một Cơ đốc giáo xã hội tiến hành một điều gì đó như vầy. Mở một quán cà-phê và bày tỏ ra sự trẻ trung bạn có: phục vụ hằng bao nhiêu tách cà-phê với sự vui vẻ nhưng chẳng nhắc gì đến Chúa Jesus Christ cả. Tạo một biến cố “hiệp chung” để đánh tan sự cô đơn của xã hội, nhưng chẳng có dự định gì để có dịp tiện rao giảng cả, qua đó biết chắc rằng biến cố ấy sẽ phản chiếu nền văn hoá và những giá trị xã hội ở chung quanh. Mở một trung tâm cố vấn, giúp đỡ người ta chỉnh đốn chính họ, láng giềng của họ, môi trường của họ, nhưng chẳng nói gì cả về nhu cầu căn bản nhất của họ, tức là sự hiệu chỉnh và giải hoà cùng Đức Chúa Trời. Mở một cơ quan phục vụ trợ giúp cộng đoàn, hoặc mở một nhà dưỡng lão, và thoả lòng nếu những sự an ủi cho những người ấy được đáp ứng…”
Theo sự phê bình chính xác của ông, không có cộng đoàn Cơ đốc thích hợp nào đã nổi lên từ phương cách “sự hiện diện của người Cơ đốc” cả. Sự hiện diện mà không có sự rao giảng là một sự thất bại và chắc chắn các Cơ đốc nhân ban đầu đã không phạm lỗi lầm ấy. Chỉ cần liếc sơ qua các trang sách Công-vụ bạn cũng thấy được họ đã xem một sự đề nghị như vậy là buồn cười như thế nào. Phong trào Cơ đốc sẽ không bao giờ rời khỏi cái nền tảng các nhà truyền giáo ban đầu đã có, không sốt sắng rao giảng mà chỉ quan tâm đến xã hội. Cũng như Chúa Jesus, họ xem hai khía cạnh nầy là không thể chia rẽ ra được.
Hãy nhìn lại dòng lịch sử Cơ đốc. Há chẳng đúng rằng những bước tiến mạnh của Hội Thánh đã có được thông qua sự rao giảng Tin Lành hay sao? Phi-e-rơ, Phao-lô, Origen, Savonarola, Luther, Wesley, Whitefied, Jonathan Edwards, William Temple, Martin Luther King và những người khác nữa đã làm cảm động lòng người ta thông qua việc nói về Chúa Jesus cho họ. Nhưng trong từng trường hợp, đã có một sự hàm ý về xã hội không thể tránh khỏi ở trong sự rao giảng của họ. Đó là một vấn đề về gốc rễ và bông trái. Giá trị duy nhất của Tin Lành được đâm rễ ở trong một sự gặp gỡ với Đức Chúa Trời hằng sống mà nó nhất thiết có bông trái của nó và có sự quan tâm sốt sắng về những nhu cầu của người ta, và sự can dự vào những sự tranh đấu và những nguyện vọng của họ.
Thư Phi-lê-môn có thể không bao giờ được viết ra nếu Tin Lành thuộc linh và xã hội, sự rao giảng và các phương pháp hiện diện đã được xem là những sự tuỳ chọn thay thế ở trong Hội Thánh ban đầu. Họ không có sự tuỳ chọn nào cả! Phao-lô đã dẫn đưa Phi-lê- môn, một địa chủ giàu có ở Cô-lô-se, đến với Chúa. Trong sự thần hựu khôi hài của Đức Chúa Trời, người nô lệ bỏ trốn của Phi-lê-môn bị nhốt vào cùng một nhà tù với Phao-lô, và đã được ông đem trở về cùng Chúa. Kết quả nầy có những hệ quả xã hội tức thời. Trước tiên, lương tâm của Ô-nê-sim lại hoạt động, cậu cảm thấy xấu hổ về số tiền cậu đã ăn cắp của chủ mình và cậu biết mình cần phải trở về, dẫu cho có bị định phải chết. Thứ hai, Phao-lô đã viết thư cho Phi-lê-môn, nhân danh người tín hữu mới của mình, không những ông chỉ nài xin Phi-lê-môn đối xử với Ô-nê- sim trong tình thương yêu như là một người đồng bào và như là một người bạn Cơ đốc, nhưng ông cũng nói bóng gió rằng Phi-lê-môn nên rộng rãi đối với cậu. Còn chính Phi-lê-môn, chúng ta có thể giả định rằng ông đã nguôi cơn giận và sự tức bực mà đương nhiên ông đã có đối với kẻ trộm cắp bỏ trốn, và ông đã bắt đầu yêu thương cậu – trong một sự thông công giữa chủ và tớ, mà đó là điều cực kỳ hiếm có ở thời cổ. Những tính chất xã hội và thuộc linh của Tin Lành không thể bị chia cắt được.
Bạn đàm đạo về điều gì?
Quả thực họ đã có một trọng điểm để rao giảng, trọng tâm của nó là gì? Đây là một vấn đề mà nó thích hợp ở trong một thời đại khi mà những người nói về đức tin khác biệt rất nhiều trong những điều họ nói. Tôi thấy rằng có nhiều người nhấn mạnh đến “kinh nghiệm của tôi về Đức Chúa Trời”.
Điều nầy dường như vừa khờ khạo vừa làm cho người ta ghét. Khờ khạo bởi vì kinh nghiệm của người ta khác nhau rất nhiều. Nó làm cho người ta ghét bởi vì nó nêu ra cái tôi chớ không phải chỉ tỏ đến Đấng Christ. Trong thời ban đầu, chúng ta thấy rằng các Cơ đốc nhân đã không làm như vậy. Họ đã làm chứng về Chúa Jesus.
Martyria, tức là “chứng nhân”, là một trong những quan niệm quan trọng của Tân ước. Nó thường có ở trong sách Công-vụ. Nó không có nghĩa là giặt sạch áo xống thuộc linh của tôi ở nơi công cộng, nhưng có nghĩa là nói cho người ta bằng lời lẽ của chính tôi về Chúa Jesus và sự sống lại của Ngài. Tất cả sự nhấn mạnh là về Ngài, và điều được thêm vào, đó là sự thừa nhận khiêm nhường của tôi (dựa trên việc đã được nếm biết rằng Chúa là thực hữu) rằng Chúa Jesus là hằng sống, có giá trị, làm thay đổi cuộc sống. Trong Tân ước, điều nầy luôn luôn là ý nghĩa chính của từ ngữ “chứng nhân”. Lúc đầu, Martyria có nghĩa là nói cho Chúa Jesus, về sau nầy, nó có nghĩa là chết cho Chúa Jesus, như chúng ta thấy rõ qua từ ngữ “martyr” (“người tuận đạo”) của chúng ta.
Dĩ nhiên, theo như Tiến sĩ James Dunn đã nhấn mạnh trong cuốn sách của ông, cuốn Unity and Diversity in the New Testament (Sự Hiệp Nhất Và Sự Khác Nhau Trong Tân Ước), đúng là có một sự khác nhau về hiện tượng trong những cách thức mà theo đó các nhân chứng thời Tân ước đã nói về Chúa Jesus. Đã có điều đó, và tất cả chúng ta đều là những người giàu có về sự khác nhau. Nhưng như ông đã cẩn thận nêu ra, điểm đồng qui quan trọng nhất của tất cả những sự khác nhau đó là thân vị của Chúa Jesus. Hết thảy họ đều nói về Ngài, từ bất kỳ góc độ nào họ xuất hiện. Chúng ta có thể học hỏi một cách ích lợi qua Phi-líp, một trong số bảy chấp sự, ông đã xuống một thành phố của xứ Sa-ma-ri để mà “giảng về Đấng Christ tại đó”, và khi nói cho một người Phi Châu ở trong xe của ông ta, ông “bèn mở miệng… mà rao giảng Đức Chúa Jesus cho người” (Cong Cv 8:5,35). Chúa Jesus là Đấng để bàn đến – chớ không phải là về thời tiết hay là về vấn đề đau đớn.
Bạn đang trông chờ điều gì?
Ở đây, một lần nữa, có một mức độ phân cực nào đó ở trong các tổ chức Cơ đốc, ở trong điều mà tôi có thể gọi là những người “quyết định” và những người “tiến triển”. Một số người nhấn mạnh đến nhu cầu về sự hoán cải thình lình, một số người khác không thích từ ngữ ấy lắm, họ nghĩ đến đời sống Cơ đốc như là một quá trình biến đổi. Nhưng các Cơ đốc nhân ban đầu đã xem điều nầy là một sự tranh luận rất xa lạ. Họ chẳng biết gì về một sự quyết định mà nó không dẫn đến sự làm môn đồ và sự kết hợp ở trong một cộng đồng Cơ đốc thương yêu nhau. Cũng vậy, họ đã thấy rằng không thể hiểu cái ý niệm về sự biến đổi của Cơ đốc nhân mà không có sự bắt đầu làm Cơ đốc nhân, điều đó cũng lạ lùng như là có cuộc sống mà không có sự ra đời vậy. Một người quen của tôi đã hỏi người ta về cách nào họ hiểu biết quyền năng của Đức Chúa Trời ở trong đời sống họ: hơn 90% những người được hỏi đã trả lời theo cách đó là một giây phút hơn là một quá trình; nhưng giây phút đó đã dẫn đến một cuộc đời tận hiến phục vụ Chúa Jesus Christ. “Sanh ra để mà lớn lên” là câu khẩu hiệu của Hội nghị Liên Hiệp Hội Thánh Giám Lý ở Miami vào tháng Giêng năm 1978. Câu đó diễn tả chính xác sự quân bình. Nếu bạn được sinh ra thì bạn phải lớn lên; nhưng để lớn lên, bạn cần phải được sinh ra. Thông thường, hai sự nhấn mạnh nầy là bổ túc cho nhau.
Thật đáng để phản ánh một chút về sự hoán cải của Sau-lơ, người Tạt-sơ. Đây không chỉ là sự hoán cải nổi tiếng nhất trong lịch sử Cơ đốc giáo, nhưng cũng là điều lạ kì nhất. Những người nào không thích ý tưởng về sự hoán cải thường hay tránh né nó. Nói tóm lại, phải chăng họ được mong đợi nghe thấy một tiếng nói từ trời và những vảy cá sẽ rớt xuống khỏi đôi mắt mù loà của họ? Dĩ nhiên là không. Đây chỉ là những điều phụ chứ không phải là những điều thiết yếu ở trong sự hoán cải của Sau-lơ. Nhưng ở một vị trí đáng chú ý trong ITi1Tm 1:16, Phao-lô đã đi khá xa đến chỗ nói rằng sự hoán cải của ông là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta. Làm thế nào điều nầy có thể được?
Có bốn yếu tố ở trong việc Sau-lơ trở thành một Cơ đốc nhân theo như được ký thuật ở trong sách Công-vụ chương 9, mà thực tế nó có áp dụng cho tất cả chúng ta. Bất cứ khi nào Tin Lành của Chúa Jesus được rao giảng và được đáp ứng thì những yếu tố nầy sẽ được thấy có. Chúng là bốn điểm thiết yếu trong mọi cuộc hoán cải.
Nó đụng đến lương tâm của ông
Tiếng từ trời hỏi ông rằng: “Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ ta?” (Cong Cv 9:4), nhiều thủ bản thêm vào câu phương ngôn nầy: “Ngươi đá đến ghim nhọn thì là khó chịu cho ngươi vậy”. Sau-lơ đã đấu tranh với một lương tâm xấu kể từ lúc ông giữ áo xống của những người đã ném đá Ê-tiên cho đến chết. Ông đã có một ý nghĩ chí lý rằng ông đang bắt bớ Đấng Yêu Thương khi ông dồn các Cơ đốc nhân vào chỗ chết. Đằng sau các Cơ đốc nhân, ông đã giáng đòn tấn công của lòng kiêu ngạo của mình vào một bóng hình của Đấng mà ông chỉ biết được nửa vời. Giờ đây hình bóng ấy đã bắt lấy ông. Ông biết điều đó ở trong lương tâm mình.
Điều nầy luôn luôn xảy ra, phải vậy không? Tôi không có ý nói rằng mọi người đến với đức tin thông qua con đường của sự tố giác của lương tâm. Có nhiều đường dẫn đến Đấng Christ. Nhưng tôi muốn nói điều nầy. Bất cứ khi nào có người đến cùng Đấng Christ mặt đối mặt, thì người ấy bị đẩy đến chỗ xác tín rằng mình không xứng đáng gì cả, và Chúa Jesus mới là có giá trị. Một trong những dấu hiệu chắc chắn nhất của một sự hoán cải đích thật đó là một lương tâm trở nên nhạy cảm.
Nó khai sáng tâm trí ông
“Lạy Chúa, Chúa là ai?”… “Ta là Jesus” (Cong Cv 9:5). Sau-lơ, con người Pha-ri-si kiêu ngạo đã phải vấp ngã trước Chúa Jesus bị đóng đinh, giờ đây đã nhận thức rằng Ngài được tôn cao đến vị trí “Chúa”. Jesus và Chúa – trong hai chữ ấy bạn phải thấy trái tim của sự xưng nhận của các Cơ đốc nhân ban đầu và tinh tuý của sự rao giảng Cơ đốc. Người dân quê đã bị kết án, bị đóng đinh có quyền hưởng danh hiệu Adonai, tức là Chúa; từ ngữ mà chỉ được sử dụng cho chính Đức Chúa Trời ở trong Cựu ước. Thật rất ngạc nhiên rằng hai từ ngữ nầy trở thành trung tâm điểm của bài tín điều ngắn ngủi được các Cơ đốc nhân ban đầu sử dụng lúc họ chịu báp-têm: “Jesus là Chúa”.
Đây không phải là một lời phát biểu đầy đủ của giáo lý. Hầu như không đầy đủ cho bằng nhiều Cơ đốc nhân muốn làm cho nó. Nhưng nó đủ để đem Sau-lơ vào trong đức tin. Tôi không thấy được làm sao có thể trở thành một Cơ đốc nhân với giáo lý kém hơn lời nầy. Trừ phi tôi tin rằng Chúa Jesus, Đấng đã đến trần gian, đã chịu chết vì tôi trên thập tự giá, là Đấng đã sống lại, Ngài có quyền chia sẻ danh hiệu và ngôi nước của Đức Chúa Trời – bằng không thì khó thấy được cách nào nhờ đó tôi có thể được gọi là một Cơ đốc nhân. Nhưng điều quan trọng là phải để ý rằng Sau-lơ không xuất hiện như là đã được thuyết phục bởi nhiều sự kiện về Chúa Jesus hơn là câu nói nầy. Đến phiên chúng ta, chúng ta không có quyền mong đợi người ta, ở vào lúc đổi hướng trong cuộc đời họ, có nhiều hơn sự hiểu biết tối thiểu nầy về Chúa Jesus là ai và Ngài đã làm gì. Điều nầy đủ để chúng ta bắt đầu với nó; như các thư của Phao-lô đã chỉ tỏ, sự hiểu biết ban sơ nầy có khuynh hướng bành trướng!
Trong Cong Cv 9:6, có một số chữ mà nó không có ở trong tất cả mọi thủ bản. Chúng cho chúng ta biết rằng Phao-lô “run rẩy và kinh ngạc” đáp lời cùng Chúa. Những chữ nầy nói đến sự hỗn loạn về mặt cảm xúc của ông và có lẽ nó biểu trưng rằng vị trí của chúng ở trong các thủ bản cổ truyền là không chắc chắn. Bởi vì thật rõ ràng rằng trong khi sự phó thác khởi đầu của một số người cho Đấng Christ được kèm theo bằng nhiều xúc cảm, thì với một số người khác, chẳng có điều gì kèm theo cả. Sự hoán cải không liên hệ gì đến cảm xúc, cũng như hôn lễ vậy; tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, cảm xúc không phải là không thường có! Tôi có biết những người đã trở về cùng Đấng Christ trong một sự hoán cải thực sự và lâu dài, và họ đã trở về với Chúa như vậy một cách bình thường như thể họ quyết định mặc một bộ áo quần đặc biệt. Tôi cũng đã thấy một số người khác, như John Wesley đã tin Chúa trong thời của ông, họ té xuống, vặn vẹo trên sàn nhà khi họ đối diện với Đấng Tạo Dựng và Đấng Cứu Chuộc của họ lần đầu tiên. Nội dung của sự xúc cảm có khác nhau và không quan trọng. Trái tim của vấn đề đó là ý chí.
Nó đụng đến ý chí của ông
Sau-lơ đã nhìn nhận quyền chủ trị của Chúa Jesus. Sau-lơ chịu để cho mình đi đến nơi nào Chúa Jesus chỉ tỏ, ông vào thành Đa-mách. Đây là điều làm dấu hiệu cho cái yếu tính của sự hoán cải của ông. Chúa đã “hoán cải” tức là đã xoay hướng cho Sau-lơ theo một cách khoan nhân nhất và bày tỏ Ngài sẵn lòng đón nhận ông. Giờ đây, Sau- lơ đã quay trở lại hay là đã “hoán cải” về cùng Đức Chúa Trời và ông nắm chặt bàn tay đã hiến dâng trong sự vô cùng biết ơn ân điển không mong đợi như vậy và trong sự tận hiến hoàn toàn. Ý chí của ông là điều quan trọng, và nó quan trọng như vậy trong mọi sự hoán cải. Ngẫu nhiên, điều nầy giải thích về một số mức độ của hiện tượng hoán cải giả tạo, người mà đã “cố làm mọi điều nhưng nó chẳng hoạt động được”. Kinh nghiệm tôi có với nhiều người đó là họ không cố gắng gì cả. Điều họ đã làm đó là lẫn lộn cảm xúc với sự phó thác, hoặc là họ hăng hái với sự làm môn đồ. Họ có thể bày tỏ sự đáp ứng tỏ tường nào đó theo thời gian trôi qua, nhưng khi xét lại họ sẽ đồng ý rằng mình đã không có sự hết lòng quay trở về cùng Đức Chúa Trời và giao phó cho Ngài trọn tương lai của họ, như Sau-lơ đã làm. Nơi trú ẩn của ý chí của họ vẫn chưa bị công phá và họ đã không thực sự được hoán cải.
Nó thay đổi cuộc đời ông
“Ta đã chọn người nầy làm một đồ dùng ta, để đem danh ta đồn ra trước mặt các dân ngoại” (Cong Cv 9:15). Toàn cả hướng đi sau đó và phẩm chất của cuộc đời của Sau-lơ được biến đổi bởi sự gặp gỡ nầy với Đấng Christ hằng sống. Những sự thay đổi đang chập chững, và một số trong những sự thay đổi đó đã được thấy rõ qua chính khúc Kinh Thánh nầy.
Chúng ta thấy ông đang cầu nguyện (Cong Cv 9:11). Trước kia ông đã đọc bài cầu nguyện ba lần một ngày, nếu không phải là nhiều hơn nữa, khi nào ông có thể nhớ đến. Nhưng giờ đây ông đang tiếp xúc với Đức Chúa Trời: “Nầy, người đang cầu nguyện”. Đây là một trong các dấu hiệu ban đầu nhất và chắc chắn nhất của đời sống mới. Người trở lại với Chúa bắt đầu thấy sự cầu nguyện là một thực tại. Dĩ nhiên, vì Đức Thánh Linh hiện đang ở trong người ấy nên Ngài khiến người bập bẹ thưa rằng: “A-ba, Cha thương yêu”, như một con trẻ nhỏ ở trong nhà Cha (RoRm 8:15).
Chúng ta thấy ông đang chờ đợi và ăn uống trong cộng đồng Cơ đốc (Cong Cv 9:19). Đó là một dấu hiệu thông thường khác ở buổi đầu của sự làm môn đồ. Cộng đoàn Cơ đốc, mà trước kia dường như chẳng có gì thu hút, giờ đây tỏ ra vừa là một sự cần thiết vừa là một niềm vui.
Một dấu hiệu khác của đời sống mới đó là sự ao ước của Sau-lơ được chia sẻ điều mà ông đã khám phá về Đấng Christ cho những người khác. “Người liền giảng dạy trong các nhà hội rằng Chúa Jesus…” (Cong Cv 9:20). Chúng ta thấy điều nầy là một trong những dấu hiệu thông thường nhất của sự hoán cải ở trong đời sống của những tân tín hữu ở trong Hội Thánh của chúng ta. Phần lớn họ đang tìm cách để chia sẻ đức tin với bạn hữu mình trong một thời gian – Không có ai đề nghị họ làm như vậy cả. Đó là hoạt động tự nhiên bên ngoài của những gì Đức Chúa Trời hành động bên trong.
Công-vụ chương 9 chỉ dạy nhiều cách. Nó trình bày cho chúng ta nơi Sau-lơ người Tạt-sơ một con người muốn lớn lên. Ông không thoả lòng với chỗ mình đã đạt được, nhưng đang vươn lên phía trước. “Sau-lơ lần lần càng thêm vững chí” (Cong Cv 9:22). Như trong đời sống thuộc thể thể nào thì trong đời sống thuộc linh cũng như vậy, sự thèm ăn là một trong những dấu hiệu chắc chắn nhất của sức khoẻ.
Ông trở nên càng dạn dĩ. Ông sẵn sàng đối diện với sự chống đối và sự chế nhạo vì sự thay đổi lập trường của mình, cả ở bên trong lẫn ở bên ngoài những đồng bạn mới của mình (Cong Cv 9:21,23). Đó là một dấu hiệu của sự sống mới. Ông cũng sẵn sàng tiếp nhận sự giúp đỡ từ nơi những người khác. Trước kia, con người kiêu hãnh, đầy tin tưởng nầy giúp đỡ người khác nhiều hơn là nhận sự giúp đỡ. Nhưng giờ đây chúng ta thấy ông sẵn sàng để cho A-na-nia chỉ bảo, sẵn sàng để các Cơ đốc nhân khác cấp dưỡng và dạy dỗ, sẵn sàng để họ cứu thoát khỏi một âm mưu khi họ dòng ông xuống khỏi vách thành một cách an toàn trong một cái thúng. Không ai có thể làm một Cơ đốc nhân mà không để cho Đấng Christ phục vụ mình. Điều nầy thường có một tác dụng làm cởi mở một người để đón nhận sự giúp đỡ từ nơi những người khác. Tôi nhớ lại một thanh niên đã nói với tôi rằng anh đã không thích và đã khinh dể những Cơ đốc nhân ở trong trường đại học của anh mãi cho đến khi anh đến cùng Đấng Christ mặt đối mặt. Chính ngày hôm sau anh đã đến cùng họ và xin họ giúp mình trong đức tin mới của mình. Đã có một sự cởi mở mới để tiếp nhận, cũng như để ban phát. Đấng Christ đã làm mềm tấm lòng đó.
Phải, sự hoán cải sinh ra một cuộc đời được thay đổi. Nếu không có sự thay đổi thì đã không có sự hoán cải. Nhưng, ngay cả khi tôi đang viết những dòng chữ nầy thì tôi không thấy dễ dàng về chúng. Những chữ mô tả mà chúng ta đã dùng “sự quyết định”, “tiến triển”, “sự hoán cải”, tất cả đều tập trung vào con người. Chúng hoàn toàn không thích hợp để mô tả phương cách mà trong đó việc Sau-lơ gặp gỡ Đức Chúa Trời được định làm một khuôn mẫu cho các thế hệ nối theo sau. Có lẽ điều quan trọng nhất đã xảy ra cho ông, và sẽ là tiêu chuẩn cho tất cả chúng ta, đó là Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đến và đã vào trong đời sống của ông. Ông đã chịu phép báp- têm và được đầy dẫy Đức Thánh Linh (Cong Cv 9:17-18). Thời kỳ các sứ đồ đã mong đợi “sự tái sinh” hay “một sự dựng nên mới” ở trong những người trở lại đạo, vì người mà trước kia xa lạ đối với Đức Thánh Linh thì giờ đây trở thành đền thờ của Ngài. Quyền năng tái sinh của Đức Chúa Trời vào trong đời sống những người quay lại cùng Ngài trong sự ăn năn và đức tin; và thông qua sự sống tái sinh của các cá nhân, Đức Chúa Trời tạo ra sự tái sinh thế giới nầy.
Bạn nói điều gì?
Tôi tự hỏi bạn sẽ nói điều chi nếu có một số bạn hữu, họ bị gây ấn tượng bởi sự khác biệt mà Đấng Christ dường như đã làm cho một số tín hữu ở trong Hội chúng của bạn hay cho chính bạn, đến hỏi rằng như thế nào họ có thể tìm được điều mà bạn đã có được. Bạn sẽ phải bắt đầu từ chỗ nào? Hay là bạn bị líu lưỡi và chuyển họ đến cho một người nào đó có kinh nghiệm hơn? Trong một số trường hợp điều đó có thể thích hợp. Nhưng vì họ đã đến với bạn, tôi nghĩ rằng rất có thể họ muốn nghe từ nơi bạn. Có lẽ những Cơ đốc nhân ban đầu kia một lần nữa giúp chúng ta một manh mối chăng? Tôi thấy năm yếu tố thường hay có trong sự rao giảng Tin Lành của họ ở trong Sách Công-vụ – nhiều bài giảng được ghi lại khiến chúng ta có được một ý tưởng hay về dạng thức sứ điệp của họ.
Họ nhấn mạnh đến một đạo
Đó là một cụm từ khá lạ, nhưng nó vang vọng suốt cả sách Công-vụ. “Đạo” (hay “Lời”) dường như là trọng tâm của những gì họ truyền đạt. Đi đến đâu, những Cơ đốc nhân ban đầu nầy đều truyền bá đạo (Cong Cv 8:4). Suốt mười tám tháng ở tại Cô-rinh-tô, Phao-lô bị nắm chặt bởi đạo (Cong Cv 18:5). Lúc Phao-lô ở tại Ê-phê-sô cũng vậy (Cong Cv 19:10). Công việc nầy nhiều đến nỗi Lu-ca muốn nói cho chúng ta biết Hội Thánh bành trướng thì ông nói với chúng ta rằng đạo phát triển. Điều đó cũng xảy ra như vậy ở xứ Giu-đê (Cong Cv 6:7), xứ Sa-ma-ri (Cong Cv 8:14), trong hành trình truyền giáo thứ nhất (Cong Cv 13:44) và trong chuyến truyền giáo ở tại Á Châu (Cong Cv 19:20). Không có gì lạ khi Mười hai Sứ đồ xem đó là việc ưu tiên (Cong Cv 6:4). Không có gì lạ khi họ khuyến khích các người trở lại với Chúa của họ hãy làm điều ấy (Cong Cv 20:32).
Có ai tin không? Vì đó là đạo dẫn đến đức tin (Cong Cv 8:4 trở đi). Có người nào nhận lãnh Đức Thánh Linh không? Đạo khiến họ làm điều đó (Cong Cv 10:44). Có người nào trở thành Cơ đốc nhân không? Chính là đạo mà người ấy tiếp nhận (Cong Cv 17:11). Có người nào là Cơ đốc nhân giả mạo không? Chính là vì họ không có phần gì ở trong đạo (Cong Cv 8:21).
Thật rất khó để giải thích tầm quan trọng mà họ đã đặt ở trên “đạo”. Dĩ nhiên, nó có nghĩa là sự rao giảng về Chúa Jesus của họ đặt cơ sở nơi Kinh Thánh Cựu ước. Do đó họ cho rằng sứ điệp của họ không phải chỉ là lời (đạo) của con người nhưng là lời (đạo) của Đức Chúa Trời, lời đó làm thay đổi cuộc đời (ITe1Tx 2:13). Lời của Đức Chúa Trời là cơ quan hoạt động chủ chốt ở trong sự truyền bá Tin Lành.
Rồi, vấn đề mà chúng ta đối diện là: bạn có tin rằng sứ điệp về Chúa Jesus mà các sứ đồ rao giảng và được gói ghém ở trong Tân ước thực sự là lời của Đức Chúa Trời dành cho con người không? Nếu có, bạn sẽ đem người ta đến đối mặt với lời đó ở mỗi lúc. C.S. Lewis đang được sự hâm mộ vô song ở giữa vòng các nhà biện hộ thời nay cho đức tin Cơ đốc. Tại sao có được điều nầy? Bởi vì sau khi từ chủ nghĩa vô thần trở lại với Đấng Christ, ông đã sử dụng trí khôn lớn lao của mình để hiểu biết lời của Đức Chúa Trời đến nỗi ông có thể quảng bá nó ra với sự sáng tỏ và quyền năng. Ông đã bị nắm chặt bởi đạo. Sự dạy dỗ của ông đơn sơ và là sự dạy dỗ của Tân ước một cách chẳng hổ thẹn. Nó được áp dụng với sự tươi mới và sự lôi cuốn, với sự nhạy cảm và sự thấu suốt. Ở trong đó tàng trữ sức mạnh của nó.
Tôi tin rằng các Hội Thánh phải quay về với Kinh Thánh nếu muốn sự truyền bá Tin Lành lan rộng trong thế giới của chúng ta. Người ta không bị sửng sốt nếu bạn quay họ về với Kinh Thánh. Bao lâu mà bạn không làm rộn về việc họ có tin hay không tin, mà chỉ trình cho họ xem những trang Kinh Thánh, thì việc nầy sẽ dường như là một thủ tục đáng trọng lắm – thực ra nó đã được như vậy. Có cách nào để xem xét một vấn đề tốt hơn là trở về với nguồn cội chính của nó không?
Chúng ta phải khôn ngoan cất giữ ở trong trí nhớ mình những câu Kinh Thánh hay những khúc Kinh Thánh chủ chốt nào đó, hoặc là chúng ta có thể tỏ ra mình là kẻ mù dắt kẻ mù khi chúng ta cố giúp đỡ người khác. Các Cơ đốc nhân ban đầu đã ghi nhớ Kinh Thánh. Qua sự trưng dẫn Cựu ước của họ, rõ ràng là họ đã có sự ham thích các khúc Kinh Thánh đặc biệt – Thi-thiên 110 là khúc Kinh Thánh được ưa chuộng hơn cả. Ngoài ra, C.H. Dodd, một trong những học giả về Tân ước lừng danh nhất của thế kỷ nầy đã cho thấy rằng có một mẫu mực cơ bản làm nền tảng cho sự rao giảng Tin Lành lúc ban đầu. Nó là một dàn bài đại cương mà dĩ nhiên người ta không đi theo nó một cách máy móc, nhưng nó cung cấp một cấu trúc cơ bản cho các nhà giảng đạo để ghi nhớ và sử dụng theo như họ nghĩ là thích hợp. Cái mẫu mực họ sử dụng đại khái như vầy (tham khảo sách của Dodd, cuốn The Apostolic Preaching and its Developments để có chi tiết). “Thời đại của sự ứng nghiệm đã bắt đầu, theo như Kinh Thánh đã nói trước. Đức Chúa Trời đã sai Đấng Mê-si của Ngài đến, ấy là Chúa Jesus. Ngài đã chịu chết một cách sỉ nhục trên thập tự giá. Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ nơi phần mộ. Giờ đây Ngài là Chúa, ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Bằng chứng về điều nầy đó là Đức Thánh Linh mà các ngươi đã thấy những hiệu quả của Ngài. Chúa Jesus nầy sẽ trở lại vào lúc chung kết dòng lịch sử. Hãy ăn năn, tin nhận và chịu phép báp-têm”.
Đó không phải là một cấu trúc cơ bản tồi. Nó dễ hiểu hơn nhiều so với Tin Lành được gói ghém trong cuốn “Ba điểm” mà nhiều người cung cấp; hoặc cuốn “Bốn định luật thuộc linh”; hay là cuốn “Năm điều Đức Chúa Trời muốn bạn biết”. Chúng ta thật đã rao bán Tin Lành bằng cách đơn giản hoá nó quá đáng! Các Cơ đốc nhân ban đầu đã thực sự tự mình nghiên cứu và suy nghĩ ra cách họ sẽ rao truyền “đạo” nầy. Họ không hề đổi Tin Lành thành ra một hệ thống, cũng không làm cho nó trở thành nông cạn và đơn giản đi. Họ biết rằng Tin Lành giống như một cái biển: một đứa trẻ chỉ có thể lội ở trong chỗ cạn của nó, nhưng một con hươu cao cổ thì có thể ra ngoài chỗ sâu của nó cách xa đó. Làm thế nào nó có thể khác đi được với Đức Chúa Trời? Do đó, chúng ta thấy những người giảng đạo ban đầu gặp nhiều khó khăn. Không thể có bài giảng ngắn và sự thách thức trong năm phút đối với họ! Phao-lô đã có thể biện luận suốt ngày với những lãnh tụ Do-thái (Cong Cv 28:23). Ông có thể nói cho tới khi Ơ-tích ngủ gục và từ nơi cửa sổ rơi xuống – rồi, sau một thời gian bị ngắt quãng, buổi nói chuyện lại tiếp tục cho đến lúc hừng sáng (Cong Cv 20:7-11). Ông có thể thuê phòng hội của trường Ti-ra-nu suốt những giờ nóng bỏng giữa trưa và làm đông nghẹt căn phòng ấy với những người sốt sắng tìm hiểu (Cong Cv 19:9).
John Stott đã lưu ý đến sự khác nhau của những từ ngữ được dùng để mô tả các nhà truyền giáo ban đầu trong việc truyền “đạo”. Họ nắm chặt đạo đó trong sự sốt sắng. “Làm chứng” là chữ rất thường xuyên, “biện luận” cũng như vậy; “bám sát sự bàn thảo”; “tranh luận”; “so sánh bản văn Kinh Thánh”; “rao truyền Tin Lành”; “loan báo”; “dạy dỗ”. Họ chìm ngập trong đạo mà họ rao giảng. Chúng ta cũng phải làm như vậy. Không phải những Hội Thánh đã bỏ qua sự nhấn mạnh của Kinh Thánh và quan điểm của Kinh Thánh là những Hội Thánh đang lớn mạnh ngày nay. Chính là những Hội Thánh và những tổ chức bên cạnh Hội Thánh, mà đối với họ Kinh Thánh thật là Lời của Đức Chúa Trời, mới tăng trưởng với tốc độ thật nhanh chóng. Đây là một thời đại của sự tương đối, của sự hào nhoáng bề ngoài, nhưng người ta đang đói khát ở trong lòng về lẽ thật của Đức Chúa Trời, và khi họ được phơi bày cùng “đạo” của Tân ước thì họ sẽ thấy, như J.B. Philips đã khám phá khi ông phiên dịch Kinh Thánh một cách tươi mới, rằng những tài liệu nầy mang trong đó âm vang của lẽ thật.
Họ nói đến một nhu cầu
Không có gì cứng ngắt hay kém tưởng tượng về cách tiếp cận của họ. Họ bắt đầu khám phá vị trí thuộc linh của những người mà họ nói chuyện, và một khi họ đã đánh giá được nhu cầu của những người đó thì họ liên hệ Chúa Jesus đến nhu cầu đó. Họ là những nhịp cầu, cũng như chúng ta phải là những nhịp cầu: gắn vào Kinh Thánh và gắn vào những hoàn cảnh đương thời và những nhu cầu của cá nhân riêng rẽ hoặc những nhóm người mà họ đang giao tiếp. Sách Công-vụ ghi lại một sự linh động lạ kì về cách tiếp cận. Hãy xem cách Phi-líp tiếp xúc với hoạn quan Ê-thi-ô-bi, một người đang tìm biết ý nghĩa, đang đọc sách tiên tri Ê-sai để tìm kiếm một ý nghĩa nào đó (Cong Cv 8:30 trở đi). Hãy xem cách Phao-lô tiếp xúc với một con người rất tân tiến, quan trấn thủ Sê-giút Phao-lút, người mà chỉ quan tâm đến những gì thực sự đã xảy ra (Cong Cv 13:7 trở đi). Ở tại An-ti-ốt xứ Bi-si-đi, Phao-lô đã trực tiếp nói đến nhu cầu được cảm thấy của những công dân ở đó: họ biết luật pháp của Đức Chúa Trời và họ có một lương tâm xấu vì họ không giữ được luật pháp ấy (Cong Cv 13:39). Khi ông đến A-thên, ông thấy họ rất viễn vông, luôn luôn diễn các tiểu thuyết mới nhất, Phao-lô đi thẳng vào sự cạn cợt nầy bằng cách đem họ đến đối mặt với sự phán xét của Đức Chúa Trời (điều đó dường như không hợp thời) và với sự phục sinh của Chúa Jesus trong lịch sử, với của cầm về thực tại của sự phán xét trong tương lai đó.
Hoặc chúng ta hãy nhìn vào cách mà Ê-tiên xử sự đối với những người đi nhà thờ đều đặn ở trong Do-thái giáo chính thức. Qua bài giảng thuyết của mình, ông trình bày cho họ cách nào suốt cả lịch sử của họ Đức Chúa Trời đã cảm động họ và cho họ biết rằng bởi sự từ chối quay trở về cùng Đấng Christ, tức là cực đỉnh của sự mặc khải của Đức Chúa Trời, họ đang thực sự chống nghịch Đức Thánh Linh.
Đôi khi, họ là những con người cơ hội một cách không xấu hổ. Tôi nghĩ đến người cai ngục ở thành Phi-líp, bị kinh hãi, bị bối rối, không biết cách nào để thoát khỏi tình huống nầy để cứu mạng mình và giữ được công việc làm của mình. Một cách khôi hài, Phao- lô đã dùng cụm từ “được cứu” theo một ý nghĩa hoàn toàn khác, và ông dẫn con người nầy đến chỗ an ninh hơn là người ấy mơ tưởng.
Hoặc hãy nghĩ đến cách tiếp cận khá rộng hơn mà các Cơ đốc nhân ban đầu đã có với chủ nghĩa đa thần và chủ nghĩa vô thần ở chung quanh họ. (Ngẫu nhiên, cả chủ nghĩa đa thần lẫn chủ nghĩa vô thần đều giống nhau ở trọng tâm). Họ đã không bàn về Đấng Christ và tội lỗi, đã làm cái điều tưởng chừng vô nghĩa. Họ thường có ba cách tiếp cận, được thấy trong lời tường thuật về thành Lít-trơ (chương 14), thành A-thên (chương 17), và trong thư Rô-ma (chương 1), và ở trong các lời thân oan Cơ đốc mãi cho đến thế kỷ thứ tư. Thực ra, các cách tiếp cận đó vẫn còn có hiệu lực.
Họ đã nói cùng tâm trí của những người đa thần, đã biện luận về sự thực hữu của Đức Chúa Trời, Đấng Sáng tạo cả thế giới và nhân loại. Ngài chu cấp, Ngài quan phòng. Trong quá khứ, kẻ vô tín có thể không hiểu được; nhưng giờ đây, Đức Chúa Trời đã toả ra nhiều ánh sáng thông qua Chúa Jesus Christ. Chắc chắn họ đã viện dẫn bằng cớ về Chúa Jesus là ai: sự dạy dỗ vô song của Ngài, các phép lạ Ngài đã làm, phẩm chất cuộc đời của Ngài, các lời tiên tri chỉ về Ngài, sự chết hi sinh của Ngài, sự phục sinh oai quyền của Ngài, quyền năng hữu hình và sự hiện diện của Thánh Linh Ngài.
Họ cũng nói cùng lòng của những người đa thần. Họ cười nhạo các kho khí giới và các chiến trận của các vị thần mà Homer và các thi sĩ đã bày ra. Sự khinh thị là một vũ khí mạnh mẽ, đặc biệt khi lòng của người kia ủng hộ sự chế giễu của bạn về các thần tượng mà người ấy đặt ở hàng đầu trong đời sống mình một cách khá hối tiếc.
Lương tâm cũng là mục tiêu tấn công của họ. Họ bắt đầu công kích sự vô luân, và tỏ bày niềm tin sai lạc dẫn đến hành vi sai trái như thế nào. Họ nhấn mạnh về sự khai trình của con người đối với Đức Chúa Trời mà họ đã từ chối. Họ làm sáng tỏ sự cần thiết của việc lựa chọn. Trong tất cả các cách thức nầy, chúng ta thấy những Cơ đốc nhân ban đầu khám phá ra những nhu cầu của những người mà họ đã tìm cách tiếp cận, và chỉ sau đó họ mới thuật về Chúa Jesus cho những người đó.
Trong thế giới ngày nay, kẻ khao khát tự do, kẻ sống vô mục đích, kẻ tìm kiếm chân lý, kẻ trống rỗng của chủ nghĩa hiện sinh, kẻ theo chủ nghĩa thực dụng của khoa học, mỗi loại người đều đòi hỏi một cách tiếp cận khác nhau. Chúng ta có nhiệm vụ chèo con thuyền của chúng ta xung quanh hòn đảo của cuộc sống người ta cho đến khi chúng ta khám phá được nơi cập bến. Tôi thấy rằng với một nhà khoa học đã quen với phương pháp thực nghiệm, điều khôn ngoan nhất là đừng biện luận với họ về những sự bàn cãi qua lại của việc tin nơi Đức Chúa Trời, nhưng phải cho họ đối diện với thực chứng. Đó là điều họ đã quen trong nghề nghiệp của họ. Như vậy tạo cho họ một nhiệm vụ phải làm: ví dụ như giải thích thế nào về tâm tính của Chúa Jesus nếu như Ngài không phải là Đấng như Ngài tự xưng. Hoặc là yêu cầu họ đưa ra một sự thay thế cho sự phục sinh mà nó có thể đối đầu với một sự thẩm tra kỹ càng. Phần nhiều các nhà khoa học đến với Chúa thông qua việc xem xét các bằng chứng một cách kỹ càng, cân nhắc nó và rồi mới cố công tìm hiểu giả thuyết Cơ đốc về sức mạnh của nó – chỉ để thấy rằng nó là đúng! Đó chính xác là cách họ đã làm trong sự nghiên cứu của họ ở các học viện.
Nhưng đó không phải là cách chúng ta dùng cho một goá phụ đang bị tan nát cõi lòng, đang buồn rầu về cái chết của chồng mình. Bà cũng cần khám phá ra rằng Chúa Jesus là sự sống lại và là sự sống, nhưng bà sẽ làm điều đó bằng sự cảm nhận lòng từ bi của Đấng Christ thông qua bạn và thấy được điều đó qua chuyện tích sự sống lại của La-xa-rơ hơn là bị đẩy đến đó bằng việc khảo cứu bằng chứng.
Tôi nghĩ đến một người theo thuyết hiện sinh, người mà các sinh viên trong địa phương cho là khó tiếp nhận Tin Lành. Ông đã đến với Đấng Christ với niềm vui mừng và lòng biết ơn một khi ông thấy chính mình được cảm thông. Không cần phải nói với ông về tình trạng khốn nạn và nhu cầu của con người (mà các sinh viên Cơ đốc đã làm một cách chuyên cần). Ông ta đã biết rất rõ về điều đó. Ông cần được hiểu rằng đức tin không phải là một sự nhảy xổ vào trong bóng tối nhưng là một bước nhảy vào trong ánh sáng; ông cần biết rằng sự cởi mở đối với kinh nghiệm tối hậu không có nghĩa là sự tự huỷ hoại mình nhưng là sự bước vào một chiều kích mới của bản thể, ông rất cần phải vào trong mối liên hệ Tôi và Ngài với Chúa Jesus. Ông ta đã làm điều đó và ông đã trở nên một con người Cơ đốc tốt. Do đó, cũng như các Cơ đốc nhân ban đầu, chúng ta phải khám phá nhu cầu ở nơi người mà chúng ta đang nói chuyện và liên hệ Tin Lành, mà Tin Lành đó là một điều muôn màu muôn vẻ, với nhu cầu đang có của người ấy.
Họ nói đến một nhân vật
Không một triết lý sống nào, không một hệ thống đạo đức nào lôi cuốn sự chú ý của họ, nhưng họ chú tâm vào nhân vật Jesus hằng sống yêu thương. Họ cao rao về Ngài. Bất cứ bạn nhìn vào chỗ nào trong sự rao giảng Tin Lành ở buổi ban đầu, bạn không thể không kinh ngạc về sự tập trung của họ vào nhân vật Jesus. Jesus – Đấng có thể làm an tĩnh những lương tâm ray rứt (Cong Cv 13:39), Đấng có thể làm đầy đủ một cuộc sống trống rỗng (Cong Cv 2:38), chữa lành cho người bại (Cong Cv 3:6), đuổi tà mà ra khỏi cô gái bị nó ám (Cong Cv 16:18), hoặc giải cứu những thuỷ thủ trong cơn bão tố (Cong Cv 27:21 trở đi). Martin Luther có lần đã nói rằng “Như chúng ta đến chiếc nôi chỉ để mà tìm thấy hài nhi, thì cũng vậy, chúng ta đến với Thánh Kinh chỉ để tìm thấy Đấng Christ”. Chính nhân vật Jesus đã thu hút quần chúng; do đó, chúng ta phải giữ cho điểm chiếu sáng luôn ở nơi Ngài. Dù cho sự trình bày của bạn có uyển chuyển thế nào thì Đấng Christ phải là trung tâm, nếu bạn muốn noi gương những nhà truyền giáo ban sơ. Không thể bỏ sót một số khía cạnh của những điều mà họ xem là quan trọng về Chúa Jesus.
Họ nói về Chúa Jesus như là sự ứng nghiệm. (Cong Cv 2:16 trở đi và trọn cả chương 7). Chúa Jesus không phải chỉ là một nhân vật ngẫu sinh mà qua Ngài Đức Chúa Trời lập nguyên chỉ sự cứu rỗi một cách độc đoán: cả Kinh Thánh Cựu ước và toàn thể lịch sử của sự cứu rỗi trải mấy ngàn năm đều chỉ đến Ngài. Lý tưởng không còn nằm xa con người nữa. Người lý tưởng đã đến, tên Ngài là Jesus. Người ta thường nghĩ đến Cơ đốc giáo như là sự nhìn lui lại, trong một thời đại mà mọi người khác đang nhìn đến tương lai. Chính là lỗi của chúng ta mà người ta đã có cái ấn tượng ấy. Chúa Jesus đến không quá lâu ở trong quá khứ như là ở điểm giữa của thời gian, lúc kỳ hạn được trọn, trong sự giam hãm của đời người Ngài đã đưa ra lời giải đáp cho sự tìm kiếm điều tốt nhất của con người. Tôi còn nhớ một giảng viên đại học nọ đã có lần đến với tôi vào cuối một buổi truyền giảng và nói rằng: “Cảm ơn ông, tôi dạy Anh ngữ trong trường đại học nầy. Ông đã cho tôi biết thế nào Chúa Jesus Christ là Đấng làm đầy đủ sự tìm kiếm của người hiện sinh”. Tôi nghĩ đến một người đàn bà Do-thái mà tôi đã tiếp chuyện thông qua những lời tiên tri chính yếu ở trong Cựu ước: bà đã thấy được những lời Kinh Thánh đó là thích hợp với Đấng Christ như thế nào theo một cách mà chúng không thích hợp được với người nào khác, và bà đã đặt lòng tin cậy nơi Đấng Mê-si của dân Y-sơ-ra-ên – và hiện nay bà là một giáo sĩ ở hải ngoại.
Họ nói đến Chúa Jesus là con người. Jesus ở Na-xa-rét là “người mà Đức Chúa Trời đã dùng làm việc quyền phép, sự lạ và dấu lạ ở giữa các ngươi” (Cong Cv 2:22). Tôi tự hỏi liệu chúng ta có xem sự nhấn mạnh nầy về nhân tính của Chúa Jesus như là một sự trình bày kém quan trọng không? Có thể, như trong Cong Cv 17:31, chúng ta sẽ chú trọng về “tính kia” của Ngài, tức là sự hiệp một với Đức Chúa Cha chăng? Tuy nhiên, giống như các Cơ đốc nhân ban đầu, chúng ta phải giữ quân bình trong sự rao giảng của chúng ta về Chúa Jesus. Trong quá khứ, Hội Thánh đã tạo cái ấn tượng rằng Chúa Jesus hoàn toàn là Đức Chúa Trời đến nỗi hiếm khi Ngài là một người giữa vòng chúng ta. Như một số nhà thần học tân thời đang nhắc nhở chúng ta, điều đó là sự thờ hình tượng và là sự phạm thượng. Nó dẫn đến một sự thờ phượng Chúa Jesus mà dành rất ít chỗ cho sự thờ phượng Đức Chúa Cha cũng như Đức Thánh Linh. Nó cũng giải trình cho khuynh hướng được ưa chuộng, nhất là ở trong các quốc gia theo Công giáo vì những mục đích thực tiễn, đã xem Chúa Jesus là quá xa để chúng ta đạt đến, đến nỗi bạn cần sự giúp đỡ của Thánh Christophere hay là của Nữ Đồng Trinh Đầy Ơn Phước để Ngài có thể nghe thấy!
Mặt khác, nếu chúng ta chỉ xem Chúa Jesus là một “người vì người khác” và không hơn, thì do đó sẽ không có sự cứu rỗi, Ngài không phải là con đường nối liền từ chúng ta đến Đức Chúa Trời. Chúng ta bị đẩy vào sự nghịch lý bất cứ khi nào chúng ta không xem xét thân vị của Chúa Jesus một cách kỹ càng. Ngài vừa mang nhân tính vừa mang thần tính. Ngài là nhịp cầu được neo vững chắc bên bờ phía chúng ta và cũng đạt đến một cách vững chắc như vậy ở phía Đức Chúa Trời. Bằng cách nầy chỉ một mình Ngài có thể đem những người đang có nhu cần như chúng ta vào trong một mối liên hệ đúng đắn với Đức Chúa Trời. Một nhịp cầu mà nó không đạt đến ở cả hai bên bờ thì chẳng phải là một nhịp cầu nhưng chỉ là một sự rồ dại. Các nhà truyền giảng Tin Lành ban sơ đã giữ sự quân bình đó một cách tự nhiên. Hãy thử đọc một sách Tin Lành thật sự thuộc về trái đất nầy như sách Tin Lành Mác mà nó bắt đầu như sau: “Đầu Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ, là Con Đức Chúa Trời”, rồi sau đó nó tiếp tục trình bày một cách vững chắc Chúa Jesus là một người trong vòng chúng ta như thế nào! Hoặc là hãy thử xem Phi-e-rơ bổ túc câu Kinh Thánh Cong Cv 2:22 (người mà Đức Chúa Trời dùng… ở giữa các ngươi) như thế nào bằng khúc Kinh Thánh Cong Cv 2:33 trở đi. Là người tin nơi Ba Ngôi, ông nêu ra sự phục sinh của Chúa Jesus và tiếp tục nói: “và từ nơi Cha đã nhận lấy Đức Thánh Linh, mà Cha đã hứa ban cho, thì Ngài đổ Đức Thánh Linh ra, như các ngươi đương thấy và nghe”. – Và rồi người bạn cũ của chúng ta lại đến, Thi Tv 110:1, để nhấn mạnh rằng “người được Đức Chúa Trời dùng” nầy không ai khác hơn là Chúa, Đấng dự phần ngôi nước của Đức Chúa Trời toàn năng. Sự quân bình thật tuyệt diệu.
Họ nói về Chúa Jesus bị đóng đinh. Không giống như một số Cơ đốc nhân, họ dường như không nhấn mạnh đến giáo lý đặc biệt nào của sự chuộc tội, theo bất kỳ mức độ phổ quát nào. Nhưng họ đã làm sáng tỏ rằng thính giả của họ có liên luỵ đến lỗi của nhân loại trong việc đóng đinh Chúa Jesus vào thập tự giá: chính vì lỗi của họ mà Ngài bị treo lên đó. Còn gì nữa, họ nói đến Chúa Jesus đã bị đóng đinh và đã sống lại nầy ban cho người ta sự tha thứ (Cong Cv 2:38). Đôi khi, họ nghĩ đến Ngài như là chiên con của lễ Vượt qua (Cong Cv 2:28), đôi khi như là Tôi Tớ Chịu Khổ (Cong Cv 8:35), và đôi khi như là một người bị treo trên cây gỗ của PhuDnl 21:22, chỗ bị rủa sả (ý nghĩa của Cong Cv 5:30). Chữ hiếm thấy nầy, chữ xylon, có nghĩa là “cây gỗ” và được dùng để chỉ về thập tự giá chỉ ở trong vài khúc Kinh Thánh Tân ước mà nó ám chỉ đến PhuDnl 21:22. Phao- lô đã làm ý nghĩa nầy trở nên rõ ràng ở trong GaGl 3:10,13. Ông đang đấu tranh để hiểu được như thế nào Đấng Mê-si vĩ đại của Đức Chúa Trời có thể kết thúc cuộc đời không những ở trong nơi bất lực nhưng còn là nơi rủa sả nữa; nhưng sự rủa sả Ngài mang là không phải vì việc làm sai trái nào của chính Ngài bèn là vì chúng ta. Chúng ta là những kẻ không giữ được luật pháp của Đức Chúa Trời, và do đó đáng lãnh sự hình phạt (GaGl 3:10). Bằng nhiều cách khác nhau, giống như vậy, những Cơ đốc nhân ban đầu đã cố gắng giúp người ta thấy được điều Chúa Jesus đã làm cho họ ở trên đồi Gô-gô-tha. Họ hiểu rõ rằng cây thập tự chẳng cứu được ai cả. Chính Jesus là Đấng đã cứu, nhưng là một Jesus đã bước đến thập tự giá thay cho tội nhân. Chúng ta cũng có thể bắt chước sự uyển chuyển của họ một cách có ích lợi, hướng vào Đấng Christ và dành riêng cho Ngài.
Họ nói về Chúa Jesus phục sinh. Chúa, Đấng bẻ gãy gông cùm của phần mộ là một Đấng mà tất cả họ đều biết: “Chúng ta thảy đều làm chứng về sự đó” (Cong Cv 2:32). Sự thừa nhận đầy tin tưởng nầy cả về sự sống lại của Đấng Christ lẫn về mối liên hệ cá nhân với Ngài xuyên suốt cả sách Công-vụ. Nó xuất hiện trong mọi bài giảng Tin Lành được ký thuật ở đó. Nó là một chủ đề chính. Tôi tự hỏi những người đương thời của chúng ta có nói về chúng ta y như vậy không? Chúng ta có được người ta biết đến như là những người luôn luôn bày tỏ rằng Chúa Jesus không chết luôn nhưng đang sống và chúng ta biết Ngài hay là không? Những Hội Thánh nào đang tăng trưởng ngày nay là những Hội Thánh giống như vậy.
Tôi còn nhớ một vài năm trước tôi được thấy những dòng chữ viết trên khắp các vách tường của trường Oxford, chữ “Ché lives” (Ché sống mãi). Dĩ nhiên là ông không còn sống. Che Guevara, người lãnh đạo biết quên mình, đã chết, dẫu vậy, môn quan niệm luận của ông vẫn còn mãi. Huyền thoại về Đấng Mê-si sẽ mong manh ở điểm quan trọng nhất của nó nếu nó cũng xảy ra như vậy. Người chết đi và đã không sống lại. Nhưng ngày nay, hàng ngàn người đang quay trở về với Đấng Christ ở lại Bolivia, nơi mà ông Ché thường hoạt động. Và trên những vách tường của trường Oxford, tôi thấy một dòng chữ khác: “Jesus sống.”
Họ nói về Chúa Jesus đang cai trị. Ngài là hiện thân của tình yêu bị đóng đinh, hiện nay Ngài dự phần ngôi nước của Đức Chúa Trời (Cong Cv 2:23). Chính vũ trụ được ngự trị bởi một tình yêu thương chúng ta đã khước từ, nhưng tình yêu thương đó không để cho chúng ta đi. Tình yêu là nguyên lý mà người ta khâm phục nhiều nhất – ở nơi người mẹ hi sinh vì con cái mình, hoặc ở nơi người thuyền trưởng hi sinh cho con tàu của mình. Đó là cái nguyên lý mà Đức Chúa Trời đánh giá cao nhất. Tôi nghĩ rằng thật quan trọng cho chúng ta trong sự truyền bá Tin Lành để giúp người ta tránh đi hình ảnh thời thơ ấu của “Chúa Jesus hiền lành, nhu mì” của họ, và nhận định rằng ở nơi Ngài họ đang đối đầu với chính cái yếu tính của vũ trụ, một Đức Chúa Trời luôn luôn ban phát, bất kỳ chúng ta đáp ứng – hay là không đáp ứng. Chính với Ngài, Đấng ngồi trên ngôi cao sang, mà chúng ta được truyền phải bày tỏ lòng trung thành của chúng ta. Điều lâu bền duy nhất ở trong vũ trụ nầy là tình yêu thương tự bỏ mình nầy. Trừ phi chúng ta được tình yêu đó đụng đến và bắt đầu bày tỏ nó ra, bằng không thì chúng ta sẽ đi đến chỗ hỗn loạn.
Sau hết, họ nói về một Jesus đương thời. Ngài không phải chỉ là một nhân vật trong quá khứ xa xăm nhưng là người sống đương thời của chúng ta. Đó là cách họ hiểu biết Đức Thánh Linh (Cong Cv 2:33). Thánh Linh là sự hiện diện của Chúa Jesus cho ngày nay, được thoát ly khỏi những giới hạn của một thể xác. Các Cơ đốc nhân ban đầu dường như đã nhận biết từ buổi đầu rằng kinh nghiệm của họ về Đức Thánh Linh là một sự tiếp nối kinh nghiệm của họ về Chúa Jesus. Đức Thánh Linh là phương tiện mà nhờ đó Thầy của họ giữ họ hợp đoàn. Ngài không còn là sự biểu lộ thích hợp tiềm ẩn qua con người của quyền năng thấy được của Đức Chúa Trời nữa (như thường thấy trong thời Cựu ước), nhưng Ngài là sự hiện diện mạnh mẽ của Đức Chúa Trời được đem đến cho chúng ta ở trong Chúa Jesus. Họ chủ trương rằng “Thánh Linh đã đến và thay đổi đời sống chúng tôi; Ngài cũng có thể làm như vậy cho bất kỳ người nào trong quí vị”. Tất cả những Cơ đốc nhân nào tìm cách rao giảng Tin Lành đều đưa ra sự nhấn mạnh nầy về thân vị và công tác của Ngôi thứ ba trong Ba Ngôi, họ ít bàn đến “phép báp têm bằng Thánh Linh” như là một kinh nghiệm khởi đầu thứ nhì và ít có sự lẫn lộn về ân tứ Thánh Linh với ơn ban của Đức Thánh Linh.
Dường như họ đã quen trình bày hình ảnh về Chúa Jesus đầy đặn như vậy. Họ đã cho chúng ta thấy cách thức.
Họ trao ban một tặng phẩm
Đây là một trong những yếu tố gây ngạc nhiên nhất ở trong sự giảng dạy ban đầu. Hầu hết các tôn giáo bảo bạn phải làm một điều gì đó. Tôn giáo nầy lại bảo về điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho, thông qua Chúa Jesus ở trên cây thập tự. Cong Cv 2:38 nói rõ điều đó. Khi thính giả của ông muốn biết họ phải làm gì theo ánh sáng của sự giảng dạy của Phi-e-rơ, thì ông bảo họ chẳng phải làm một điều gì cả nhưng hãy tiếp nhận điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho họ. Ông vẽ ra một bức tranh về Chúa đang đến gần họ với hai tặng phẩm ở trong tay Ngài. Có thể họ không bao giờ xứng đáng để nhận những tặng phẩm đó, họ chỉ có thể nhận lấy hoặc khước từ chúng.
Đức Chúa Trời ban cho họ tặng phẩm sự tha thứ: hoàn toàn được rửa sạch và được tha thứ bất kỳ họ đã làm điều chi ở trong quá khứ. Điều nầy có thể có được là nhờ những gì Chúa Jesus Christ đã hoàn thành ở trên thập tự giá. Nói cách khác, sự tha thứ chẳng liên can gì đến công đức hoặc sống một cuộc sống thiện lành, hoặc được tốt đẹp hay hữu ích. Làm thế nào những điều nầy có thể mua được ân sủng của Đức Chúa Trời? Cần phải có thập tự giá để làm cho sự đầy đủ của con người trở thành khả dĩ, và con người được tiếp nhận một cách nhưng không. Công tác đã làm trọn ở trên đồi Gô-gô-tha có ý nghĩa rằng “thông qua con người nầy, sự tha tội được rao ra cho bạn và bởi Ngài mà mọi người nào tin thì sẽ được buông tha khỏi mọi sự mà bạn không thể được buông tha bởi luật pháp Môi-se – Ân điển được ban cho chúng ta một cách nhưng không – nhưng nó đã được trả một cái giá vô biên đối với Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một tặng phẩm khác nữa, đó là Đức Thánh Linh. Trong thời xưa, Ngài được giới hạn cho những người đặc biệt, có lẽ một vua hoặc một tiên tri mới có hi vọng được đầy dẫy Thần của Đức Chúa Trời từng hồi từng lúc. Nhưng Ngài đã không thường có hiệu lực. Thực ra, trong những thế kỷ ngay trước khi Đấng Christ giáng sanh, người ta đã thôi mong đợi hay đòi hỏi sự hiện diện của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Họ kể như Ngài đã ra đi cùng với các tiên tri sau cùng. Họ đã phải tự làm thoả mãn chính mình tối đa với bat qol, “người con gái của tiếng nói”.
Nhưng Chúa Jesus là người đầy Đức Thánh Linh. Chúa Jesus là vị tiên tri cuối cùng và là vị tiên tri vĩ đại nhất trong hàng các tiên tri. Ngài không những có Thần của Đức Chúa Trời theo mọi cách mà một người có thể có, nhưng Ngài còn hứa ban phát Đức Thánh Linh cho những người theo Ngài. Điều đó đã bắt đầu xảy ra vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thánh Linh của Chúa Jesus đã giáng trên các tín đồ, làm cho Chúa Jesus trở nên thực hữu đối với họ và biến đổi họ trở nên giống như Ngài khi Ngài trang bị cho họ để phục vụ người khác và rao báo Phúc âm.
Tất cả những điều nầy là sự ban cho hoàn toàn! Tôi tự hỏi hầu hết những người ở bên ngoài Hội Thánh ngày nay có nhìn thấy Cơ đốc giáo là một tặng phẩm không? Há chẳng phải họ có hình ảnh về Hội Thánh luôn luôn kêu gọi dâng tiền để sửa chữa mái nhà đang dột hay là làm điều nầy, điều kia đó sao? Há chẳng phải họ nhìn thấy Cơ đốc giáo như là một mối đe doạ cho niềm vui của họ hơn là sự làm đầy đủ bản thể của họ đó sao? Chẳng phải họ xem nó như là một nỗ lực chán chường để sống tốt đẹp thay vì là một kinh nghiệm sinh động về tình yêu và quyền năng của Chúa Jesus toả ra trong đời sống họ đó sao? Họ có ý niệm gì về việc Đức Chúa Trời xưng công nghĩa cho kẻ bất kính, kẻ không xứng đáng hay không? Họ có nhận định được rằng đó không phải là vấn đề về bổn phận khắc nghiệt nhưng là về sự ban cho rộng lượng không? Tôi nghi ngờ điều đó. Và tới mức độ mà người không nhìn thấy được điều nầy (dù cho họ có đáp ứng nó hay không), chúng ta, những môn đồ của Đấng Christ, đã là những chứng nhân giả cho Tin Lành.
Họ mong chờ một sự đáp ứng
Cũng như Thầy của họ trước họ, Ngài đã thay đổi toàn bộ hướng đi của cuộc sống người ta khi Ngài nhìn thẳng vào mắt họ và phán rằng “Hãy theo ta”, những nhà truyền giáo ban đầu không bao giờ mệt mỏi thách thức các thính giả của mình tiếp nhận lấy tặng phẩm được ban cho họ, và sốt sắng bắt đầu sống cuộc đời đi theo Chúa Jesus.
Họ phô bày điều đó bằng nhiều cách khác nhau. Đôi khi nhắm vào sự ăn năn, đôi khi nhắm vào lòng tin, đôi khi nhắm vào việc chịu phép báp-têm (Cong Cv 2:38 trở đi; Cong Cv 16:31). Cả ba cách được liên kết lại. Cả ba cách đều cần thiết. Họ thấy rằng người ta không thể đến nhận lãnh tặng phẩm của Đức Chúa Trời với đôi tay nhơ bẩn. Họ cần phải trút bỏ lớp bùn đất mà họ đang nghịch đùa và đến với đôi tay trống đã được rửa sạch để tiếp nhận. Sự ăn năn chủ yếu không phải là một sự luyện tập về sự hối hận về những điều ở trong quá khứ. Nó là một thái độ quay trở về cùng Đức Chúa Trời: một sự đổi ý, gây ra một sự đổi hướng. Chính về “sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời” cũng như “đức tin trong Đức Chúa Jesus Christ là Chúa chúng ta” mà Phao-lô thúc giục các thính giả của mình (Cong Cv 20:21). Sự thất bại căn bản của con người không phải là ở nơi những lỗi lầm nhỏ của chúng ta, bèn là ở nơi mối liên hệ của chúng ta đối với Đức Chúa Trời, bị gián đoạn nhiều năm qua, thậm chí hàng chục năm qua, phản loạn và làm ngơ đối với Đức Chúa Trời. Sự ăn năn là sự sẵn lòng sửa lại mối liên hệ nầy cho đúng, quyết định cất bỏ bất kỳ trở ngại nào ở phía chúng ta để sửa chữa nó lại.
Đức tin có hai phương diện, một phương diện thuộc nhận thức và một phương diện thuộc ý chí. Nó can dự đến một số hiểu biết nào đó, nhưng không cần phải nhiều lắm. Tin rằng, ở trong Chúa Jesus Christ, Đức Chúa Trời đã làm tất cả mọi sự cần thiết để khôi phục lại mối liên hệ đã bị đổ vỡ, tôi cho rằng đó là nội dung tối thiểu về tri thức ở trong đức tin. Như chúng ta đã thấy, “Jesus là Chúa” dường như đã là lời xưng nhận ban đầu để chịu phép báp-têm. Nó tập trung vào nhân vật Jesus của lịch sử, mà ý nghĩa của từ ngữ ấy là “Đức Giê-hô-va cứu rỗi”. Như vậy, trong sự xưng nhận đó người sắp chịu lễ đang thừa nhận rằng thông qua Chúa Jesus, Đức Chúa Trời đang trở thành Cứu Chúa của họ. Còn chữ Chúa đưa chúng ta trở lại với Thi Tv 110:1, ở đó Chúa Jesus được nhìn thấy làm trọn vai trò “Chúa”, Đấng ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Jesus là Cứu Chúa, là Đấng Thành Nghiệm và là Chúa. Cái khung tri thức đó cần được mở rộng suốt những năm tháng làm môn đồ của người Cơ đốc, nhưng nó đều bắt đầu ở nơi hai chữ nầy.
Phương diện kia của đức tin liên quan đến ý chí và đây là phương diện quan trọng nhất. Khi một bữa ăn được dọn ra trước mặt tôi, tôi hành động theo đức tin. Tôi có một chút ý niệm (mơ hồ) về các gia vị; đó là phương diện của sự nhận thức. Nhưng tôi biết rất rõ ràng trừ phi sự cảm nhận của tri thức dẫn đến hành động, và một hành động rất đặc biệt về sự nhận thức đó, bằng không thì tôi sẽ không bao giờ được thoả mãn bởi đĩa thức ăn đó. Tôi phải tiếp nhận nó. Tôi phải ăn nó vào trong cơ thể tôi. Đó là một hành động của đức tin. Trước khi ăn, tôi không thể biết chắc rằng thức ăn ấy có làm tôi bị ngộ độc không. Một đức tin như vậy là có nền tảng, là bình thường, nhất là khi tôi biết ai đã cung cấp cho tôi bữa ăn ấy! Trong trường hợp buổi đầu của người Cơ đốc, chúng ta có thể quả quyết rằng Đức Chúa Cha sẽ không đầu độc chúng ta. “Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” (RoRm 8:32). Vậy thì, thật khôn ngoan biết bao để “nếm thử xem Đức Giê-hô-va tốt lành dường bao. Phước cho người nào nương náu mình nơi Ngài.” (Thi Tv 34:8).
Phép báp-têm là sự biểu lộ thuộc thể ở phía chúng ta (RoRm 6:1 trở đi) về sự ăn năn và đức tin ấy. Nhưng nó cũng là phép bí tích ở phía Đức Chúa Trời trong toàn cả sự thực hiện nầy. Không những nó tạo ra cho chúng ta, như là một ý muốn, tất cả những điều Đấng Christ đã làm cho chúng ta trên cây thập tự (không có sự cộng tác hay thậm chí sự chấp nhận của chúng ta); nó biểu trưng và làm cho Thánh Linh của Đức Chúa Trời tuôn đổ trên chúng ta. Giăng làm phép báp-têm bằng nước, nhưng Chúa Jesus làm phép báp-têm bằng Đức Thánh Linh, không thể làm một Cơ đốc nhân mà không có Đức Thánh Linh ấy ở trong đời sống của bạn. “Nếu ai không có Thánh Linh của Đức Chúa Trời thì người ấy không phải là một Cơ đốc nhân”. RoRm 8:9 đã nói như vậy. Ở đây tôi không muốn bước vào mối liên quan đã gây phiền phức giữa phép báp-têm bằng nước và phép báp-têm bằng Thánh Linh. Tôi đã nói rõ điều đó rất nhiều trong cuốn I Belive In The Holy Sprit (Tôi Tin Thánh Linh), chương 8 . Cả hai được định thuộc về nhau như mặt ngoài và mặt trong của cùng một vật. Trong thực hành, chúng có thể và thực sự xảy ra ở những thời điểm khác nhau và theo thứ tự khác nhau. Một điểm cần bàn đến ở đây đó là chúng ta cần đáp ứng lòng rộng rãi của Đức Chúa Trời bằng cách nghênh tiếp Thánh Linh Ngài vào trong đời sống chúng ta và chịu phép báp-têm một cách công khai bước vào trong sự trung thành đối với Ngài. Phải có hai người mới tạo được một sự liên quan. Đức Chúa Trời đến gần chúng ta với đôi cánh tay giang rộng trong yêu thương, ban cho chúng ta sự tha thứ về những việc đã qua, và Thánh Linh Ngài như là một người canh giữ cho hiện tại và là của cầm cho tương lai. Chúng ta phải quyết định để thưa “vâng” đối với sự ban cho và sự thách thức của Ngài hay là không. Đó là lý do tại sao sự đòi hỏi về một sự đáp ứng là phần thiết yếu của sự rao giảng Tin Lành.
Dĩ nhiên, đó là một lãnh vực mà hầu hết chúng ta tránh né. Chúng ta ghét thách thức người ta. Không nên làm chuyện đó. Người ta có thể phiền đấy, hãy bỏ đi. Họ có thể nói “Không” rồi khi đó chúng ta sẽ thế nào? Phải, chúng ta ghét điều đó, nhưng nó tuyệt đối cần thiết. Vì trừ phi Đấng Christ được mời vào trong đời sống, bằng không thì Ngài vẫn cứ ở bên ngoài và Ngài không thể khởi sự công tác đổi mới của Ngài được. Trừ phi nó được tiếp nhận và được ăn vào, bằng không thì thức ăn chẳng ích lợi gì cho chúng ta cả! Hành động của ý chí là cần thiết.
Chúa Jesus cho chúng ta biết rằng Ngài muốn khiến chúng ta trở nên tay đánh lưới người. Câu cá đã trở thành sở thích của tôi. Tôi biết điều đó khi tôi trở về nhà vào buổi chiều nọ sau một chuyến đi tìm cá hương. Tôi sẽ không gây được ấn tượng gì cho gia đình khi các con tôi hỏi tôi “Ba ơi, ba câu được bao nhiêu con?”. Tôi đã phải trả lời một cách hối tiếc: “Chẳng được con nào cả, nhưng ba đã nhử chúng được chút ít”. Chúng ta được kêu gọi không phải chỉ để gây ảnh hưởng cho người ta nhưng là để nắm bắt được họ. Chúng ta không thể né tránh vai trò thúc giục họ một cách hiền hoà để họ đích thân đòi hỏi những gì Đấng Christ đã làm cho họ.
Nhiều người đã thấy cách dùng ý bóng của KhKh 3:20 và GiGa 1:12 rất có ích để dẫn dắt người ta đến sự quyết định. Ý niệm về sự nghênh tiếp Cứu Chúa vào trong lòng và trong đời sống thật dễ hiểu và chính xác về phương diện thần học. Chính cách phô diễn nầy mà nó đã cảm động tôi. Một số người khác thấy sự tương tự của việc “đến cùng Chúa Jesus” là gợi cảm nhất: điều đó cũng có nhiều trong Kinh Thánh (Mat Mt 11:28 GiGa 6:37). Đối với một số người khác, ý niệm quan trọng của Phao-lô về việc “ở trong Đấng Christ”, gây cảm xúc nhất. Tôi vốn không “ở trong Đấng Christ”, nhưng tôi có thể được tháp vào, cũng như một nhánh cây được tháp vào thân cây. Chỉ khi đó tôi mới bắt đầu khám phá rằng “nếu ai ở trong Đấng Christ thì nấy là người được dựng nên mới” (IICo 2Cr 5:17). Có nhiều ẩn dụ khác nữa mà các trước giả Tân ước đã sử dụng để làm sáng tỏ cho kinh nghiệm nầy. Việc tiếp nhận sự miễn tố của Đức Chúa Trời là một điều mà Phao-lô ưa thích; được nhận làm con nuôi vào trong gia đình của Đức Chúa Trời là một điều khác nữa trong số những điều ông ưa chuộng (RoRm 8:15 GaGl 4:4-7). Được chìm ngập trong Thánh Linh, như đất khô hạn lâu ngày thình lình bị ngập lụt, là một hình ảnh ích lợi khác (ICo1Cr 12:13). Trong tất cả các hình ảnh nầy, cùng một điểm chính được nhấn mạnh: ơn cứu rỗi Đức Chúa Trời ban cho phải được đòi hỏi và chiếm dụng một cách cá nhân. Nó chẳng ích chi cho chúng ta cho đến khi nào nó được chiếm dụng.
Ở chỗ nầy, điều cần thiết là phải rất nhạy cảm với sự tuỳ thuộc vào Đức Thánh Linh. Đôi khi người tìm hiểu cần có thời gian suy nghĩ về những điều đã được làm sáng tỏ cho họ; đôi khi họ cần được dẫn đến chỗ có sự quyết định. Chỉ có Đức Thánh Linh mới bày tỏ cho chúng ta biết nên làm điều nào. Khi không biết chắc thì khôn ngoan hơn là nên dành ưu tiên cho sự quyết định, trong khi đó nhắc nhở họ: “hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được, hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần” (EsIs 55:6). Những yếu tố đôi khi có ích để thúc đẩy sự quyết định là: thứ nhất, lòng biết ơn sâu xa đối với Đấng Christ về tất cả những điều Ngài đã làm; thứ hai, nhu cầu người khác có về Tin Lành và sự bất lực của chúng ta để tiến dẫn điều chi mình chưa đích thân nếm biết; thứ ba, sự rồ dại của việc xây lưng lại cùng sự ban cho cao quý nhất của Đức Chúa Trời.
Nhưng cũng có những yếu tố khác tạo ra sự không quyết định, chúng ta cần phải phòng bị chúng. Sự lẫn lộn là một điều; người ấy có thể bị lẫn lộn về những gì họ được đề nghị làm, nhiều người không thích thừa nhận điều đó cùng bạn sau khi bạn giải thích một cách hùng hồn, trong trường hợp đó bạn có thể bị tổn thương. Họ có thể bị lẫn lộn về toàn bộ lãnh vực tôn giáo cá nhân nầy, trước đó họ đã xem nó như là một công việc rất hình thức và mang tính đoàn thể. Có thể họ đã chưa giải quyết những vấn đề thuộc trí óc, chẳng hạn sự có thể tin được của sự phục sinh, khả năng “việc lành” đem người ta đến cùng Đức Chúa Trời, vấn đề nếu Đức Chúa Trời là thiện lành thì sao có sự khổ đau v.v…. Đây là chỗ bạn phải nghiên cứu và kiên nhẫn! Mặt khác, người ấy có thể đang có sự thờ ơ; Tại sao hôm nay lại làm điều mà bạn có thể chờ đến ngày mai? Bạn sẽ cần nhắc nhở họ rằng không điều chi có giá trị trong cuộc sống nầy được hoàn thành do kẻ thờ ơ cả, và sự thờ ơ có vẻ rất xấu nếu như chuyện tích Cơ đốc là đúng và nếu như Đức Chúa Trời yêu thương họ đủ để chịu chết ở đồi Gô-gô-tha. Thông thường nhất là dễ thấy sự sợ hãi tiềm ẩn trong sự trì hoãn của họ. Họ sợ nó không kết quả, họ sợ họ không thể giữ được sự quyết định đó, họ sợ những điều bè bạn họ sẽ nói và họ sợ tương lai. Những điều nầy có thể được đáp ứng dễ dàng nhưng cần có sự nhạy bén và sự đồng cảm. Rốt lại, sự sợ hãi là một trong những điều mạnh nhất của cảm xúc chúng ta và là một điều mà dễ có nhất. Việc sợ rằng “không có điều gì xảy ra” được giải quyết tốt nhất bởi những lời hứa của Đức Chúa Trời. Việc sợ không giữ vững điều mình đã quyết định được giải quyết tốt nhất bằng cách trình bày rằng chính Đức Chúa Trời có trách nhiệm giữ gìn chúng ta, bổn phận của chúng ta là tin cậy Ngài làm điều đó (IPhi 1Pr 1:5). Việc sợ sự chống đối đã được xác lập rồi, bằng hình thức nầy hay hình thức khác, “hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Jesus Christ thì sẽ bị bắt bớ” (IITi 2Tm 3:12) – nhưng những gì chúng ta phải đối diện vì cớ Đấng Christ thì không so sánh được với những gì Ngài đã đối diện vì cớ chúng ta, và hầu hết người ta đều nhanh chóng thấy được điều nầy. Sự lo sợ về tương lai thì không có lý do chính đáng để cho một người rút lui khỏi sự giao thác đời mình cho Đấng duy nhất biết rõ tương lai. Luận lý rõ ràng của RoRm 8:31-32 hoặc sự an ủi hoàn toàn của Mat Mt 28:20 có thể rất có ích cho trường hợp nầy.
Khi bạn đã giải quyết các nan đề như vậy một cách từ tốn thì điều khôn ngoan là hãy hỏi xem bạn hữu mình có nghĩ rằng họ đã sẵn sàng để bước đến chỗ đầu phục Đấng Christ làm Chúa của mình không. Nếu họ nói “Không” thì lúc đó bạn cần tìm xem có điều gì mà người đó chưa hiểu hoặc điều gì đó họ chưa sẵn lòng làm mà nó hoạt động như là một sự cản trở không? – từ đó tuỳ nghi tiếp tục tiến tới. Nếu họ nói “Có” thì hãy hỏi họ xem họ có muốn đến riêng với Đức Chúa Trời để thưa chuyện hoặc họ muốn cầu nguyện trong sự hiện diện và sự hỗ trợ của bạn không. Nếu họ chọn tự mình làm thì hãy khích lệ họ đến gặp mình trở lại sau khi họ đã bước đến đức tin, vì “nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jesus ra, và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu” (RoRm 10:9). Nếu họ thích ở lại với bạn, thì tôi thường thấy rất có ích để cầu nguyện cho họ lớn tiếng, đang khi chúng ta cùng quì gối với họ và rồi khuyến khích họ hãy tuôn đổ lòng họ ra cùng Chúa cũng lớn tiếng như vậy, dầu cho họ chưa quen điều đó. Việc nầy khiến cho họ vừa tỏ rõ vừa nói ra bằng lời những cảm nghĩ của mình và cũng tập quen cách cầu nguyện bằng lời lẽ riêng của họ ngay từ phút hành trình thuộc linh của họ. Tuy nhiên, lời cầu nguyện ngắn và ngập ngừng của họ khiến cho họ trở về nhà và được xưng nghĩa, giống như người thâu thuế ở trong các sách Tin Lành, vì họ đã kêu cầu và đã được Đấng Thương Xót Tối Cao đoái nghe. Người ấy sẽ cần được giúp đỡ nhiều, không phải chỉ tối thiểu từ nơi người đã giúp họ bước đến đức tin, nhưng cho cả thời gian họ đủ để họ bắt đầu nữa.
Mức độ chăm sóc của họ
Nếu bạn xem trình thuật về ngày Lễ Ngũ Tuần thì bạn không thể không bị xúc động bởi tác động mà Đức Thánh Linh đã làm ra, bởi sự biến đổi của các sứ đồ và bởi số lượng những người đã đáp ứng. Nhưng điều có ý nghĩa ngang bằng như vậy là sự chăm sóc tức thời mà các môn đồ nguyên thuỷ đã làm cho các tân tín hữu. Họ chịu báp-têm liền lúc đó rồi được tiếp tục ở trong sự dạy dỗ giáo lý của các sứ đồ và sự thông công, lễ bẻ bánh và sự cầu nguyện (Cong Cv 2:42).
Chăm sóc cũng quan trọng như việc sinh ra. Nếu không được chăm sóc, con đỏ mới sinh ở trong Đấng Christ sẽ chết đói. Nhiều sự truyền bá Tin Lành thời nay rất yếu kém trong việc chăm sóc và tiếp tục giúp đỡ những người đã tuyên xưng đức tin.
Chúng ta hãy xem xét một số yếu tố có trong chương trình chăm sóc của Hội Thánh ban đầu.
Họ làm báp-têm cho các tín đồ mới
Không thể nghi ngờ rằng trong thời ban đầu của Hội Thánh, phép báp-têm được ban ra càng sớm càng tốt ngay sau khi người ta tuyên xưng đức tin. Hoàn toàn tách biệt với ngày Lễ Ngũ Tuần, trường hợp của viên cai ngục thành Phi-líp và hoạn quan Ê-thi-ô-bi đưa ra một sự chỉ dẫn tốt cho sự thực hành ban đầu về vấn đề nầy. Sự đầu phục Đấng Christ, phép báp-têm bằng nước, và sự nhận lãnh Đức Thánh Linh là ba phương diện của cùng một sự việc, đó là sự khởi đầu của người Cơ đốc. Chẳng hạn như ở tại Ga-la-ti, chúng ta thấy rằng sự xưng nghĩa bởi đức tin hay là việc trở nên “con cái của Áp-ra- ham” xảy ra thông qua sự nhận lãnh Đức Thánh Linh, hay là sự chịu báp-têm trong Đấng Christ, hoặc là sự tin nơi Đấng Christ ((Cong Cv 3:2,14,29,26). Về mặt lý tưởng thì chúng thuộc về nhau. Tuy nhiên, trong thực hành, đôi khi một yếu tố nầy xảy ra trước, đôi khi một yếu tố khác xảy ra trước, điều đó vẫn đúng.
Chúng ta có thể lần theo vết hai cuộc phát triển ở thế kỷ thứ hai, ít ra là một cách đại cương, cho đến những ngày đầu của Hội Thánh. Trước tiên, có một khuynh hướng phát triển nhằm hoãn lại việc làm phép báp-têm, đi trước đó bởi một thời kỳ dạy dỗ, và thực hiện nó, cùng với sự dự Tiệc thánh lần đầu, vào thời gian đầy ý nghĩa của Thứ Sáu Tuần Thánh và Lễ Phục sinh. Các học giả đã thấy nhiều dấu hiệu trong chính Tân ước về một sách giáo lý cơ bản (hay phước âm yếu chỉ) dẫn đến sự chịu phép báp-têm, nhiều người nghĩ rằng thư IPhi-e-rơ được viết ra như là một bài học giáo lý để dùng cho phép báp-têm.
Có làm phép báp-têm cho trẻ thơ không?
Thứ hai là tập tục làm báp-têm cho trẻ thơ khi mới sinh ra trong một gia đình tín đồ. Đây là một vấn đề gây chia rẽ ở thời nay và ở cuối thế kỷ thứ hai khi chúng ta thấy Tertullian bàn đến nó trong cuốn Treatise on Baptism (Khảo luận về phép báp-têm) của ông. Ông đã biện hộ việc trì hoãn làm phép báp-têm chỉ khi một bậc cha mẹ là tín đồ; rõ ràng ông đã viết để chống lại một bối cảnh mà ở đó việc làm báp-têm cho trẻ thơ đã thông dụng. Làm thế nào điều nầy có thể được biện minh khi mà phép báp-têm nguyên thuỷ là cái dấu hiệu của sự tái sanh và chỉ thích hợp cho các tín đồ mà thôi?
Tôi không chắc rằng phép báp-têm có hoàn toàn xác định như vậy không. Chúng ta đọc trong Tân ước về hết thảy người nhà đều được làm phép báp-têm, và những người nhà ở thời xưa không những chỉ bao gồm trẻ em mà còn có các nô lệ nữa, tất cả họ đều được giao thác bởi hành động của người gia trưởng (ICo1Cr 1:16 Cong Cv 16:33, v.v…). Bạn thấy không, báp-têm không chỉ là hành động của con người, bày tỏ đức tin của mình; nó cũng là hành động của Đức Chúa Trời nữa, bày tỏ ra ân điển của Ngài. Ân điển nhưng không ấy của Đức Chúa Trời đã sai Chúa Jesus đến thập tự giá để chịu chết thay cho chúng ta và Ngài đã sống lại, dầu cho chúng ta có đáp ứng hay là không. Chính hành động một lần đủ cả đó của Chúa Jesus, sự hi sinh và sự đắc thắng của Ngài, mà nó đánh dấu trên chúng ta ở trong phép báp-têm. Nó phải được xứng hợp một cách lý tưởng bằng sự đáp ứng hoàn toàn và trực tiếp của chúng ta. Nhưng đôi khi điều đó xảy ra muộn – và đôi khi nó chẳng xảy ra gì cả. Dẫu cho nó không bao giờ xảy ra, thì nó cũng không thể phá huỷ công việc khởi đầu của Đức Chúa Trời, là Đấng đã phó chính Ngài cho chúng ta một lần trong lịch sử rồi, điều đó vẫn tốt lành dù chúng ta có đáp ứng hay là không – dĩ nhiên chúng ta không thể có được ích dụng của sự ban cho của Ngài trừ phi chúng ta tiếp nhận sự ban cho ấy trong sự biết ơn tôn thờ Ngài. Phần lớn Hội Thánh Cơ đốc đã tin rằng việc làm báp-têm không chỉ cho người tín đồ nhưng cho con cái của họ nữa là điều đúng. Quan niệm của phái Báp-tít xem phép báp-têm là chỉ thích hợp cho những người mà họ đã đáp ứng trong đức tin đối với công việc khởi đầu khoan nhân của Đức Chúa Trời. Cơ đốc nhân sẽ tiếp tục có những quan niệm khác nhau về vấn đề nầy, vì không có sự dạy dỗ tỏ tường của Kinh Thánh xác lập phép báp-têm theo cách nầy hay cách kia. Trong khi nuôi dưỡng tín đồ mới, bạn sẽ thấy rằng một số tân tín hữu của bạn đã được làm báp-têm rồi (thường là trong thời thơ ấu), trong khi đó một số người khác thì chưa được làm báp-têm.
Có tái làm báp-têm không?
Tôi tin rằng những người đã làm phép báp-têm rồi không cần phải làm báp-têm trở lại. Nó chẳng có ý nghĩa gì cho việc làm báp-têm lại hơn là được xưng nghĩa trở lại hoặc là vào trong gia đình Chúa trở lại. Phép báp-têm nhấn mạnh sự một lần đủ cả về sự kết hợp của chúng ta vào trong Đấng Christ, do bản chất của nó, phép báp-têm không thể được làm lại lần nữa; Tiệc thánh thì thường được lặp lại nhiều lần và nó nhấn mạnh đến phương diện đang tiến triển của đời sống Cơ đốc. Bạn sẽ chỉ lẫn lộn vấn đề nếu bạn làm báp-têm trở lại dầu cho có sự xui giục mạnh mẽ để làm như vậy. Sự xui giục đặc biệt mạnh mẽ trong các thanh niên nam nữ là người người muốn đóng ấn đức tin mình trong bí tích phó thác công khai nầy và họ xem phép báp-têm họ được làm trong thời thơ ấu là vô dụng. Dĩ nhiên nó là vô dụng, giống như một ngân phiếu chưa được chi trả, cho tới khi họ đòi hỏi nó. Giờ đây hợp chất ở bên trong tương hợp với nhãn hiệu dán ở ngoài chai, họ không cần phải thay một cái nhãn mới trở lại nữa. Nhưng họ thực sự cần có cơ hội để tuyên xưng đức tin của mình một cách công khai. Điều nầy được truyền cho họ một cách rõ ràng ở trong Kinh Thánh và một cơ hội sẽ được ban cho họ để làm điều đó trong buổi đầu cuộc đời Cơ đốc của họ (RoRm 10:9- 11). Đây là chỗ mà tập quán xác nhận là đặc biệt quan trọng đối với phái paedo báp-tít, tức là phái làm báp-têm cho trẻ em (đối với Phái Báp-tít, yếu tố tín điều được tập trung vào sự làm phép báp-têm của họ). Nó khiến cho một người đích thân tái lập và nhấn mạnh những lời hứa được khấn hứa nhân danh họ trong việc chịu phép báp-têm khi họ còn nhỏ. Nó cũng cho họ cơ hội công khai tuyên xưng đức tin mà đó là bổn phận và quyền lợi của họ. Khi họ xác nhận phần của mình trong giao ước, bàn tay của vị giám mục đặt trên đầu họ tiêu biểu cho bàn tay yêu thương của Đức Chúa Cha bảo đảm cho người ấy về sự chấp nhận và sự che chở, và Ngài uỷ thác họ cho sự phục vụ. Vào lễ xác nhận ở nhà thờ của chúng tôi tại Oxford, đại đa số đều là người lớn, không có người nào được trình diện mà không tuyên xưng rõ ràng đức tin trước hội chúng bằng lời lẽ riêng của họ. Đó cũng là một sự giúp đỡ để tạo cơ hội công khai tuyên xưng đức tin cho những người đã quay trở về cùng Đấng Christ sau khi họ đã chịu báp-têm và đã được xác nhận. Vào lễ xác nhận, chúng tôi xin vị giám mục cầu nguyện đặc biệt cho từng người trong số những người nầy khi họ bắt đầu “sở hữu phần sản nghiệp của họ.”
Có làm báp-têm ngay không?
Những người chưa được làm phép báp-têm cần bày tỏ đức tin của họ ở trong Đấng Christ một cách công khai trong bí tích khởi đầu nầy. Có hai quan điểm về việc khi nào thì sự bày tỏ nầy được thực hiện. Một số người tin rằng nó phải được thực hiện càng sớm càng tốt và cho rằng sau đó người tín đồ mới cần phải trải qua một sự huấn luyện kỹ càng để làm trọn cương vị tín hữu ở trong Hội Thánh hoặc là để xác nhận. Một số người khác nghĩ rằng tốt hơn thì nên hoãn việc làm báp-têm cho tới sau một thời gian đủ để chuẩn bị và dạy dỗ, và hãy để cho nó kết hợp với sự khởi đầu nào khác trong sự làm trọn cương vị làm tín hữu ở trong Hội Thánh theo yêu cầu. Theo nhận xét, chúng tôi có khuynh hướng chọn cách đầu, nhưng nó cũng có thể được lập luận theo cách kia.
Họ dạy dỗ đều đặn
“Họ giữ lời dạy của các sứ đồ”, sách Công-vụ cho chúng ta biết như vậy về những người trở về tin Chúa lúc ban đầu. Việc đó liên can đến điều chi? Chắc chắn nó có liên quan đến ba lãnh vực.
Kinh Thánh
Trước tiên là có Kinh Thánh. Dĩ nhiên đó là Kinh Thánh Cựu ước, phiên bản tiếng Hi-lạp của bản LXX (Septuagint), nhưng chắn chắn nó đã trở thành cuốn Kinh Thánh của Cơ đốc nhân ban đầu. Trong các thư tín của Tân ước, bạn thấy được có hàng trăm lời trích dẫn từ cuốn Kinh Thánh Cựu ước, và rõ ràng những người trở lại đạo đã biết Kinh Thánh Cựu ước rất rõ. Giống như Chúa Jesus, và thực ra là cả Do-thái giáo ngoại trừ dòng Sa-đu-sê, người Cơ đốc ban đầu tin rằng cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời ban cho và có ích lợi (IITi 2Tm 3:16). Đằng sau các trước giả loài người của nó còn có Thánh Linh của Đức Chúa Trời, Ngài soi dẫn cho (IIPhi 2Pr 1:19-21 IPhi 1Pr 1:10- 12). Do đó họ học cách sử dụng Kinh Thánh với lòng tôn kính. Họ biết rằng trong kỳ sau rốt, Đức Chúa Trời, Đấng đã phán một phần thông qua Kinh Thánh, phán bảo một cách đầy đủ qua Chúa Jesus, do đó họ nghiên cứu Kinh Thánh Cựu ước để có ánh sáng về Chúa Jesus, ở trong các lời tiên báo, trong các ẩn dụ hoặc hình bóng. Sự tham khảo Kinh Thánh nầy cơ bản đến nỗi khi Phao-lô từ giã các trưởng lão thành Ê-phê-sô, ông giao phó họ cho Đức Chúa Trời (điều tự nhiên trong bất kỳ sự chia tay nào) nhưng cũng giao phó họ cho lời của ân điển Ngài nữa, là lời có thể gây dựng họ và càng ngày càng bày tỏ cho họ nhiều hơn về cơ nghiệp của họ trong tư cách những Cơ đốc nhân.
Điều nầy vẫn là một trong những điều cần yếu cơ bản nhất cho các tín đồ mới. Họ cần được giúp đỡ để đọc Kinh Thánh. Trước kia họ có thể đã đọc Kinh Thánh ở tại trường. Có thể họ đã tán thưởng nó như là một áng văn chương. Nhưng giờ đây họ cần xem nó như là sữa mà thiếu đi thì con đỏ sẽ chết (IPhi 1Pr 2:2), như là thịt đối với các tín đồ trưởng thành (HeDt 5:12-14), là ánh sáng họ cần có để soi lối đi (Thi Tv 119:105), là búa mà từng hồi từng lúc họ cần để đập vỡ tảng đá ý riêng trong cuộc đời họ (Gie Gr 23:29). Kinh Thánh thật quan trọng cho sự tăng trưởng và họ cần phải khám phá ra điều nầy.
Nhưng phương cách hiển nhiên nhất là những cách nầy. Người ta cần thấy rằng họ có một cuốn Kinh Thánh có thể đọc được, thích hợp hơn là theo một phiên bản mới nào đó. Một ý tưởng rất hay đó là giúp họ một trong nhiều sách trợ giúp việc đọc Kinh Thánh, chẳng hạn sách chú giải của Thánh Kinh Liên Hiệp Hội, sách chú giải của Hội Đọc Kinh Thánh Quốc tế, cuốn Sống Mỗi Ngày với Chúa Jesus (Every Day with Jesus), cuốn Nghiên Cứu Thánh Kinh (Search the Scriptures), cuốn Lương Thực Cho Sự Sống (Food for Life) hoặc cuốn Kho Binh Giáp của Chiến Sĩ (The Soldier’s Armoury). Một ý kiến hay hơn đó là bạn nên đọc Kinh Thánh với họ ở lần đầu, chỉ cho họ biết cách xem thấy những gì khúc Kinh Thánh muốn nói lúc nguyên thuỷ và sau đó áp dụng điều đó vào hoàn cảnh riêng của họ; dẫn họ đến cùng một lời hứa, một mạng lịnh hoặc một lời cảnh cáo mà nó thích ứng với hoàn cảnh của họ; tìm kiếm một lời cầu nguyện để sử dụng hoặc một ý tưởng then chốt để ghi nhớ cho ngày hôm đó. Bạn cũng nên bảo họ ghi xuống những gì họ đã học được từ khúc Kinh Thánh, hoặc có thể một hành động nào đó mà khúc Kinh Thánh ấy thôi thúc. Bằng cách nầy, bạn sẽ đưa họ đến sự kích thích của Kinh Thánh như là một cuốn sách sống, biết nói chuyện. Tôi thấy một điều tốt là quay về sự cầu nguyện sau một lần đọc giống như vậy. Tôi đề nghị mỗi lần chúng ta dùng một câu Kinh Thánh, hoặc một phần câu, mà nó đã giúp ích chúng ta, và hoặc là chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời về câu Kinh Thánh đó hoặc là chúng ta xin cho câu Kinh Thánh đó được thành nghiệm cho chúng ta – một lời-cầu- nguyện-chỉ-một-câu. Bằng cách nầy, người tín đồ mới được khích lệ tiến sâu vào trên những vùng nước chưa từng được biết đến của sự cầu nguyện. Đây là chỗ họ bắt đầu, với sự đọc Kinh Thánh một cách sốt sắng và một sự cầu nguyện xuất phát từ sự đọc Kinh Thánh đó. Đó là một sự kết hợp cần yếu cho sự tăng trưởng.
Đời sống và sự dạy dỗ của Chúa Jesus
Ngoài Kinh Thánh Cựu ước, những người trở lại đạo ban đầu chắc chắn được dạy dỗ về thân vị và sự giảng dạy của Chúa Jesus, cùng Đức Thánh Linh là Đấng đã từ nơi Ngài đến giữa vòng họ. Đó là một địa điểm chung giữa vòng những người học hỏi Tân ước một cách sâu nhiệm mà tài liệu chúng ta thấy trong các sách Tin Lành đã chuyền qua nhiều tay trước khi nó được ghi xuống lần đầu tiên. Đã có một bộ sưu tập rất sớm về những lời nói của Chúa Jesus, giờ đây nó đã bị thất lạc như là một tài liệu độc lập, nhưng nó được gói ghém trong tài liệu dạy dỗ tương đương mà chúng ta thấy có ở trong sách Ma-thi-ơ và sách Lu-ca. Dù sau, một tài liệu như vậy đã rất cần thiết. Những người mới trở lại đạo cần biết Thầy của họ đã dạy dỗ những điều gì. Họ cũng quan tâm ngang bằng như vậy về những gì Ngài đã làm, nhất là việc Ngài chữa bịnh và đuổi quỉ (những việc nầy đã có thể thường được tiếp tục giữa vòng họ nhờ Đức Thánh Linh), và những biến cố dẫn đến sự chết của Ngài. Bạn thấy được một tập xuất bản ngắn về điều nầy ở trong Cong Cv 10:38-43 và một cách xử lý ở mức độ rộng hơn ở trong sách Tin Lành Mác và thực ra có ở trong các sách Tin Lành khác nữa. Còn mức độ mà theo đó các tín đồ mới được lập nền ở trong sự dạy dỗ về Chúa Jesus, về Thánh Linh Ngài, Hội Thánh Ngài, tương lai của Ngài thì rất rõ ràng qua các Thư tín. Tôi thường xuyên bị chập choạng, khi tôi vật lộn với chúng, để nhớ rằng những Thư tín nầy nguyên được gửi cho những người ít học, nhiều người trong số họ là nô lệ! Họ đã phải động não như thế nào để hiểu được sự mặc khải đã được tỏ ra cho họ ở trong Đấng Christ.
Trong bất kỳ một nhà thờ tân tiến nào mà có những tín đồ mới được giao phó thì đều có một chương trình dạy để khiến cho họ “biết Đấng họ đã tin” và “tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa Jesus Christ của họ”. Trong Hội Thánh của chúng tôi, chúng tôi xếp những tân tín hữu vào “các nhóm của người mới bắt đầu”, các nhóm ấy có một nội dung dạy được cấu tạo cho một thời gian tám tuần lễ, cùng với các loại lớp học Kinh Thánh và cầu nguyện như được mô tả ở trên. Các đề tài như là sự bảo đảm của Cơ đốc nhân, Kinh Thánh, sự cầu nguyện, Đức Thánh Linh, cùng với sự phục vụ Cơ đốc – đây là một trong số các đề tài có liên quan. Có một tài liệu được sao chép và phân phối để người ta sử dụng khi họ ở nhà. Sau khoá học tám tuần lễ nầy, các học viên được đưa vào các tổ chức dạy Kinh Thánh khác, những tổ chức ấy giúp họ tiến đến sự trưởng thành của người Cơ đốc.
Một sách giáo lý Cơ đốc ban đầu
Qua việc khảo cứu Tân ước gần đây người ta đề xuất rằng có thể đã có một cách dạy dỗ thứ ba mà chúng ta có thể lần theo vết trở lại vào những ngày đầu của Hội Thánh. So sánh một số sách Thư tín và tài liệu, người ta đều đề xuất chung rằng đã có một bộ khung sách giáo lý thường được dùng giữa vòng những người lãnh đạo Cơ đốc trong thời đó. Khúc Kinh Thánh RoRm 6:17 tạ ơn Đức Chúa Trời rằng họ đã vâng theo “đạo lý” và “mực thước” của sự dạy dỗ mà họ đã được giao thác cho, cùng một ý tưởng đó được trình bày ở trong các thư gửi cho người Tê-sa-lô-ni-ca, cho Ti-mô-thê và cho Tít. Sự dạy dỗ luân lý nầy bao gồm những gì?
Trong thư Cô-lô-se, có một chuỗi nối tiếp nhau “lột bỏ người cũ” (Cong Cv 3:9), “mặc lấy người mới” (Cong Cv 3:10), “vâng phục” (Cong Cv 3:18), “tỉnh thức trong sự cầu nguyện” (Cong Cv 4:2), “trở nên toàn vẹn” (Cong Cv 4:12). Đây có vẻ như là một sự tuyển chọn độc đoán cho tới khi bạn thấy một khuôn mẫu tương tự ở chỗ khác. Thư Ê-phê-sô cũng có cùng như vậy “bỏ” (Cong Cv 4:22), “mặc lấy” (Cong Cv 4:24), “vâng phục” (Cong Cv 5:22), “đứng vững” (Cong Cv 6:11), “tỉnh thức… và cầu nguyện” (Cong Cv 6:18) * . Thư IPhi-e-rơ bắt đầu với sự nhấn mạnh về sự sanh lại (Cong Cv 1:23) và theo sau đó bằng những việc “từ bỏ” (Cong Cv 2:1), “thờ phượng” (Cong Cv 2:4-9), “phục” (Cong Cv 2:13 – và ông kể nó ra cho tới câu Cong Cv 5:9 khi áp dụng cho chồng, vợ, người công dân và người lãnh đạo), “tỉnh thức mà cầu nguyện” (Cong Cv 4:7), “chống cự” (Cong Cv 5:8-9). Thư Gia-cơ cũng bắt đầu với sự sanh lại (Cong Cv 1:18), và theo sau đó bằng các việc “bỏ đi” (Cong Cv 1:21), “phục” (Cong Cv 4:7), “chống trả ma quỉ” (Cong Cv 4:7), và “cầu nguyện” (Cong Cv 5:16). Hầu hết các khúc Kinh Thánh đã tham chiếu đến tình yêu thương anh em và tình yêu nầy được kể ra cách chi tiết trong các thư Ê-phê-sô, Cô-lô-se và Gia-cơ. Trong khi chúng ta không thể biết chắc về những chi tiết của “sách giáo lý” nầy, thì điều chắc chắn có ý nghĩa đó là khuôn mẫu nầy xảy ra đều đặn một cách rộng rãi ở nơi ba trước giả khác nhau như Phao-lô, Phi-e-rơ và Gia-cơ, và có lẽ chúng ta sẽ đúng khi nhìn thấy ở đây một bộ khung của một khoá trình dạy dỗ hoặc là để dẫn đến việc làm phép báp-têm, hoặc là tiếp tục học sau khi đã chịu phép báp-têm ở trong Hội Thánh ban đầu. Điều đó cũng có thể lập thành một khoá trình học hay ho cho thời nay. Trước tiên là một kỳ học về sự tái sanh và sự thay đổi triệt để mà sự tái sanh đó mang lại. Người tân tín hữu cần biết chắc về điều đó; bằng không thì người ấy sẽ xây cất trên một nền tảng không vững vàng.
Thứ hai là sự xem xét về một số các sự việc thuộc về đời sống cũ mà chúng cần được gạt bỏ và thực ra có thể được gạt bỏ, giống như những chiếc lá cuối năm vẫn còn bám vào cây, khi mà nhựa sống mới dâng lên.
Thứ ba là bài học về hình ảnh Đức Chúa Trời mà theo đó con người được tạo dựng; nó đã bị đánh mất trong sự sa ngã thông qua sự không vâng lời của con người, nhưng nó được khôi phục một cách hoàn toàn ở trong thân vị của Chúa Jesus và dần dần được ban cho người tín đồ bởi Đức Thánh Linh khi Ngài biến đổi chúng ta trở nên giống như Chúa của chúng ta. Sự sống mới nầy phải được mặc lấy, một cách tự nguyện và trong đức tin từng ngày – giống như một trang phục mới.
Thứ tư là Cơ đốc nhân không được kêu gọi để làm chủ những người khác ở chung quanh, nhưng để sống cuộc đời đầu phục Chúa của họ và thuận phục lẫn nhau. Chồng cũng phải thuận phục vợ mình trong sự yêu thương chăm sóc và che chở, cũng như vợ phải thuận phục chồng như là người lãnh đạo của gia đình. Sự thuận phục cũng áp dụng cho mối tương quan giữa chúng ta đối với nhà cầm quyền và đối với nhau. Chúa Jesus đã sống cuộc đời của Người Tôi tớ, và chúng ta phải noi theo Ngài, dẫu nó có thể khó chịu. Thật là một sự cống hiến kỳ lạ cho Thánh Linh của Chúa Jesus ở trong Phi-e-rơ, con người đã từng kiêu ngạo và độc lập, giờ đây làm cho sự thuận phục lẫn nhau, noi theo gương mẫu của Chúa Jesus, trở thành một điểm chính yếu ở trong thư tín thứ nhất của ông.
Thứ năm, người tín đồ mới cần được dạy dỗ để “đứng vững” hoặc “chống cự” kẻ ác. Sự cám dỗ sẽ gia tăng: người ấy có một kẻ thù lớn cũng như có một Bạn Hữu lớn. Người ấy cần học biết sự chống trả hoàn toàn mọi biểu hiện của kẻ thù nghịch và một sự tin cậy hàm súc nơi sức toàn năng của Chúa Jesus.
Thứ sáu, người tín đồ mới cần tỉnh thức và cầu nguyện. Điều đáng chú ý là cả hai việc nầy phải đi chung với nhau. Trừ phi người ấy tỉnh thức, bằng không thì người ấy sẽ không cầu nguyện, thì giờ cầu nguyện sẽ mất dần. Trừ phi họ biết tỉnh thức theo một ý nghĩa khác, bằng không họ sẽ không tiếp tục cầu nguyện và sẽ trở nên nản chí. Phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Ngoài ra, lãnh vực tình yêu thương và sự thờ phượng dường như đã được bao quát bởi những Cơ đốc nhân ban đầu. Thật là một bài khoá tốt cho tín đồ mới cần nên có!
Họ có sự thông công
Kinh Thánh cho chúng ta biết các tín đồ ban đầu giữ “sự thông công” của các sứ đồ. Sự ấm áp của sự thông công ấy được thấy rất rõ ràng qua những trang Kinh Thánh Tân ước.
Sự lưu tâm cá nhân
Điều kiện đầu tiên ở trong sự thông công Cơ đốc thường là một cá nhân nào đó đã làm Cơ đốc nhân một thời gian, họ có thể và sẵn sàng dành thì giờ và có sự quan tâm sâu sắc đến người anh em hoặc người chị em mới ở trong Đấng Christ. Sự thiếu quan tâm sau khi sanh ra là một lý do thông thường gây ra chết chóc giữa vòng người Cơ đốc, vì dầu có nhiều Cơ đốc nhân quan tâm đến việc truyền bá Tin Lành, nhưng rất ít người dành thì giờ và chịu khó để gây dựng những người mới trở về tin Chúa của họ trong đức tin. Sau-lơ sẽ ở đâu sau kinh nghiệm của ông trên con đường đến Đa-mách nếu không có A-na-nia giúp ông trong những giai đoạn đầu, hoặc là nếu không có Ba- na-ba, người yên ủi đáng kính, đến cùng ông và giới thiệu ông cho các Cơ đốc nhân ở tại Giê-ru-sa-lem? Chúng ta thảy đều cần có một A-na-nia hay một Ba-na-ba.
Tôi nhớ lại tôi thường lập một danh sách những nan đề ban đầu của tôi và những khó khăn trong sự làm môn đồ của người Cơ đốc và có lần đã mang nó theo trong hai tuần; Richard Gorrie cũng đã làm như vậy, anh lớn hơn tôi vài tuổi và là một Cơ đốc nhân trưởng thành hơn. Tôi sẽ không bao giờ quên ơn về sự giúp đỡ anh đã dành cho tôi trong những ngày đầu ấy, về sự khích lệ đó là đã gặp gỡ anh và học hỏi từ nơi anh, khi mà mọi người chung quanh tôi không có người nào đã chia sẻ đức tin của tôi hoặc biết Chúa của tôi cả; và cũng về gương mẫu mà anh đã nêu cho tôi một cách vô tình về cách một mục sư Cơ đốc khôn ngoan hành động. Vì đây chính là điều anh có. Khi Phao-lô viết trong những năm tháng về sau, có lẽ ông đã hồi tưởng lại những ngày ban sơ của mình, “bởi chưng dẫu anh em có một vạn thầy giáo trong Đấng Christ, nhưng chẳng có nhiều cha. Vì tôi đã dùng Tin Lành mà sanh anh em ra” (ICo1Cr 4:15). Chúng ta đã thấy được sự quan tâm của Phao-lô đối với những người trở về tin Chúa của mình ở trong bức thư nhỏ gửi cho Phi-lê-môn. Phi-lê-môn là một địa chủ Cơ đốc, người nô lệ của ông là Ô-nê-sim đã chạy trốn và bị bắt nhốt chung một nhà tù với Phao-lô. Vị sứ đồ nầy đã làm cho cậu hoán cải và trong lương tâm, cậu quyết định mình phải trở về cùng Phi-lê-môn, nhưng e sợ mình không được tiếp nhận, do đó Phao-lô đã viết một bức thư che chở cho cậu. “Tôi vì con tôi đã sanh trong vòng xiềng xích, tức là Ô-nê-sim, mà nài xin anh… tôi sai người về cùng anh, người như lòng dạ tôi vậy” (các câu 10,12). Đã có một vị mục sư sẵn sàng chăm sóc và lo lắng cho người trở về tin Chúa của mình. Đây là một loại công việc mà Phao-lô đã phải nghĩ đến khi ông viết về những mối liên hệ của mình với Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca mới mẻ. “Chúng tôi đã ăn ở nhu mì giữa anh em, như một người vú săn sóc chính con mình cách dịu dàng vậy” (ITe1Tx 2:7). Đôi khi sự dịu dàng của người bảo mẫu cần phải được bổ túc bằng sự hướng dẫn khôn ngoan của người cha, Phao-lô đã nói tiếp như vậy trong mạch văn đó, “anh em cũng biết rằng chúng tôi đối đãi với mỗi người trong anh em như cha đối với con, khuyên lơn, an ủi và nài xin anh em ăn ở một cách xứng đáng với Đức Chúa Trời là Đấng gọi anh em đến nước Ngài và sự vinh hiển Ngài” (ITe1Tx 2:11 trở đi). Một Cơ đốc nhân mới cần sự giúp đỡ và khích lệ giống như vậy. Điều khôn ngoan là gửi gắm mỗi tín đồ mới cho một người cũ hơn trong đức tin, họ sẽ chăm sóc người ấy và làm cha của người ấy cho tới khi người ấy đâm rễ vững nền. Người ta hầu hết có thể yếu đuối trong những ngày đầu làm môn đồ và họ cần có cơ hội cá nhân nầy để san sẻ những sự khó khăn và những sự hoài nghi. Tôi thấy rằng một thì giờ hằng tuần gói ghém một sinh hoạt xã hội nào đó và một bữa ăn, cơ hội để bàn bạc những nan đề và một thì giờ ngắn để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện chung với nhau, là một phương cách vô cùng giá trị để gây dựng một môn đồ mới hoà nhập vào thân thể Chúa.
Sự thờ phượng của Hội Thánh
Vì người ấy được gia nhập vào thân thể của Đấng Christ. Hình ảnh của Cơ đốc nhân ở trong Tân ước hầu như đều ở thể số nhiều: người ấy là một con chiên ở trong đàn, là một chiến sĩ ở trong đạo quân, là một chi thể ở trong thân, một viên đá trong ngôi nhà, v.v…. Cơ đốc giáo chính là một công việc kết hợp. Chúng ta không được định để sống độc lập hay đi một mình. Chúng ta không đi từ chỗ cô đơn để đến cùng Đấng Cô độc; chúng ta đi đến cùng Ba Ngôi trong sự thông công. Do đó, Hội Thánh là một thành phần cần yếu của những mục đích của Đức Chúa Trời. Nó là phần thiết lập đầu tiên của nước Đức Chúa Trời và ở trong Hội Thánh luật pháp của nước Trời, tức là luật yêu thương và phục vụ lẫn nhau, phát triển mạnh. Mọi Cơ đốc nhân đều cần đến Hội Thánh, cũng như Hội Thánh cần đến tất cả mọi Cơ đốc nhân. Sự thờ phượng chung và những sự biểu lộ nhỏ hẹp hơn, mang tính không chính thức hơn của sự thông công Cơ đốc đều cần thiết như nhau cho sự tăng trưởng. Chúng ta thấy các môn đồ ban đầu thờ phượng không phải chỉ ở trong đền thờ và nhà hội nhưng họ cũng thờ phượng một cách không chính thức từ nhà nầy sang nhà kia. Hạnh phúc thay cho Hội Thánh nào bao gồm cả hai mô thức thờ phượng ấy.
Chúng ta cần sự nhóm hiệp đông đảo các Cơ đốc nhân trong sự vui mừng và trong sự thờ phượng hết lòng. Chúng ta cần dâng lời ca ngợi Đấng Cứu Chuộc. Chúng ta cần hiệp chung cầu nguyện cùng Ngài về những nhu cầu lớn lao của dân Ngài và thế giới của Ngài. Chúng ta cần phơi bày một sự đọc Kinh Thánh quân bình và sự giảng dạy Lời Ngài. Chúng ta cần đến và xưng nhận chúng ta kém thiếu biết bao với tư cách những người dọn đường cho nước của Đức Chúa Trời và thường chuyên chở những tư tưởng lệch lạc biết bao về Ngài là ai và Ngài muốn điều gì ở trong thế giới nầy. Sự thờ phượng chung là một điều cần có. Kinh Thánh Tân ước đã coi trọng việc nầy như thế nào: “Hãy cầm giữ sự làm chứng về điều trong cậy chúng ta chẳng chuyển lay, vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín. Ai nấy hãy coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành; chớ bỏ qua sự nhóm lại như mấy kẻ quen làm, nhưng phải khuyên bảo nhau, và hễ anh em thấy ngày ấy hầu gần chừng nào, thì càng phải làm như vậy chừng nấy” (HeDt 10:23 trở đi). Chúng ta cần có sức lực, sự khích lệ, sự khuyến khích, sự dạy dỗ và sự cầu nguyện của sự thờ phượng chung, nhưng không thể dừng lại ở đó.
Than ôi, trong nhiều Hội Thánh, nó đã dừng lại ở chỗ đó. Không có điều gì xảy ra từ cuối tuần nầy đến cuối tuần khác liên quan đến sự thông công Cơ đốc. Thường có rất ít sự nhóm hiệp cùng nhau, rất ít cơ hội để chia sẻ những vấn đề cá nhân trong chính buổi thờ phượng. Cả hai sự yếu kém nầy cần được sửa chữa nếu chúng ta muốn thấy sự thờ phượng sống động trong gia đình Cơ đốc và sự tăng trưởng thực sự với tư cách một gia đình của Đức Chúa Trời. Nếu Hội chúng của Hội Thánh nhỏ bé (khoảng 200 người) thì rất có thể để kết hợp một thì giờ nào đó chia sẻ các tin tức và những vấn đề liên quan trong chính thì giờ thờ phượng. Trong một Hội Thánh Anh Quốc Giáo, điều nầy thường có thể diễn ra trong Giờ Hoà Thuận mở rộng mà nó xảy ra ở giữa buổi nhóm có dự lễ Tiệc Thánh. Nhưng nó cũng có thể xảy ra vào cuối buổi nhóm khi có những vấn đề cần cầu nguyện được nêu ra để cầu thay. Nếu người ta cảm thấy họ có liên hệ thì họ lại có được cái ý thức quan trọng của sự thuộc về nhau mà nó cần yếu để thân thể của Đấng Christ phô bày ra. Nếu người ta cảm thấy họ chỉ là “những người lấp đầy ghế nhà thờ” rất lâu trước đó thì họ sẽ hoặc là co rút lại hoặc là họ sẽ thả trôi. Dân sự bị đông lạnh của Đức Chúa Trời phải thoát khỏi xiềng xích của nhiều chủ nghĩa bảo thủ của họ và tan chảy ra, ít nhất là đến mức độ chia sẻ với các đồng bạn Cơ đốc ở trong nhà thờ về những gánh nặng đè nặng trong lòng họ, hoặc là về những niềm vui và sự đáp lời cầu nguyện mà họ đang từng trải. Và điều chi có thể giúp đỡ cho tiến trình tan chảy đó thì phải được khích lệ: nhiều người khác nhau đọc các bài học, hướng dẫn cầu nguyện, phụ tá theo nhiều cách khác nhau, hướng dẫn hát, với nhạc cụ hoặc với sự nhảy múa, giờ uống cà phê hay giờ ăn trưa sau buổi nhóm v.v…. Vì sự thờ phượng Cơ đốc không được định ý để thành sự đồng loạt có thể tiên đoán được của nơi nghĩa trang nhưng là một sự phô diễn sự sống rung động của dân Đức Chúa Trời.
Sự thông công không chính thức
Nhưng dân sự của Đức Chúa Trời cũng tồn tại suốt cả tuần lễ nữa! Cần có sự dự bị để có sự thờ phượng không chính thức giữa vòng các tín đồ, đặc biệt là những người đơn chiếc và không hưởng được sự đồng phần của một gia đình Cơ đốc. Nhiều Hội Thánh thấy rằng một buổi nhóm không chính thức để thờ phượng, dạy dỗ, cầu nguyện và chia sẻ sự vui hưởng tự do trong Đấng Christ là một sự khích lệ lạ lùng ở trong tuần và thêm sức mạnh. Tôi có biết những tín đồ mới đến dự buổi thông công trong tuần của chúng tôi một hay hai ngày sau khi họ trở lại tin Chúa và họ làm chứng về niềm hi vọng mới ở trong họ. Sau đó có ba điều đã xảy ra. Buổi nhóm được phấn chấn, người tín đồ mới ấy được mạnh mẽ thêm nhờ việc đã nói ra cho Chúa của mình; và người ấy thấy mình thật sự thích hợp với đoàn thể nầy của dân sự Đức Chúa Trời – dầu người ấy chưa bao giờ thấy như vậy đối với bất kỳ điều chi trước đó ở trong đời sống mình! Thì giờ sau đó qua buổi uống cà phê là một cơ hội tuyệt diệu để hoà hợp, chia sẻ những sự quan tâm và những tin tức, và phục vụ lẫn nhau một cách thích hợp; thường bạn thấy được hai hay ba người ở trong một góc đang tìm sự an ủi và sức lực trong sự cầu nguyện chung với nhau về một nan đề nào đó mà nó đang gây bối rối cho một người trong vòng họ. Như vậy sự thông công tăng trưởng.
Một sự phát triển buổi nhóm trong tuần là sự tăng trưởng của lãnh vực các tiểu tổ thông công. Không có gì nguyên thuỷ hơn là điều nầy. Đó chỉ là sự nhóm hiệp nhau lại của các tín hữu của Hội Thánh đó, là những người sống trong cùng một khu vực của thành phố. Họ họp nhau qua một bữa ăn, học biết thương yêu nhau và đánh giá lẫn nhau, họp mặt đều đặn để học Kinh Thánh, để nâng đỡ lẫn nhau và để thấy họ có thể làm gì trong sự phục vụ cho người láng giềng. Những tiểu tổ nầy đặc biệt cần yếu ở trong một hội chúng lớn hoặc một Liên Đoàn Cơ đốc lớn. Ngược lại, thật dễ dàng để bị lôi cuốn bởi sinh hoạt thuộc linh nhóm theo đoàn thể lớn và không bao giờ có cơ hội để đóng góp hoặc để xin sự giúp đỡ những điều có cần.
Nếu sự quan tâm cá nhân, sinh hoạt tiểu tổ và sự phô bày sự thờ phượng đều đặn ở trong Hội Thánh đều là thành phần của sự dinh dưỡng mà nhờ đó người tín đồ mới được cấp dưỡng thì sẽ có nhiều cơ hội để họ “tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jesus Christ” (IIPhi 2Pr 3:18).
Thăm viếng và gởi thư thăm hỏi
Nhưng cũng có hai phương cách phụ mà trong đó Cơ đốc nhân mới được nuôi dưỡng trong những ngày đầu, những phương cách mà theo đó đôi khi chúng ta bỏ sót. Trong cách thứ nhất, các sứ đồ và những Cơ đốc nhân lãnh đạo khác mở nhiều cuộc viếng thăm để xem thử những tín đồ mới của họ tiến triển như thế nào, và khuyến khích họ trong đức tin. Những lời của Phao-lô nói cho Ba-na-ba trong Cong Cv 15:36 là điển hình cho thái độ mà nó nổi bật trong thời ấy. “Chúng ta hãy trở lại thăm hết thảy anh em trong các thành mà chúng ta trước đã giảng đạo Chúa, xem thử ra thể nào”. Chúng ta có thể thăm viếng những người mà chúng ta đã giúp họ đến đức tin càng nhiều càng tốt. Vì có một sự nối kết độc đáo giữa những người là cha mẹ và con cái ở trong Đấng Christ thông qua Tin Lành. Đó là một sự nối kết cần được khai thác.
Cách thứ hai cũng rõ ràng như vậy: dùng thư thăm hỏi thay vì viếng thăm. Các sứ đồ đã làm như vậy. Nhưng thư thăm hỏi thế nào! Tôi nghĩ rằng nghệ thuật viết thư đã không còn nữa ở trong thời đại nầy là thời đại của sự vội vàng đến nín thở và của mọi vật có liền. Khó có ai ngày nay chịu ngồi xuống viết thư từ đáy lòng của mình về Chúa cho các Cơ đốc nhân khác. Chắc chắn chúng ta không làm cho mình hao mòn bởi việc bỏ qua thư từ. Hãy nghĩ đến phước hạnh đem đến cho hàng triệu người mà các lá thư của Phao-lô, Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng đã làm. Hãy nghĩ đến những gì thế giới đã có nhờ các lá thư của một Newton hoặc một Rutherford. Thật thú vị khi thấy rằng ngay cả một người bận rộn và nổi danh như C.S. Lewis cũng đã dành thì giờ để liên lạc thư từ đều đặn với một thiếu phụ người Hoa Kỳ về những điều thuộc linh. Một sự liên lạc thư từ mà nó trở thành có giá trị sau khi ông qua đời. Những lá thư gửi cho những Cơ đốc nhân trẻ tuổi tạo được nhiều sự đổi khác lớn lao. Một mục sư danh tiếng, Mục sư E.J.H. Nash, thường viết thư cho tôi (và cho hàng trăm người khác) đều đặn hai hay ba lần một học kỳ khi tôi còn là một học sinh, đang chiếu đấu với những giai đoạn ban đầu của sự làm môn đồ. Ông thường rất ít nói, nhưng ông nói với sự vui vẻ và quyến rũ. Ông thích thêm một câu Kinh Thánh và một lời giải nghĩa mà dường như từng hồi từng lúc nó đáp ứng nhu cầu chính xác tôi đang từng trải. Những lá thư ấy có ý nghĩa nhiều trong sự tăng trưởng của tôi như là một người Cơ đốc hơn là tôi đã nhận định được vào lúc ấy. Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời về những lá thư ấy.
Họ thực hiện sự coi sóc
Điều nầy xảy đến cho chúng ta như là một điều kỳ lạ. Thứ nhất, khó có Hội Thánh nào ở bên ngoài Hội Thánh Công Giáo La-mã biết đến sự coi sóc và kỷ luật là gì trong nhiều thế kỷ từ khi có cuộc Cải Chánh. Thứ hai, thể chế dân chủ đã trở nên được chấp nhận một cách rộng rãi như là một khuôn mẫu, thực tế là một khuôn mẫu, không những chỉ ở trong tập thể chính trị nhưng cũng ở trong gia đình, trong kinh doanh, trong kỹ nghệ và ở trong giáo hội nữa, đến nỗi chúng ta có khuynh hướng nhìn phiến diện vào những lãnh vực ấy của Kinh Thánh mà chúng chỉ đến một mẫu mực khác. Chúng thực sự chỉ đến một khuôn mẫu hoàn toàn khác hẳn một cách không thể nghi vấn được.
Những điều kiện cho sự lãnh đạo
Trong Kinh Thánh, dân sự của Đức Chúa Trời là một dân theo thần quyền thể chế. Họ không do một người hoặc một số người cai trị, hoặc không tự cai trị lấy mình, nhưng do Đức Chúa Trời cai trị. Ngài thực hiện quyền lãnh đạo của Ngài thông qua nhiều phương tiện khác nhau, không có phương tiện nào trong các phương tiện ấy là chính qui cả. Do đó, chúng ta thấy các tiên tri, các vua, các quan xét, các trưởng lão, các sứ đồ, các giáo sư đều chen vai bên cạnh sự can thiệp trực tiếp của Thánh Linh Đức Chúa Trời trong việc lãnh đạo dân sự Ngài. Còn trong thời Tân ước, chúng ta thấy nhiều khuôn mẫu khác nhau của giáo hội: tổ chức Hội chúng, tổ chức Trưởng lão, tổ chức Giám mục thể chế, tổ chức Công giáo, tất cả đều xưng là mình tìm thấy những khuôn mẫu ở trong Kinh Thánh Tân ước mà nó chỉ về hình thức cai trị giáo hội của chính mình. Tôi không định đánh giá những khuôn mẫu khác nhau nầy; tôi chỉ muốn nêu ra rằng những hình thức tổ chức đó đã hiệu hữu. Điều làm tôi quan tâm ở chỗ nầy đó là sự kiện những Cơ đốc nhân mới được giao thác cho những người coi sóc họ ở trong Chúa (ITe1Tx 5:12). Có những người chăn bên dưới ở trong bầy của Đức Chúa Trời, và những người nầy có nhiệm vụ coi sóc bầy và đại diện cho chính Chúa trong sự chăm sóc của họ (Cong Cv 20:28).
Qua hai bảng liệt kê các phẩm chất có ở trong các Thư tín, chúng ta thấy rõ những phẩm chất nào phải có trong những người như vậy là: họ phải không được là người mới tin đạo e rằng họ có thể sinh ra kiêu căng; họ phải có những phẩm chất đáng khen trong nếp sống cá nhân và nếp sống gia đình; họ phải được Hội chúng và người ngoại làm chứng tốt cho; và họ phải có ơn dạy dỗ (Tit Tt 1:5-9 ITi1Tm 3:1-7). Mục đích của những “trưởng lão” hoặc ” người chăn bầy” nầy là rõ ràng, dường như họ phải được kêu gọi. Mục đích đó là để gây dựng các Cơ đốc nhân trong công tác phục vụ Đức Chúa Trời của họ (Eph Ep 4:12). Nói riêng, họ được kêu gọi để giảng đạo, dạy dỗ và có lẽ để hướng dẫn sự thờ phượng (dù không có chỗ nào trong Tân ước chỉ tỏ điều nầy), và đề chăm sóc người ta. Sự chăm sóc nầy bao gồm việc dâng hiến thực tế để giúp đỡ anh em trong lúc có cần (RoRm 16:1-2), việc cảnh cáo và gây dựng (Cong Cv 20:28-32), việc ân cần tiếp khách (IIIGi 3Ga 1:6-7) và việc sống một cuộc đời Cơ đốc gương mẫu mà các tín đồ khác có thể noi theo (Phi Pl 4:9). Chính khi những người lãnh đạo có phẩm chất nầy mà các trước giả Tân ước có thể khuyến khích các tín đồ phải vâng phục họ xuất phát từ lòng yêu mến vì cớ Đấng Christ. Sự lưu ý về sự vâng phục nầy xảy ra nhiều lần trong cách xử sự của Phao-lô đối với Hội Thánh Cô-rinh-tô ương ngạnh, và ở trong ITe1Tx 5:12 trở đi; ở trong IITe 2Tx 3:10-15 và ở những chỗ khác nữa.
Những nguy cơ của sự lãnh đạo
Trong những năm gần đây, một trong các phong trào Cơ đốc phát triển nhanh nhất là mạng lưới Hội Thánh tư gia ở khắp cả thế giới. Đây là những tổ chức Cơ đốc độc lập không có kết giao với bất kỳ giáo hội nào trong hàng ngũ chính và họ chỉ liên kết một cách không chính thức với bất kỳ tập thể nào ở bên ngoài Hội Thánh tư gia địa phương của họ. Một phần sức mạnh của phong trào nầy là sự chăm sóc thực tiễn mà các thành viên bày tỏ đối với nhau, không những ở trong các công việc bình thường nhưng cả trong sự tăng trưởng và phát triển thuộc linh nữa. Nhưng sự nhấn mạnh nầy quá chú trọng vào sự chăm sóc cá nhân và cái gọi là “Thẩm quyền đại diện” (được tổ chức theo một dây chuyền đi lên thông qua vị mục sư lên đến Chúa) mà nó có điều khá giống một cách nguy hiểm với điều mà chủ nghĩa quyền lực có thể theo đuổi – và đôi khi đã làm ra. Khi bạn phải vâng phục “người coi sóc” của bạn một cách ngấm ngầm, như là một người bên trên bạn ở trong dây chuyền được kêu gọi, và vâng phục người ấy như bạn vâng phục Chúa, thì khi ấy có một điều gì đó sai trật một cách nghiêm trọng. Một phần của giá trị của việc làm một tập thể, một phần của giá trị của quyền trưởng lão được dự phần (như bạn luôn luôn thấy có trong Tân ước) là để bảo tồn người Cơ đốc khỏi những tính khí bất thường của một cá nhân lãnh đạo. Chúng ta cần sự đa dạng ở nơi những người cai quản chúng ta ở trong Chúa; chúng ta cần họ thực hành sự lãnh đạo của họ với một sự nhạy cảm dịu dàng mà nó sẽ để cho chúng ta tăng trưởng như Chúa muốn chúng ta phải có, hơn là chúng ta thành những bản sao nhợt nhạt của một người cai trị bên trên chúng ta ở trong Chúa. Thư Cô- rinh-tô có đầy những lời cảnh cáo nghịch cùng những người đã lập nên một Phao-lô, một A-bô-lô, một Phi-e-rơ thành những người hướng dẫn vô ngộ. Chúng ta không nên đánh giá quá cao những người lãnh đạo thuộc linh, nhưng chúng ta cũng không được coi thường họ. Trong thư tín thứ nhất của mình, Phi-e-rơ đã dành một chương thật vô giá cho vấn đề nầy. Trong chương 5, ông tự đặt mình vào hàng ngũ các trưởng lão mà ông viết cho họ, không phải như một nhân vật quản trị nhưng như một trưởng lão đồng công. Cũng như họ, một mặt ông nhìn đến thập tự giá của Đấng Christ, một mặt ông nhìn đến sự vinh hiển đã được mặc khải. Với một cái nhìn về quá khứ nơi cái giá mà Đấng Christ đã mua bầy, và với một cái nhìn về tương lai nơi những gì Ngài đã dành chứa cho bầy, Phi-e-rơ thúc giục những “người chăn bầy bên dưới” hãy nuôi bầy với sự dịu hiền và sự chăm sóc cá nhân, như Chúa Jesus đã nuôi dưỡng Phi-e-rơ. Bầy chiên đó là trách nhiệm của họ. Họ phải chăm lo cho bầy không phải vì bổn phận phải làm, nhưng vì họ muốn làm. Họ phải chăm lo cho bầy không phải vì những gì họ có thể nhận được từ nơi bầy nhưng vì những gì họ có thể đặt vào trong đó. Họ phải chăm lo cho bầy không phải như là những ông chủ nhưng là để nêu gương. Và ông giơ cao chiếc khăn của người tôi tớ để cho họ ganh đua trong những lời hiếm hoi ông đã dùng ở trong câu 5: “phải trang sức cho mình”. Đó là lời mà Chúa Jesus đã dùng ở Bữa Ăn Cuối Cùng khi Ngài “lấy khăn vấn ngang lưng… và rửa chơn cho môn đồ”. Đó là phẩm chất của sự lãnh đạo mà nó đem lại những ích lợi.
Đặt nền móng
Một lãnh vực đặc biệt mà ở đó những người mới trở lại tin Chúa sẽ đánh giá sự lãnh đạo nầy, dù nó do người dắt đem họ đến đức tin thực thi hoặc là do ai khác, là ở trong toàn bộ vấn đề về tái định hướng đời sống họ như là một người Cơ đốc. Sẽ có những vấn đề về niềm tin, về hành vi cử chỉ, về những mối liên hệ v.v… được bàn bạc và được truyền đạt một cách khôn ngoan. Nhưng có lẽ vấn đề khởi đầu quan trọng nhất sẽ là vấn đề người tín đồ ấy có thể biết chỗ họ đang đứng hay là không. Họ có tin tưởng rằng hành động phó thác nầy không phải chỉ là một sự thoáng qua, một sự bùng phát của cảm xúc hay không? Người ấy có thể biết chắc rằng Chúa đã tiếp nhận họ hay không? Hoặc họ bị bỏ mặc cho sự bất an ninh mãi mãi về vấn đề quan trọng nầy?
Đó là vấn đề quan trọng, dù nó thường được lướt qua dưới tấm thảm. Ngày nay, nhiều người nghĩ rằng việc tin chắc rằng bạn là một người Cơ đốc, bạn đã được tha thứ, bạn là một chi thể trong thân của Đấng Christ và đang trên đường tiến đến thiên đàng là hoàn toàn không thích hợp – thực ra là có phần không thanh lịch. Thật là dị hợm! Ngạo mạn quá chừng! Có phải vậy không?
Đối với tôi, dường như ít nhất có ba lý do chính đáng tại sao chúng ta có thể tin tưởng về vấn đề nầy, tách biệt với cái lý do rõ ràng rằng không ai có thể cất nhà trên một nền tảng không vững chắc, chỉ nói đến căn nhà của sự làm môn đồ Cơ đốc mà thôi. Lý do thứ nhất đó là Chúa Jesus Christ đã quả quyết với người ta như vậy. Ngài đã phán với tên trộm cướp đang hấp hối rằng người ấy sẽ ở với Ngài trong Ba-ra-đi ngày hôm ấy. Ngài đã bảo các môn đồ Ngài rằng họ sẽ trị vì với Ngài trong thiên đàng. Ngài bảo chúng ta rằng Ngài sẽ không bao giờ bỏ ra ngoài kẻ nào đến cùng Ngài (GiGa 6:37) và nếu chúng ta tiếp nhận Thánh Linh Ngài vào đời sống chúng ta thì chúng ta sẽ được sanh lại vào trong gia đình Ngài (GiGa 3:3). Ngài đã bảo chúng ta rằng Ngài đã đến để tìm và cứu kẻ bị hư mất và Ngài mong đợi những người giống như Xa-chê biết rằng thực ra họ đã được đụng đến bởi tình thương yêu cứu rỗi của Ngài (LuLc 19:9-10). Nói tóm lại, nếu bạn tin Chúa Jesus Christ, hiếm khi bạn có thể nghi ngờ tính đúng đắn của sự biết rằng bạn được tha thứ.
Lý do thứ hai cũng tương tự như vậy. Các trước giả Tân ước đã không hề nghi ngờ gì về sự cứu rỗi của họ và của những người mà họ đã viết thư cho. Ví dụ như, thử lướt nhìn qua thư Ê-phê-sô Eph Ep 1:1-23: “Ngài (Đức Chúa Trời) đã xuống phước cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng… trước khi sáng thế, Ngài đã chọn chúng ta trong Đấng Christ… Ngài đã định trước cho chúng ta được trở nên con nuôi Ngài… Ấy là trong Đấng Christ, chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài, được tha tội”, v.v… Họ không nghi ngờ gì về điều đó, và chúng ta có thể suy luận rằng chúng ta cũng vậy.
Lý do thứ ba đó là chúng ta được xưng nghĩa một cách nhưng không nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, chớ không phải nhờ những thành tựu tưởng tượng của chính chúng ta. Nếu sự hiện diện của tôi ở trong thiên đàng của Đức Chúa Trời là do việc lành của chính tôi, thì tôi phải mãi mãi không biết chắc việc lành của mình có đủ tốt không. Còn nếu tôi tuỳ thuộc vào công tác đã hoàn tất của Đấng Christ ở trên thập tự giá để tôi được tha thứ thì khi ấy vấn đề khác hẳn. Không có vấn đề nào thuộc về sự tự phụ cả. Đó là vấn đề thuộc về việc tin rằng khi Đức Chúa Trời ban cho tôi ơn tha thứ, sự sống đời đời và được làm thành viên ở trong gia đình của Ngài thì Ngài cũng muốn tôi biết rằng tôi đã nhận được những điều đó – và không làm sỉ nhục Ngài bằng việc cứ tiếp tục nghi ngờ mãi.
Một sự tin chắc trong sự khiêm nhường, biết ơn và ca ngợi mà tôi có thực ra là thuộc về quyền lợi làm con của tôi trong tư cách một Cơ đốc nhân. Dù vậy, bởi lòng thương xót, đó là nhiệm vụ của chính Đức Thánh Linh làm cho người tín đồ biết rằng họ thuộc trong gia đình của Đức Chúa Trời (RoRm 8:15-17), Ngài thường hành động thông qua một tác nhân người phàm nào đó để giúp chúng ta thấy được điều ấy.
Do vậy, “người chăn bầy bên dưới” có nhiệm vụ sơ khởi là chỉ cho người mới trở về với Chúa biết rằng chỗ đứng của họ ở trong Đấng Christ không tuỳ thuộc vào cảm giác thay đổi thất thường của họ, nhưng tuỳ thuộc vào lời hứa của Đức Chúa Trời và công tác đã hoàn tất của Chúa Jesus Christ. Những lời hứa như GiGa 6:37; GiGa 1:12 KhKh 3:20 HeDt 13:5 IGi1Ga 1:8-9 và 5:9-12 phải được cắt nghĩa một cách kỹ càng cho người tín đồ non trẻ, cho tới khi họ thấy rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta nhận lấy Ngài ở trong lời của Ngài và dẫu cho khi chúng ta bỏ Ngài mà sa vào tội lỗi thì Ngài cũng không đuổi chúng ta ra khỏi gia đình của Ngài: huyết của Chúa Jesus Christ, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta. Nhưng ngoài lời của Đức Chúa Cha và công tác của Đức Chúa Con – công tác đã hoàn tất đó ở nơi đồi Gô-gô- tha không bao giờ lặp lại hay cần phải thêm vào điều chi – còn có sự làm chứng của Đức Thánh Linh mà người tín đồ mới cần phải hiểu. Chúng ta biết mình thuộc trong gia đình Đức Chúa Trời là nhờ “Thánh Linh mà Ngài đã ban cho chúng ta” (IGi1Ga 3:24).
Thánh Linh ấy tự bày tỏ ra qua nhiều cách khác nhau. Tôi đã kể các cách ấy trong một cuốn sách được soạn cho người mới tin Chúa được gọi là Sự Sống Mới, Nếp Sống Mới (New Life, New Lifestyle ). Nhưng phần cốt lõi của chúng, như Giăng đã bày tỏ cho chúng ta trong Thư thứ nhất của ông, là như sau: Đức Thánh Linh bảo đảm cho chúng ta sự hiện diện của Ngài bằng cách ban cho chúng ta toàn bộ một phạm vi kinh nghiệm mới. Ngài ban cho chúng ta một ước muốn vâng phục Đức Chúa Trời (IGi1Ga 2:3), một sự gớm ghét đường lối tội lỗi cũ (IGi1Ga 3:9), một niềm vui mới trong đoàn thể của Chúa Jesus và những người theo Ngài (IGi1Ga 1:3 trở đi), một sự khám phá mới rằng sự cầu nguyện là có thật (IGi1Ga 5:14 trở đi), một tình yêu mới đối với anh chị em Cơ đốc (IGi1Ga 3:14), một sự quan tâm hướng ngoại đối với những người đang có cần (IGi1Ga 3:17 trở đi), và một từng trải mới về quyền năng của Đức Thánh Linh ở bên trong để chiến thắng sự tranh chiến của sự cám dỗ (IGi1Ga 4:4 5:4). Đây là một số điều chỉ tỏ, cùng với những lời hứa của Đức Chúa Trời và những sự kiện khách quan ở đồi Gô-gô-tha và sự phục sinh mà chúng bảo đảm cho người mới tin Chúa rằng họ đã thực sự bắt đầu. Những dấu hiệu của sự sống mới không xảy ra cùng một lúc ngay tức thì. Chúng cũng không xảy ra theo một thứ tự đặc biệt nào. Nhưng chúng thực sự có xảy ra khi Đức Thánh Linh được để cho tự do hành động trong cuộc sống. Dần dần câu Kinh Thánh IGi1Ga 5:13 sẽ trở thành sự thật: “Ta đã viết những điều nầy cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời”. Chính về sự tin quyết nầy mà người lãnh đạo Cơ đốc tìm cách dẫn đưa bạn hữu mình đến. Một khi nền móng đó được thiết lập vững chắc thì con đường tăng trưởng sẽ khai thông. Nhưng người lãnh đạo chưa hoàn tất công việc của mình cho đến khi người ấy có thể giúp người trở về tin Chúa trưởng thành ở trong Đấng Christ và họ có thể chinh phục những kẻ khác nữa. Đó chính là mục tiêu của sự chăm sóc của người chăn bầy Cơ đốc, không thể nào kém cỏi hơn.
Họ tham gia vào sự cầu nguyện
Những người tin Chúa ban đầu tiếp tục giữ “sự cầu nguyện” của các sứ đồ, hay là “những giờ cầu nguyện” như Cong Cv 2:42 có thể được phiên dịch như thế. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, nhiều người trong số họ quen cầu nguyện cá nhân và cầu nguyện theo giáo nghi. Họ là người Do-thái hoặc là người mới nhập đạo Do-thái, nghĩa là họ là những người ngoan đạo của nhà hội. Nhưng giờ đây họ đã thấy sự cầu nguyện là một điều hoàn toàn khác hẳn. Nó là sự cầu nguyện “thông qua Chúa Jesus Christ” hay là “trong danh Chúa Jesus Christ”. Lần đầu tiên người ta biết gọi Đức Chúa Trời là “A-ba”, “Cha thương yêu”, với một sự thân mật chưa hề được nghe đến ở trong Do-thái giáo hoặc bất kỳ một tôn giáo nào khác. Chúa Jesus là con đường dẫn đến Đức Chúa Trời và cầu xin thông qua Ngài là một loại cầu nguyện mà Ngài có thể được mong đợi để đặt danh của Ngài vào đó, nó có nghĩa là một sự tin chắc vô tiền khoáng hậu rằng những lời cầu nguyện ấy sẽ được nghe và được đáp lời theo như Cha Thiên Thượng thấy là tốt nhất. Chúa Jesus đã phán “Hãy xin, sẽ được”. Những người nầy đang bắt đầu làm đúng theo điều đó.
Sự cầu nguyện riêng
Dường như có ba lãnh vục mà trong đó sự cầu nguyện của họ đã được cách mạng hoá. Thứ nhất là lãnh vực cầu nguyện riêng. Họ bắt đầu ý thức về Đức Thánh Linh giúp họ trong sự thiếu cầu nguyện tự nhiên của họ, và Ngài làm cho họ có thể trình dâng cùng Đức Chúa Cha những nhu cầu của họ. Hàng rào ngăn cách giữa họ với Đức Chúa Trời đã bị sụp đổ và sự cầu nguyện bắt đầu là một thực tại và là một niềm vui. Khi Sau-lơ người Tạt-sơ trở lại đạo, bằng chứng duy nhất của sự đích thật của sự hoán cải đó đã biểu lộ ra cho A-na-nia, người được Đức Chúa Trời sai đến để chăm sóc ông, là điều nầy: “vì người đương cầu nguyện” (Cong Cv 9:11). Cuối cùng, ông đang hầu chuyện cùng Đức Chúa Trời. Ông đã thông công với Ngài. Thường thường tôi có một tín đồ mới nói cùng tôi một quan điểm như vầy: “Bây giờ tôi cảm thấy tôi không chỉ cầu nguyện cùng trần nhà. Tôi đang trò chuyện”. Tóm lại, đó là một trong những mục tiêu quan trọng ở trong sự chuộc tội. Ngài “đã chết vì chúng ta, hầu cho chúng ta hoặc thức hoặc ngủ, đều được đồng sống với Ngài” (ITe1Tx 5:10).
Sự cầu nguyện chung
Lãnh vực thứ nhì là sự cầu nguyện chung. Những người nam người nữ nầy đã tìm thấy ở nơi Chúa Jesus Đấng Mê-si của họ, họ cứ tiếp tục thờ phượng tại đền thờ và trong nhà hội, nhưng có một sức bật mới ở trong bước đi của họ. Bạn có thể thực sự nghe thấy niềm vui và sự tin tưởng xuất phát từ nơi họ qua lời ký thuật của sách Công-vụ. “Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến đền thờ, còn ở nhà thì bẻ bánh và dùng bữa chung với nhau cách vui vẻ thật thà, ngợi khen Đức Chúa Trời…”, họ “cứ ở trong đền thờ luôn, ngợi khen Đức Chúa Trời” (Cong Cv 2:46 trở đi; LuLc 24:52). Chúng ta có một cái nhìn thoáng qua khác về họ khi người què được chữa lành ở tại Cửa Đẹp của đền thờ. “Người liền nhảy, đứng lên và bước đi cùng hai người vào đền thờ; vừa đi, vừa nhảy, vừa ngợi khen Đức Chúa Trời”. Việc nầy dẫn đến sự giảng dạy tức thời ở trong đền thờ, và mọi người thấy rõ được sự phấn khởi ngay cả trong lời tường thuật về sự không hài lòng của dòng Sa-đu-sê về sự làm xáo trộn nghi thức bình thường nầy. “Người Sa-đu-sê thoạt đến, tức mình vì hai người dạy dân chúng và rao truyền, nhơn danh Đức Chúa Jesus, sự từ kẻ chết sống lại. Họ bắt hai người… ” (Cong Cv 4:2 trở đi).
Do đó, sự thờ phượng tại đền thờ thời ấy có lẽ đã có nhiều hoạ âm của sự thờ phượng tại giáo đường thời nay. Nó rất kêu, rất đẹp, có thể đoán trước được, hoàn toàn thông suốt, nhưng có lẽ thiếu sự sống. Điều đáng chú ý đó là những người tin Chúa ban đầu đã không xoá bỏ nó vì nó rất thiếu thuộc linh và buồn chán. Họ vẫn đến đền thờ với niềm vui rạng rỡ và niềm vui ấy đã trở nên truyền nhiễm và cuối cùng dường như đã gây nên một sự phân chia. Sự sống mới không thể được chứa đựng ở trong những hình thức cũ, và những hình thức mới của Hội Thánh Cơ đốc phải được khám phá thay vào đó. Chính Hội Thánh thì cũ và hoạt động theo cách của nó, nhưng bổn phận của những người được đầy dẫy rượu Thánh Linh một cách mới là phải thi hành sức mạnh của mình trong sự thờ phượng chung trong khu vực của họ, dẫu cho cần phải có nhiều kiên nhẫn ở cả hai phía. Trong những trường hợp cực đoan, họ có thể bị đuổi ra, nhưng nhìn chung hầu hết các Hội Thánh đều sẽ được vui mừng khi thấy một sự xâm chiếm của sự sống mới. Sự hàn gắn giữa cái cũ và cái mới cần có nhiều khôn ngoan, nhưng điều đó có thể thực hiện được. Nếu Hội Thánh là một Hội Thánh Tự Do thì trên nguyên tắc sẽ có hi vọng về sự dự phần một cách tự do dành cho các tín đồ mới trong sự cầu nguyện và làm chứng giữa Hội chúng. Nếu bạn thuộc về một Hội Thánh có một giáo nghi nặng hình thức thì cơ may cho việc nầy có thể ít hơn, nhưng chính giáo nghi đã trải qua sự thử nghiệm theo thời gian, và nếu bạn bước vào trong tinh thần của nó thì cũng có thể được cất lên đến thiên đàng trong sự thờ phượng và sự tôn kính; và những lời được tôn trọng theo thời gian ngày xưa có thể có ích hơn là trở ngại. Tuy nhiên, cũng như nhiều sự việc khác, nó là một sự nếm biết được và đòi hỏi phải tập tành!
Sự thờ phượng chung thường tạo nhiều cơ hội để ngợi khen, và nếu bạn vừa mới đến cùng Đấng Christ thì sự ca ngợi sẽ là một phần rất quan trọng cho nghị trình thuộc linh của bạn. Bạn sẽ nhanh chóng khám phá rằng “Đức Chúa Trời ngự giữa sự khen ngợi của Y- sơ-ra-ên” – nghĩa là Ngài hiện diện một cách đặc biệt khi dân sự Ngài bắt đầu ngợi khen Ngài. Chúng ta ca ngợi Ngài vì Ngài là Đấng Tạo Hoá, Đấng Cứu Chuộc, Đấng ở trong chúng ta, Đấng yêu thương đời đời, là nguồn sự sống, niềm vui và sự bình an. Những yếu tố nầy vẫn còn luôn dù cho chúng ta có điều gì đặc biệt để cảm ơn Ngài vào lúc này vì những gì Ngài đang làm trong đời sống chúng ta hay là không. Sự ngợi khen là một phần quan trọng của đời sống Cơ đốc. Nó làm cho chúng ta trải lòng ra đối với các phước hạnh của Đức Chúa Trời và làm cho chúng ta nhạy cảm đối với sự hiện diện của Ngài theo một cách ít điều nào khác làm được. Sự ngợi khen sẽ dễ dàng khi ở trong đoàn thể có nhiều Cơ đốc nhân khác hơn là khi chỉ có một mình. Người tín đồ mới càng sớm quen đi đến nhà thờ để ca ngợi Đức Chúa Trời từ đáy lòng mình qua các bài thi thiên, thánh ca và các linh khúc sẵn có thì sức khoẻ thuộc linh của người ấy càng lành mạnh hơn. Còn sự cầu nguyện chung, đặc biệt là cầu nguyện cho những nhu cầu rộng rãi hơn là người ấy chỉ cầu nguyện cho nhu cầu của riêng mình, và trong một ngôi nhà mà đã được tôn thánh bởi bao thế hệ tín đồ cầu nguyện cùng Cha của họ, thì có cái giá trị riêng của nó.
Sự cầu nguyện theo tiểu tổ
Một chiều kích thứ ba của sự cầu nguyện được thấy xuất hiện trong các trang của sách Công- vụ các sứ-đồ. Đây là sự cầu nguyện theo tiểu tổ. Có một gương mẫu tuyệt hảo ở trong Công-vụ chương 4 khi hai sứ đồ Phi-e-rơ và Giăng, sau khi được thả ra khỏi ngục, đã hiệp chung với các môn đồ khác trong một buổi họp, không phải để phản kháng nhưng là để cầu nguyện. Chúng ta có thể thoáng nhìn vào bên trong buổi họp mặt cầu nguyện ban đầu trong các câu tiếp theo đó. Chúng ta cảm nhận được sự hiệp một của họ – “Mọi người… một lòng cất tiếng lên cầu Đức Chúa Trời” (câu 24). Họ hoàn toàn nương cậy nơi sự tể trị của Đức Chúa Trời và xem sự cầu nguyện là cách để tìm biết ý muốn của Ngài hơn là một sự cố gắng để làm thay đổi nó (câu 25 trở đi). Họ hay sử dụng các bài thi thiên trong sự cầu nguyện của họ (câu 26 trở đi) và họ chỉ trình dâng nhu cầu của mình ra trước mặt Chúa mà không đề nghị điều gì Ngài phải làm cả. Nhưng họ đã xin sự can đảm để làm chứng một cách dạn dĩ cho Chúa và xin cho quyền năng của Ngài được hiện diện ở giữa họ (câu 29 trở đi). Kết quả của sự cầu nguyện cũng đáng chú ý nữa. “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ”. Có nhiều gương mẫu khác về những sự cầu nguyện không theo hình thức như vậy ở trong các nhóm nhỏ khắp cả Tân ước. Một gương đáng chú ý là khi Phi-e-rơ bị cầm tù dưới triều vua Hê-rốt Ạc-ríp-ba. “Vậy, Phi-e-rơ bị cầm trong khám, còn Hội Thánh cứ cầu nguyện Đức Chúa Trời cho người luôn” (Cong Cv 12:5). Họ đã cầu nguyện. Đó là một sự hiệp chung cầu nguyện. Đó là một sự cầu nguyện sốt sắng. Đó là một sự cầu nguyện có Đức Chúa Trời hướng dẫn. Đó là một sự cầu nguyện đặc biệt. Dẫu vậy, khi sự đáp lời cho sự cầu nguyện của họ vào đến cửa, thì không ai tin nổi điều đó (Cong Cv 12:14 trở đi). Một sự xúc động rất là mang tính người! Tôi đã bị xúc động vì sự tự phát của một buổi cầu nguyện trên một bờ biển, được ký thuật ở trong Cong Cv 20:36 trở đi. Các trưởng lão tại Ê-phê-sô đã được thuyết phục rằng họ sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy người bạn và là người cố vấn của họ là Phao-lô nữa. “Phao-lô nói lời đó xong, bèn quì xuống và cầu nguyện với hết thảy các người ấy. Ai nấy đều khóc lắm, ôm lấy cổ Phao-lô mà hôn, lấy làm buồn bực, nhất là vì nghe người nói rằng anh em sẽ chẳng thấy mặt mình nữa. Đoạn, họ đưa người xuống tàu.”
Thế thì, rõ ràng rằng các Cơ đốc nhân trong thời ban đầu đã cầu nguyện riêng, đã cầu nguyện trong các buổi nhóm thờ phượng và cũng cầu nguyện trong các tiểu tổ khi họ gặp nhau ở trong nhà, hoặc ngay cả ở ngoài trời nữa. Đó là việc tự nhiên người Cơ đốc sẽ làm khi họ họp lại cùng nhau; nói tóm lại, họ là con cái của cùng một Cha ở trên trời. Người tín đồ mới càng sớm học biết cách cảm thấy tự nhiên trong ba cách cầu nguyện nầy, thì kinh nghiệm thuộc linh của họ sẽ càng phong phú. Trong lãnh vực nầy, cũng như trong nhiều lãnh vực khác, họ sẽ cần sự giúp đỡ, sự hỗ trợ và sự dạy bảo của những người đã làm Cơ đốc nhân lâu ngày hơn.
Họ dự Tiệc Thánh
Tiệc Thánh là một nét rất nổi bật ở trong sự thờ phượng của các Cơ đốc nhân ban đầu nhiều hơn là ở trong các hệ phái Tin Lành thời nay. Không giống như Lễ Vượt Qua, là lễ mà từ đó Tiệc Thánh đã xuất phát, Tiệc Thánh không được kỷ niệm theo hàng năm nhưng được kỷ niệm rất thường xuyên: có lẽ một tuần một lần vào ngày Chúa sống lại, tức là “Ngày của Chúa” (Chúa nhật) như các Cơ đốc nhân đã nhanh chóng gọi nó như thế (KhKh 1:10). Tiệc Thánh là một bí tích về sự tăng trưởng Cơ đốc cũng như báp-têm là một bí tích về sự sanh lại của người Cơ đốc.
Chúng ta có thể có được một ý tưởng nào đó về các lễ Tiệc Thánh ban đầu nầy qua ba chỗ ở trong Tân ước. Trong Cong Cv 2:42,46 chúng ta đọc thấy những người tin Chúa cứ giữ “lễ bẻ bánh”, và lễ nầy diễn ra “ở nhà”. Một người nào đó mời một nhóm người ăn bữa cùng nhau và kết thúc bữa ăn bằng lễ bẻ bánh như Chúa Jesus đã dạy họ để nhớ đến ơn Chúa đã hiến thân cho họ ở tại đồi Gô-gô-tha. Điều nầy thường diễn ra ban đêm, chúng ta có thể đoán chắc như vậy. Vì khi ấy công việc của ban ngày đã xong và mới có nhiều thì giờ.
Một sự mô tả ít ỏi thứ hai về một lễ Tiệc Thánh là ở trong Công-vụ 20, ở đây Phao-lô là khách danh dự trong khi các tín đồ nhóm lại để dự lễ bẻ bánh ở tại thành Trô-ách vào ngày thứ nhất trong tuần lễ. Đây là một cơ hội đáng ghi nhớ trong đó Phao-lô giảng rất lâu đến nỗi Ơ-tích đã ngủ gục và từ nơi cửa sổ té xuống. Nhưng chàng thanh niên nầy đã được chữa lành và buổi nhóm cứ tiếp tục cho đến rạng sáng. Lễ Tiệc Thánh trong thời ấy phải trổi hơn là một bữa tiệc so với ngày nay, nó là một cơ hội thờ phượng không chính thức và để thông công. Thì giờ dùng bữa được gọi là agapé, tức là tiệc yêu thương, mà sau này nó đã rơi vào chỗ sử dụng không đúng vì đã bị lạm dụng. Qua Giu-đe 12, dường như đôi khi sự vô luân đã xảy ra trong những giờ nhóm hiệp thân mật để thờ phượng nầy, và ICo1Cr 11:1-34 là khúc Kinh Thánh chính thứ ba của chúng ta về lễ Tiệc Thánh, nó cho thấy rõ rằng một số Cơ đốc nhân đã rất thiếu suy nghĩ.
Lễ Vượt Qua Cơ đốc
Tại Cô-rinh-tô, những người giàu có đến trước và ăn hết cả bữa tiệc, trong khi đó những người nô lệ phải làm việc muộn và khi họ đến thì chẳng còn gì nữa cả. Một tiệc yêu thương mà như vậy đấy! Do đó Phao-lô đã quở trách họ một cách nghiêm khắc, ông nhắc nhở họ về cái cách mà trong đó họ phải dự bữa tiệc thánh khiết nầy. Nó là một lễ vượt qua của người Cơ đốc (ICo1Cr 5:7), và giống như lễ Vượt qua, nó có ba chiều hướng. Như lễ Vượt qua đã hướng một cái nhìn hướng trở lại vào huyết của chiên con đã bảo đảm cho sự phóng thích các kẻ phu tù ở tại Ai-cập (XuXh 12:1-50), thì cũng vậy, lễ Tiệc Thánh nhìn trở lại dòng huyết của Chúa Jesus, dòng huyết ấy bảo đảm cho sự phóng thích các kẻ nô lệ cho tội lỗi ở nơi đồi Gô-gô-tha (ICo1Cr 11:25). Cả hai bữa tiệc đều có một cái nhìn hướng lên cùng Chúa, Đấng chu cấp và giữ gìn dân Ngài: đối với dân Y-sơ-ra-ên, lễ Vượt qua là lương thực cho một hành trình lao nhọc ở phía trước; còn qua lễ Tiệc Thánh người Cơ đốc được nuôi dưỡng bằng chính thân và huyết của Đấng Christ (ICo1Cr 10:16). Lễ Vượt qua còn có một khía cạnh thứ ba, đó là nó nhìn hướng đằng trước về đất hứa. Lễ Vượt qua của người Cơ đốc cũng như thế, “ấy vậy, mỗi lần anh em ăn bánh nầy, uống chén nầy, thì rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” (11:26). Tiệc Thánh dự bị trước cho sự chung kết lịch sử, chính về khía cạnh nầy mà nó là nét nổi bật ở trong lời trình thuật của Lu-ca (LuLc 22:14- 30). Là bản chất sinh động của bữa tiệc thông công như vậy, sinh động và hàm súc như là sự cứu rỗi mà Tiệc Thánh là bí tích của sự cứu rỗi ấy, chúng ta khó ngạc nhiên khi thấy rằng Phao-lô thúc giục người Cô-rinh-tô phải tự xét lấy mình khi dự bữa tiệc thánh khiết nầy (ICo1Cr 11:28). Kẻ nào dự tiệc một cách không cẩn trọng sẽ mắc tội phạm thượng, làm sỉ nhục thân và huyết của Chúa (11:27). Trong thực tế, sự đau ốm và sự chết đã bày tỏ về sự phạm thượng nầy (11:30 trở đi), điều quan trọng là Cơ đốc nhân cùng dự trong sự hiệp một, sự khiêm tốn và sự coi trọng lẫn nhau. Họ phải dự tiệc một cách chừng mực và không làm điều chi để tổn thương chi thể khác trong thân Chúa. Khi ấy Tiệc Thánh sẽ là một tiên vị của thiên đàng. Nó sẽ là một sự kỷ niệm vui mừng và đắc thắng về thập tự giá và sự phục sinh, họ cùng được nuôi dưỡng nhờ thân và huyết của Chúa trong sự hiệp một và trong tình yêu thương.
Cần phải mất nhiều năm để cho người tín đồ mới hiểu được bề sâu của lễ Tiệc Thánh. Người ấy sẽ không bao giờ đo dò được một cách đầy đủ những năm tháng đó. Nhưng họ có thể bắt đầu được nuôi dưỡng nhờ bữa tiệc thánh khiết nầy ngay khi họ chịu phép báp-têm vào trong Đấng Christ (dù rằng có nhiều Hội Thánh mong đợi dạy dỗ thêm trước khi thừa nhận những người trở về cùng Chúa trở thành tín hữu được dự Tiệc Thánh).
Phải chăng Tiệc Thánh là sự thờ phượng chính?
Về mặt lịch sử, đúng là phái Công giáo đã nhấn mạnh đến bí tích nầy còn phái Tin Lành thì nhấn mạnh đến Lời Đức Chúa Trời như là phương tiện ân điển để cho người Cơ đốc tăng trưởng. Về mặt biểu lộ, cả hai quan niệm đều là phiến diện. Tại sao chúng ta phải đi khập khễnh trên một chân khi mà Chúa nhân từ đã ban cho chúng ta hai chân? Trong sự khôn sáng của Ngài, Chúa Jesus đã để lại cho chúng ta một sự mầu nhiệm, sự mầu nhiệm về thân vị và sự hi sinh của Ngài, ở tại chính trung tâm của sự thờ phượng của chúng ta, và chúng ta càng tiến sâu vào đó thì chúng ta càng tiến sâu vào trong Ngài. Nhiều giáo hội phái Tin Lành đang khám phá ra tính trung tâm điểm của lễ Tiệc Thánh mà phái Công giáo và Phái Anh Em Cơ đốc đã đánh giá từ lâu. Tóm lại, đó là sự nhóm họp duy nhất mà Chúa đã để lại cho chúng ta. Nó là sự phô diễn quan trọng nhất biểu lộ ra sự thờ phượng Cơ đốc. Một trong những nét thú vị của sự thờ phượng thời nay là cách thức mà trong đó nhiều ân tứ Thánh Linh được khám phá một cách mới mẻ được phơi bày ra một cách tự nhiên nhất ở lễ Tiệc Thánh. Trong các hệ phái trong tầm từ Công giáo cho đến Ngũ Tuần, Tiệc Thánh đã trở thành điểm tập trung cho sự ca ngợi bằng tiếng lạ, lời nói tiên tri và sự chữa lành bịnh. Khó có thể ngạc nhiên về việc các Cơ đốc nhân ban đầu đã “giữ lễ bẻ bánh”. Nó đã là một trong những cách quan trọng để thắt chặt nhau vào một thân ở trong Đấng Christ và được nuôi dưỡng để đánh trận cho nếp sống Cơ đốc ở trong một xã hội ngoại giáo. Ngày nay nó vẫn còn như thế. Tôi thấy Hội chúng của chúng tôi, họ có bối cảnh xuất thân thuộc phái Tin Lành chiếm phần chế ngự, họ yêu thích giờ Tiệc Thánh hơn bất kỳ giờ nhóm họp nào khác. Họ sẽ không sẵn sàng để trở lại thời kỳ khi mà lễ Tiệc Thánh được dự vào lúc 8 giờ sáng, hoặc sau một buổi nhóm khác như là một giờ hành lễ phụ thêm. Ngày nay, nó được tổ chức vào một trong các giờ nhóm chính. Khi Hội Thánh rất đông đủ, chúng tôi chuyền bánh và chén dọc theo các dãy ghế, như vậy nâng cao được ý thức về sự hiệp một. Vào những lúc khác, chúng tôi dành cơ hội cho những người muốn đến để xin khải đạo hoặc để xin đặt tay khi họ nhận Tiệc Thánh. Thường có một sự hát xướng êm dịu các bài hát mới để thờ phượng. Cũng có một sự phát triển các lễ Tiệc Thánh tại tư gia trong các nhóm thông công tại khu vực. Các buổi lễ Tiệc Thánh nầy dường như có ý nghĩa và lợi ích nhất cho các buổi nhóm họp tiểu tổ. Như vậy sự nhấn mạnh của các sứ đồ về lễ Tiệc Thánh không phải là một cái gì đó tôi phải luôn luôn vâng giữ. Nhưng giờ đây tôi thực sự đang và hi vọng tiếp tục khám phá những sự sâu nhiệm hơn ở trong bí tích tuyệt diệu nhất nầy của sự cứu chuộc chúng ta mà nó vừa là phương tiện ân điển vừa là niềm hi vọng về vinh hiển.
Động cơ và phương pháp của họ
Sách nầy phát sinh từ lúc tôi được mời thuyết trình về Denman cho Hội Thánh Giám Lý Liên Hiệp ở tại Miami vào tháng Giêng năm 1978. Tôi đã bị lôi cuốn khi nghe một chút về con người đáng chú ý nầy, ông Harry Denman. Ông là một tín đồ, ông đã sống độc thân suốt cả đời mình vì cớ Đấng Christ. Ông là một người quen mặc chỉ một bộ trang phục và một đôi giày cho đến khi chúng cũ mòn thì ông mới thay chúng. Ông là một người không có lợi tức vững vàng, nhưng ông đáng tin cậy để giúp cho bất kỳ ai đang có cần số tiền mà ông có thể giúp được. Ông sinh sống nhờ những món quà của con cái Đức Chúa Trời giúp cho. Ông đã tổ chức những buổi nhóm, nhưng rất ít khi quảng cáo cho những buổi nhóm ấy. Tính chất đặc biệt của ông là việc cá nhân chứng đạo. Nếu được mời để chia sẻ trong một buổi nhóm thì ông nhanh trí nói cùng người đã gặp ông ở tại ga xe lửa rằng: “Được, chúng ta sẽ đi thăm ai trước tiên?”. Ông sẽ đi dọc theo bờ biển để tìm những con người cô đơn và nói chuyện cùng họ. Trong cuộc đời mình, ông đã dẫn đưa nhiều ngàn người đến cùng Chúa Jesus. Tại sao ông đã quan tâm đến? Bởi vì ông là một người có cùng một tinh thần như của các Cơ đốc nhân ban đầu. Ông đã bị thiêu đốt bởi cùng một niềm say mê để rao giảng Tin Lành.
Tin Lành ấy đã nắm bắt lấy Ba-na-ba, một địa chủ bảo thủ trong giáo hội đến nỗi ông đã bán cả điền sản mình, dâng hiến tiền bạc mình cho chính nghĩa và đã dâng mình để hầu việc Thầy của mình; nét đặc thù của ông là vui về sự thành công của kẻ khác và khích lệ mọi người trên đường mình đi, kể cả những nhân vật khó ưa như Sau-lơ người Tạt-sơ.
Tin Lành ấy cũng đã chụp bắt Phi-líp, một thương gia nói tiếng Hi-lạp (và có lẽ sống nếp sống Hi-lạp nữa) ở tại Sê-sa-rê đến nỗi ông là người đầu tiên được chọn làm người quản trị công việc Hội Thánh và sau đó đã khám phá ra mình có một ân tứ để truyền bá Tin Lành: nét đặc biệt của ông là luôn luôn ra đi đến cùng những người ở ngoài biên giới, chẳng hạn như những người Sa-ma-ri (mà không ai khác muốn đến gần họ), và hoạn quan Ê-thi-ô-bi. Ông cũng luôn mở cửa nhà mình, và chắc hẳn đó phải là một nơi hiếu khách. Trong nhà ông có bốn người con gái, họ đều được ơn nói tiên tri. Tên tuổi của họ hẳn đã lẫy lừng trong thế kỷ thứ hai!
Tin Lành ấy cũng đã nắm bắt Phi-e-rơ đến nỗi tâm tính mềm yếu hay thay đổi của ông đã được đổi ra thành vững chắc như đá. Ông đã thấy những thiên kiến của mình về cuộc đời tan chảy ra khi ông chia sẻ Tin Lành về một Cứu Chúa cho một loại người mà ông vốn đã thường khinh dể, đó là Cọt-nây, người dân ngoại. Trong khi làm như thế ông đã vi phạm mọi luật lệ của Hội Thánh mình và ông không hối tiếc chi cả. Nét đặc biệt của ông dường như là phải không ngừng lưu hành đây đó khắp nơi vì cớ Chúa của mình. Bạn có thể thấy ông ở tại Giê-ru-sa-lem, An-ti-ốt, những vùng ngoài bìa của nước Nga, hoặc là ở La-mã.
Tin Lành ấy cũng đã níu kéo Sau-lơ người Tạt-sơ, đến nỗi ông đã từ bỏ sự an ninh của mình, sự ngạo mạn về tri thức của mình (chớ không phải khả năng tri thức của mình), địa vị xã hội của mình, tương lai của mình, tài chánh của mình – để mà suốt đời làm một người giảng Tin Lành, một giáo sĩ, một nhà thân oan, một nhà chiến lược và một tuận đạo nhân vì cớ Chúa Jesus mà ông đã có lần khước từ một cách quyết liệt.
Tin Lành ấy cũng đã nắm chặt lấy các tín hữu vô danh đến nỗi họ ra đi một hành trình thật xa xôi từ Giê-ru-sa-lem để mà rao báo một cách không chính thức cho mọi người nào họ gặp được về Chúa Jesus. Hầu như do lầm lỗi, họ đã thành lập Hội Thánh mà đã trở thành bàn đạp cho sự truyền bá Tin Lành toàn thế giới, ở tại An-ti-ốt trên miền Orontes, thủ phủ của xứ Sy-ri.
Tại sao tất cả họ đều phải trăn trở như vậy?
Những động cơ trong sự truyền bá Tin Lành
Cần phải có những động cơ mạnh mẽ nếu chúng ta muốn có can đảm để bắt đầu nhiệm vụ gian khổ nầy, nơi mà có những khó khăn cần phải vượt qua, những cơ hội được mở ra và phải hi sinh thì giờ. Cần phải có những động cơ mạnh mẽ nếu chúng ta không muốn bỏ cuộc trong sự chán nản khi chúng ta thấy những cố gắng của mình chỉ đem lại kết quả ít ỏi. Thực ra, có những động cơ mạnh mẽ, và các Cơ đốc nhân ban đầu đã biết rõ những động cơ ấy và đã bị chúng thôi thúc. Đây là những động cơ ấy.
Họ đã trăn trở vì cớ tình yêu thương của Đức Chúa Trời
Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài. Ngài có một Con Trai duy nhất, và Con Trai ấy đã là một nhà truyền giáo. Hơn nữa, chính tình yêu của Đức Chúa Trời đã được vun cấy trong lòng của các tín đồ (RoRm 5:5) và như vậy không có gì phải ngạc nhiên khi họ bắt đầu chia sẻ về thái độ của Cha thiên thượng cho kẻ bị hư mất.
Họ đã trăn trở vì cớ mạng lịnh của Đấng Christ
Trong Mat Mt 28:18-20 chúng ta thấy lời giã từ của Chúa Jesus nói cùng các môn đồ Ngài. Ngài quả quyết với họ rằng hết thảy quyền phép trên trời và dưới đất đã được giao cho Ngài. Ngài hứa rằng Ngài sẽ ở với họ cho đến lúc tận thế. Sau đó Ngài đã cho họ lời huấn dụ lúc chia tay: Họ phải đi khắp thế gian, biến muôn dân trở nên môn đồ Ngài. Họ có thể đòi hỏi lời hứa của Ngài về quyền năng và sự hiện diện của Ngài chỉ khi họ vâng theo mạng lịnh cuối cùng ấy. Chúng ta coi trọng những lời trăn trối cuối cùng của những người mà chúng ta thật lòng yêu mến. Các Cơ đốc nhân đầu tiên cũng đã làm như vậy; và đây là mạng lịnh cuối cùng của Đấng Christ. Có lẽ đó là lý do tại sao họ đã dâng mình một cách không trì hoãn cho sự truyền bá Tin Lành.
Họ đã trăn trở vì cớ sự thôi thúc của Đức Thánh Linh
Đức Thánh Linh được ban cho chúng ta không phải để làm cho chúng ta được tiện nghi nhưng để làm cho chúng ta trở thành những nhà truyền giáo. Các môn đồ đang thắc mắc một cách mơ hồ khi nào kỳ tận thế sẽ đến, và Chúa Jesus đã bảo họ rằng đó không phải là việc của họ. Họ phải chờ đợi Đức Thánh Linh giáng lâm, Ngài sẽ ban quyền năng cho họ để ra đi lan rộng mãi từ thành Giê-ru-sa-lem, đến xứ Giu-đê, đến Sa-ma- ri, và cho đến cùng trái đất (Cong Cv 1:8). Với các Cơ đốc nhân ban đầu, không thể quan niệm rằng bất kỳ người nào đã có thể nhận lãnh Thánh Linh của Đức Chúa Trời mà lại không bị thiêu đốt và được trang bị để nói về Chúa mỗi khi họ có cơ hội.
Bạn có thấy rằng ba động cơ đầu cho sự truyền bá Tin Lành nầy đều được đâm rễ trong bổn tánh của Đức Chúa Trời Toàn Năng không? Chúng tạo một nền tảng ba ngôi cho sự truyền bá Tin Lành. Chúng ta được kêu gọi để chia sẻ Phúc âm, bởi vì Đức Chúa Trời giống như vậy. Sự truyền bá Tin Lành là công việc bên ngoài của tình yêu thương của Đức Chúa Con thông qua các Cơ đốc nhân. Nó chính là sự thực hiện sự thôi thúc của Đức Thánh Linh bởi các Cơ đốc nhân vậy. Đó là lý do tại sao họ phải họ phải băn khoăn trăn trở. Bởi vì Đức Chúa Trời, Đấng đã tự bày tỏ chính mình Ngài ra cho họ. Điều đó há không đủ sao? Phải, nó sẽ không đủ cho hầu hết chúng ta dùng hầu hết thì giờ. Chúng ta chỉ ngồi đó mà nói “tốt lắm” – và trút trách nhiệm cho ai khác. Vì vậy Kinh Thánh Tân ước đã đưa ra cho chúng ta những lý do khác tại sao họ phải băn khoăn trăn trở.
Họ trăn trở vì cớ trách nhiệm của họ
IICo 2Cr 5:20 nói đến người Cơ đốc như là vị đại sứ của Đấng Christ, người nhân danh Đấng Christ nài xin người ta hãy hoà thuận lại với Đức Chúa Trời. Một vị đại sứ đại diện cho tổ quốc của mình ở nơi đất khách và chịu trách nhiệm truyền đạt lại những đường lối chính sách của đất nước mình. Nếu cuộc sống người ấy không xứng đáng thì người ta sẽ không cần tìm hiểu về đất nước của người ấy. Nếu người ấy giữ im lặng thì họ sẽ không được nghe. Người ấy có một trách nhiệm lớn lao với tư cách một đại sứ. Trách nhiệm đó là của chúng ta. Chúng ta là toà đại sứ của Đấng Christ trong một đất xa lạ và đôi khi còn là thù địch nữa. Ngài tin cậy nơi chúng ta. Như Phao-lô đã phản ánh điều đó, ông thấy rằng Đức Chúa Trời cho chúng ta được dự phần. “Chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời” (ICo1Cr 3:9). Nếu như chúng ta không làm được thì sao? Như Phao-lô đã nói, chúng ta mắc nợ cả người Do-thái lẫn người Hi-lạp (RoRm 1:14). Nếu chúng ta không làm tròn nghĩa vụ của mình thì sẽ ra sao? Câu trả lời được đưa ra trong một câu chuyện ở trong bộ Thứ Kinh về những gì đã xảy ra khi Chúa Jesus trở về thiên đàng sau khi Ngài thăng thiên. Ngài đã được đoàn thiên sứ chào đón, và thiên sứ Gáp-ri-ên hỏi Ngài về những kế hoạch mà Ngài đã làm để tiếp tục công việc của Ngài ở trên đất. Ngài đã trả lời rằng: “Ta đã để lại đấy mười một người, và ta đã ủy thác nhiệm trêny cho họ”. Thiên sứ Gáp-ri-ên lại hỏi: “Nhưng nếu như họ thất bại thì sao?”. Chúa Jesus đã trả lời: “Nếu như họ thất bại – thì ta cũng chẳng còn kế hoạch nào khác.”
Họ trăn trở vì cớ đặc ân lớn lao của họ
Thật là một điều lạ lùng khi Đức Chúa Trời kêu gọi người khác thông qua chúng ta. Thật là một điều kỳ diệu khi Đức Chúa Trời gửi gắm hạt châu quí giá của Ngài vào nhưng chiếc bình đất của chúng ta. Nhưng Ngài đã thực sự làm điều đó. Phao-lô đã phân tích điều đó ở trong IICo 2Cr 4:1. Có đủ mọi lý do tại sao ông phải ngã lòng, phải thành kẻ hèn nhát trong ánh sáng của những áp lực từ phía bên trong và từ sự chống đối ở bên ngoài xảy đến cho ông trên bước đường ông rao giảng Tin Lành. Con người ấy không biết nghỉ ngơi sao? Con người ấy không biết ngã lòng sao?
Ông nói cho chúng ta biết có hai điều đã giữ ông khỏi mọi sự đó. Một mặt, ông hồi tưởng lại mình đã nhận được sự thương xót như thế nào. Kẻ phạm thượng, kẻ bắt bớ chính là ông nhưng ông đã được tha thứ, đã được Đức Chúa Trời tiếp nhận, được xưng nghĩa. Ông không bao giờ quên được điều đó. Khi lòng ông trở nên nguội lạnh thì ông nhìn trở lại thập tự giá và thấy rằng sự giải cứu bằng một giá cao của ông đã chứng thực cho Chúa của mình như thế nào. Cái ý tưởng đó làm cứng vững gân cốt của ông, làm khôi phục lòng nhiệt thành đang tắt dần của ông. Thật khó để nhìn xem Cứu Chúa đã bị đóng đinh và nói rằng “Con chịu thôi, con không quan tâm đủ để nói cho người khác về những gì Ngài đã làm”. Một ý tưởng khác đã làm cảm động ông đó là điều nầy: Ông đã nhận lãnh “chức vụ nầy”. Chính ông, Sau-lơ. Không bao giờ ông thôi ngạc nhiên khi thấy rằng đặc ân đại diện cho Chúa đã không được uỷ thác cho các thiên sứ, cho các vua, hay cho cách chính khách lão luyện, nhưng được uỷ thác cho những tội nhân đã được tha thứ. Cha Thiên thượng đã nhận chúng ta vào trong gia đình của Ngài và cho chúng ta dự phần trong công việc của gia đình. Đó là một công việc mà chúng ta sẽ không bao giờ bị mất việc và không bao giờ cầu xin nghỉ hưu. Đức Chúa Trời đã quyết định rằng Ngài sẽ chỉ phán thông qua tiếng nói của những tội nhân đã được phục hoà trong việc tìm đến với những tội nhân chưa được phục hoà. Đó thật là một đặc ân cho chúng ta. Tôi nghĩ rằng sự bao la của đặc ân đó đã thôi thúc Phao-lô càng nhiều hơn khi ông càng cao tuổi. Nó đem ông đến chỗ càng ngày càng hạ mình trước Chúa và Cứu Chúa của ông. Trong ICo1Cr 15:9 ông kể rằng mình chẳng xứng đáng được gọi là một sứ đồ bởi vì ông đã bắt bớ Hội Thánh. Nhưng ông đã đánh giá mình thấp hơn nữa vào lúc ông viết khúc Kinh Thánh Eph Ep 3:7-9, ở đó ông đang nói đến đặc ân kỳ diệu của việc rao báo cho dân ngoại đến nỗi họ có thể trở thành những kẻ đồng kế tự. Ông nói “ân điển đó đã ban cho tôi là kẻ hèn hơn hết mọi thánh đồ” (tạo thành một từ ngữ trong sự cảm kích của ông). Ông còn hạ mình hơn nữa khi ông phản ảnh đặc ân nầy vào lúc ông bàn đến nó ở trong ITi1Tm 1:15, ông thấy chính mình là “kẻ đứng đầu của mọi tội nhân”. Nhưng, người tội khôi ấy được ban cho cái đặc ân rao báo cho những tội nhân khác về Cứu Chúa. Suốt cả đời mình, ông có một ý thức càng gia tăng về đặc ân được hầu việc Chúa trong sự truyền bá Tin Lành, và càng ý thức về sự không xứng đáng của mình.
Họ băn khoăn vì cớ nhu cầu của những người khác
Theo Eph Ep 2:1, những người nam, người nữ không có Đấng Christ là những người đang chết – tội lỗi họ đã cắt đứt họ ra khỏi sự sống của Đức Chúa Trời cũng như sự chết cắt đứt con người khỏi cuộc sống của bạn hữu họ vậy. Dù họ đang sống về mặt tinh thần, về mặt thể xác và về mặt tình cảm, nhưng họ là những người đang chết về mặt thuộc linh. Đã có một ý nghĩa lớn về sự đang chết nầy, sự vắng mặt mục đích và ý nghĩa nầy, trong những năm gần đây, khi mà phim ảnh, những bài hát, những vở kịch thời nay biểu lộ rõ ràng ra như vậy. Người ta nhắc đi nhắc lại rằng tình yêu đang chết, thời trang đang chết, tình dục đang chết, Đức Chúa Trời đang chết. Đó là chỗ mà có quá nhiều người chung quanh chúng ta đang ở, trong khi chúng ta tìm thấy ở trong Đấng Christ thần dược cho sự sống! Thật là một trách nhiệm nấy trên vai chúng ta phải chia sẻ thứ thần dược đó. Theo chính lời của Chúa Jesus và chính sự đánh giá của người ta thì xã hội đã bị lạc lối, và con người đang thật bị khủng hoảng. Con người không biết mình là ai, mình đang đi đâu và sống để làm gì.
Giờ đây Chúa Jesus đã đến tìm và cứu kẻ bị hư mất (LuLc 19:10). Nhưng người ta không nhận thức được điều nầy. Họ tưởng rằng Cơ đốc giáo là luật lệ, là đi nhà thờ, là nghĩa vụ, và họ không có một ý niệm nào rằng Chúa Jesus có thể đáp ứng những nhu cầu và những nguyện vọng sâu xa của họ. “Nếu Tin Lành của chúng tôi còn che khuất, là chỉ che khuất cho những kẻ hư mất” (IICo 2Cr 4:3). Đó là một sự đánh giá thực tiễn về trạng huống nầy. Nhưng tại sao họ không thấy được tình trạng nguy khốn của họ và quay trở về cùng Đấng duy nhất có thể cứu họ ra khỏi đó? Bởi vì “chúa của đời nầy đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Đấng Christ”. Phao-lô tin rằng có một “trở lực bên ngoài” lớn lắm đối với sự truyền bá Tin Lành. Kẻ thù nghịch rất xuất sắc trong sự truyền bá và làm mù lòng người ta cả về nhu cầu của họ lẫn về những gì Đấng Christ có thể làm. Sa-tan không quan tâm đến họ đẹp, họ tốt như thế nào, họ thành thật ra sao hay họ mộ đạo như thế nào, bao lâu mà hắn có thể cản ngăn lẽ thật về Chúa Jesus chiếu rọi qua tâm trí họ và dẫn họ đến chỗ thay đổi các phương diện. Sự thông hiểu về nhu cầu của những người không có Đấng Christ của thời Tân ước là như thế đấy. Họ xem sự truyền bá Tin Lành là khiến cho người ta “tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, sau khi đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (IITi 2Tm 2:26). Chúng ta sẽ không có ích dụng nhiều trong sự truyền bá Tin Lành trừ phi chúng ta được chuẩn bị để thanh toán sự chống đối nầy của Sa-tan. Cũng như Chúa Jesus trước họ, họ thấy Sa-tan là vua chúa tiếm ngôi của đời nầy, hắn giành lấy cái chỗ mà lẽ ra phải là của Đức Chúa Trời ở trong lòng kính yêu của người ta. Để chắc chắn, họ đã biết rằng Chúa của họ là mạnh hơn; “Đức Chúa Trời, là Đấng có phán: ‘Sự sáng phải soi từ trong sự tối tăm’, đã làm cho sự sáng Ngài chói loà trong lòng chúng tôi, đặng sự thông biết về vinh hiển Đức Chúa Trời soi sáng nơi mặt Đức Chúa Jesus Christ” (IICo 2Cr 4:60) – và nếu Ngài đã làm điều đó cho chúng ta, thì Ngài cũng có thể làm điều đó cho những người khác thông qua chúng ta. Nhưng Ngài không thể làm được điều đó nếu chúng ta không tham gia vào chiến trường thuộc linh ác liệt bằng cách dấn thân cầu nguyện. Vì người ta, như Phao-lô đã nói, “Không có sự trông cậy và không có Đức Chúa Trời ở thế gian” (Eph Ep 2:12). Thật rất khó để tin điều nầy, nhất là với những người có sức quyến rũ và những bạn hữu của chính chúng ta. Nhưng tôi chắc rằng đã có lần tôi nhìn thấy những người như vậy ở chung quanh tôi đã bị hư mất, vốn ở dưới sự kiểm soát của Kẻ Thù nghịch đã cố tâm giữ họ cách xa Đấng Christ – và rồi khi ấy niềm khát vọng về sự truyền bá Tin Lành đã được nhen nhúm ở trong lòng tôi. Điều đó đã xảy ra hơn hai mươi năm về trước, và nó vẫn còn là một trong những đòn bẩy mạnh mẽ ở trên ý chí lãnh đạm của tôi để thúc đẩy tôi ra đi trong sự phục vụ với lòng yêu thương.
Dĩ nhiên, đây là một trong những giáo lý không hợp thời nhất, nhưng nó là sự dạy dỗ không thể nghi vấn được của Tân ước. Nó nói đến hai khu vực: miền tối tăm và miền ánh sáng. Nó nói đến hai quyền lực: quyền lực của Sa-tan và quyền lực của Đức Chúa Trời. Nó nói đến hai người cai trị: Chúa của đời nầy và Đức Chúa Trời Toàn Năng. Nó nói đến hai con đường: đường rộng dẫn đến sự huỷ diệt và đường hẹp dẫn đến sự sống. Nó nói đến hai sự lựa chọn: chọn Đấng Christ hay chọn chống nghịch Ngài. Nó nói đến hai nhóm: lúa mì và cỏ lùng, người khôn và kẻ dại, ở trong hay ở ngoài tiệc yến lớn, có Đấng Christ hoặc không có Đấng Christ. Không có vùng đất trung lập. Đó chính là điều đã thúc đẩy Phao-lô và các nhà truyền giáo ban đầu bước vào trong một sự phục vụ không trì hoãn. Họ đã có một sự nhận biết rõ ràng, không lãng mạn về nhu cầu lớn lao của những người chưa được tiếp xúc với Đức Chúa Trời. Đại Tướng Booth, người sáng lập Cứu Thế Quân đã bị xúc phạm cùng một nhận thức như vậy bởi một người vô thần, người nầy đã nói rằng: “Nếu tôi đã tin điều mà người Cơ đốc các anh tin thì tôi sẽ bò khắp nước Anh bằng đôi tay và đầu gối, nếu cần, để nói cho người ta biết về điều đó”. Một khi bạn đã bị nắm chặt bởi nhu cầu của những người chưa biết đến Chúa Jesus Christ của bạn, thì bạn sẽ không cần động cơ nào khác để rao giảng Tin Lành với mọi sức mạnh bạn hoạch định được.
Họ trăn trở vì nó đem lại niềm vui
Những Cơ đốc nhân ban đầu ấy đã thấy rằng không có niềm vui nào giống như nó. Hãy lắng nghe khúc Kinh Thánh ITe1Tx 1:5-6: “Vả, đạo Tin Lành chúng tôi đã rao truyền cho anh em không những bằng lời nói thôi, lại cũng bằng quyền phép, Đức Thánh Linh, và sức mạnh của sự tin quyết nữa… Anh em… lấy sự vui vẻ của Đức Thánh Linh mà tiếp nhận đạo giữa lúc nhiều sự khốn khó”. Niềm vui ở trong lòng của những người tin Chúa cũng đã có ở trong các nhà truyền giáo nữa. “Vì… Sự vui mừng… của chúng tôi là gì? Há chẳng phải là anh em… sao?” (ITe1Tx 2:19). Hoặc chúng ta hãy lắng nghe lời mở đầu đầy cảm động của IGi1Ga 1:1 – đó là lời làm chứng cá nhân thật cảm động của Giăng về Ngôi Lời đã trở nên xác thịt (“điều mắt chúng tôi đã thấy… và tay chúng tôi đã rờ”). Tại sao ông đã cao rao điều đó? “hầu cho anh em cũng được giao thông với chúng tôi… hầu cho sự vui mừng của chúng tôi được đầy dẫy”. Hoặc, như IIIGiăng 4 đã nêu ra: “Tôi nghe con cái tôi làm theo lẽ thật thì không còn có sự gì vui mừng hơn”. Ông hoàn toàn nói đúng. Không có niềm vui vào giống như vầy. Tuần trước tôi đã gặp một điều thật ngạc nhiên. Tôi được tiễn lên phi cơ ở tại Toronto bởi một cô gái người Ghana mà tôi đã dẫn đến cùng Đấng Christ bảy năm về trước ở tại Ghana. Đó là một niềm vui khôn xiết cho cả hai chúng tôi. Đêm hôm qua, tôi đi nhóm thì có một người đàn ông Trung Hoa đến gặp tôi. Tôi đã có niềm vui về việc giới thiệu ông ta cho Chúa năm năm trước. Thật là một điều đáng kinh ngạc, vì đây là Vancouver,tôi gặp ông ta lần cuối cùng ở Derby! Nhưng niềm vui ấy thật trinh nguyên và sâu đậm. Tôi tin rằng nó là niềm vui lớn nhất ở trong thế gian nầy. Thành thật mà nói, đó là một trong những lý do tại sao tôi tham gia vào sự truyền bá Tin Lành. Các Cơ đốc nhân ban đầu dường như đã truyền bá Tin Lành vì lý do nầy nữa. Không có niềm vui nào giống như vậy.
Đó là bảy động cơ đã bùng cháy trong tâm tình và lương tâm của những môn đồ ban đầu. Chúng đáng được cân nhắc kỹ lưỡng. Nếu chúng bùng sáng trong chúng ta, thì chúng ta sẽ tham gia vào việc chia sẻ Tin Lành cho tới phút cuối cùng của đời mình. Nếu không, thì không có phương pháp đáng kể nào (mà chúng ta sẽ xem xét bây giờ) đem lại kết quả tốt cả. Nan đề lớn nhất trong sự truyền bá Phúc âm không phải là tìm ra các phương pháp (ở đâu có ý chí thì ở đó sẽ có phương cách), nhưng là được thôi thúc. Nếu gương mẫu của Ba Ngôi thánh, đặc ân và trách nhiệm được nấy trên chúng ta, nhu cầu của những người không có Đấng Christ, và niềm vui khôn tả của sự hầu việc Ngài theo cách nầy không làm cảm động chúng ta thì tôi chẳng biết có điều gì sẽ làm được.
Các phương pháp trong sự truyền bá Tin Lành
Tôi không chắc rằng bàn đến các phương pháp là việc quan trọng. Một mặt, các Cơ đốc nhân ban đầu đã không có điều chi phi thường ở trong lãnh vực nầy. Mặt khác, thật vô ích để cho rằng những Cơ đốc nhân không truyền bá Tin Lành bởi vì họ không biết phải làm điều gì. Không phải sự không biết nhưng là sự thôi thúc mới là nan đề. Hội Thánh ngày nay có đầy dẫy các phương pháp truyền bá Tin Lành (cùng với các khoá huấn luyện và các buổi hội thảo) nhưng đã chẳng làm được gì nhiều. Không có đủ lửa ở trong lòng. Một khi lửa bùng lên ở đó thì người ta sẽ tìm ra phương pháp. Tôi thấy trong Hội chúng của chúng tôi những người truyền bá Tin Lành giỏi nhất là những người làm một Cơ đốc nhân trong thời gian ngắn nhất (những người vừa mới tin Chúa) – họ chưa bị hư hỏng do việc tham dự các khoá học về truyền bá Tin Lành hay là do việc đọc các tài liệu hướng dẫn thích hợp! Tôi còn nhớ rất rõ một người miền Texas mô tả cách thức anh đã lái xe đi ngang qua một cơn lốc bụi. Anh đóng kín các cửa sổ, bít kín các khe hở mà anh biết ở trong xe, và rồi cứ lái, lái mãi. Nhưng sự việc xảy ra khác hẳn. Cát bụi bị gió thổi vẫn cứ chui vào trong xe. Cơ đốc nhân cũng hoạt động giống như vậy. Nếu gió của Thánh Linh đang thổi họ, thì họ sẽ đi xuyên qua dù cho họ biết rất ít phương pháp hoặc dù cho có những sự chống đối dường như không thể thâm nhập vào nổi. Tuy nhiên, các cách tiếp cận mà các Cơ đốc nhân ban đầu đã chấp nhận thì rất có ý nghĩa và gây kích động. Để làm mẫu, đây là tám cách tiếp cận mà hầu hết các Hội Thánh địa phương có thể sử dụng, nếu họ có tâm tình dầu cho nguồn tài nguyên của họ rất ít ỏi.
Mỗi tín hữu đều ra đi làm chứng.
Đó là sự khác biệt lớn nhất giữa Hội Thánh thời Tân ước và Hội Thánh của chúng ta. Trách nhiệm làm chứng cho Chúa Jesus của họ hoàn toàn ở trên mỗi một người tín hữu. Bạn sẽ thấy điều đó ở trong những tiểu tiết lạ kì của Tân ước: Giu-đe thúc giục độc giả của mình bằng ngôn từ đồ hoạ “hãy cứu vớt những kẻ kia, rút họ ra khỏi lửa” (Giu Gd 1:23). Ti-mô-thê, dầu bản tính hay thẹn thùng chớ không phải là một nhà truyền giảng Tin Lành, dù sao cũng được truyền phải”làm việc của người giảng Tin Lành” và “giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời” (IITi 2Tm 4:5,2). Bạn có thể tìm thấy điều đó ở những nơi khác nữa. Trong ITe1Tx 1:8, ông Phao-lô vui mừng rằng đạo của Đức Chúa Trời đã được đồn ra từ nơi những Cơ đốc nhân ở Tê-sa-lô- ni-ca mới mẻ, non nớt nầy và đức tin của họ đặt nơi Đức Chúa Trời đã lan ra như đám cháy. Còn trong Cong Cv 8:1,4, chúng ta thấy những người lãnh đạo ở thành Giê- ru-sa-lem sợ hãi ẩn mình trên một phòng cao, trong khi đó những tín đồ bình thường bị tản lạc do một sự bắt bớ xuất phát từ sự chết của Ê-tiên. Họ đã làm gì? Họ đã đi khắp nơi rao truyền Tin lành. Đó là chức vụ của mỗi tín hữu ở trong thời đó. Truyền bá Tin Lành là sự bàn tán tự nhiên về Tin Lành. Nó được các Cơ đốc nhân tham gia một cách tự nhiên, một cách liên tục, một cách dễ dàng và một cách vui mừng bất cứ nơi nào họ đi đến. Ông Harnack nhận xét một cách đúng đắn rằng sự truyền giáo của Hội Thánh ban đầu trong thực tế được hoàn thành đến một mức độ lớn bởi các giáo sĩ không chính thức. Các Cơ đốc nhân đã đi dong ruổi từ xóm nầy đến xóm khác, từ làng nọ đến làng kia, để mà chinh phục những người mới trở lại cùng Chúa của mình.
Điều đó há chẳng phải là một sự khác biệt lớn với thời đại của chúng ta hay sao? Thời nay, sự truyền bá Tin Lành không đều đặn (nếu như có sự truyền bá Tin Lành), tốn kém, do các mục sư điều khiển và tuỳ thuộc vào tài năng của những nhà truyền giảng thường trú hoặc của những nhà giảng đạo chuyên nghiệp đến viếng thăm. Đó là một sự rồ dại quá chừng. Tôi còn nhớ chuyến đi đến Manchester để giảng trong một nhà thờ danh tiếng đầy nghẹt người. Nhiều người đã đáp ứng sự thách thức của Tin Lành và họ ở lại sau đó để bày tỏ cụ thể sự phó dâng đời mình cho Đấng Christ. Ít khi tôi được thấy một sự đáp ứng như vậy và tôi muốn biết điều gì nằm ở phía sau sự đáp ứng đó. Nhưng khi nói chuyện với các tín đồ mới nầy, tôi đã tìm ra điều ấy. Khi được hỏi họ có ai mà họ nghĩ rằng có thể giúp họ trong những ngày đầu theo Chúa không, thì không có một ngoại lệ nào, họ đều chỉ đến một người đồng hành tự ẩn mình đứng cách xa đó vài thước. “Có chớ, có ông Bill, ông ấy đã mời tôi đến đây. Thực ra ông ấy đã nói chuyện với tôi vài lần về việc trở thành một người Cơ đốc rồi. Ông ấy có thể giúp đỡ tôi”. Đó là một loại đáp ứng. Nó chỉ đến cái bí quyết của sự sinh động của Hội Thánh ấy: họ đã không cậy nơi tài ba của vị mục sư có khả năng của họ, nhưng mỗi người nhận thức được trách nhiệm của mình để sống, làm việc và rao báo cho Chúa Jesus. Đó là cách Tin Lành được lan truyền. Nếu bạn muốn có sự truyền bá Tin Lành ở trong Hội Thánh của mình thì đừng mướn một diễn giả lừng danh. Hãy gây dựng Hội chúng để làm chứng nhân không chính thức. Và rồi Hội Thánh sẽ phát triển.
Họ hoạt động hướng ra xa trung tâm
Há chẳng phải Chúa Jesus đã nhấn mạnh rằng họ phải bắt đầu nhiệm vụ của họ “khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem”, ngay chỗ họ đang ở đó sao? Há chẳng phải Ngài tập trung công việc của Ngài vào mười hai sứ đồ đó sao? Từ mười hai người nầy chúng ta thấy có 120 người trong những ngày trước Lễ Ngũ Tuần, và rồi lên đến 3000 người trong chính ngày ấy, và từ đó trở đi, đức tin lan rộng ra mãi từ Giê-ru-sa-lem hướng đến La- mã. Ở đây chắc chắn có một sứ điệp cho Hội Thánh hoạt động hướng nội thời nay. Từ Hội Thánh ban đầu, chúng ta không nhận được ý niệm về sự thăm viếng các vùng chung quanh với hi vọng rằng sẽ có một điều gì đó xảy ra cho một ai đó. Dĩ nhiên, công việc nầy có vị trí của nó nhưng nó kém quan trọng và kém hiệu quả hơn việc hoạt động để làm cho trung tâm của Hội Thánh thực sự nóng bỏng. Qua kết luận của Công-vụ chương 2 và 4, không khó để phân biệt được rằng đây là sự ưu tiên đối với các Cơ đốc nhân ban đầu. Sự thông công của họ thật sinh động; chúng ta thấy họ cùng san sẻ nhà cửa, cùng ngợi khen Đức Chúa Trời, cùng cầu nguyện cho đến khi nơi nhóm lại rúng động, tham gia truyền bá Tin Lành ngoài đường phố, yêu thương và chăm sóc lẫn nhau, học hỏi lẫn nhau. Họ được hâm nóng bằng lửa Thánh Linh đến nỗi người ta bị cuốn hút vào như bởi một dòng xoáy. Mỗi ngày Đức Chúa Trời lấy thêm vào Hội Thánh những người Ngài đang cứu vớt họ. Trong ba năm tôi đã ở tại Oxford, tôi đã biết hai thời kỳ mà Đức Chúa Trời mỗi ngày lấy thêm người vào Hội Thánh. Người ta đến gõ cửa nhà và hỏi cách thức để trở thành người Cơ đốc. Một số người trong họ trước kia người ta không bao giờ thèm để mắt đến. Tôi không biết tại sao việc đó không xảy ra thường xuyên hơn. Nhưng tôi biết chắc nó có thể xảy ra. Tôi nghĩ rằng nó sẽ xảy ra khi có sự nồng thắm, có tình yêu thương, sự sống động và sự kỳ vọng ở tại trung tâm của sự sinh hoạt Hội Thánh. Nếu chúng ta thật sự muốn đi ra truyền bá Tin Lành thì chúng ta phải lưu tâm đến sự sống ở tại trung tâm. Nếu nó không mở ra cho Thánh Linh của Đức Chúa Trời, nếu nó không nồng thắm và không có sự quan tâm chăm sóc, thì bạn đang tốn phí thì giờ để ra đi đến những nơi xa xôi chung quanh.
Họ tập trung vào “vùng ngoài biên của sự kính sợ Đức Chúa Trời”
Có một vùng ngoại biên rất rộng lớn ở ngoài ven của hầu hết các nhà hội ở trong thế kỷ thứ nhất. Nhiều người đã ngừng lại ở việc chịu phép cắt bì và việc gia nhập vào dân Do-thái, nhưng họ cũng tham gia sự thờ phượng của họ, tán thưởng độc thần giáo của họ và bị làm cho kinh ngạc bởi Thánh Kinh của họ. Trình thuật của sách Công-vụ cho thấy rằng chính ở nơi vùng ngoại biên nầy mà các nhà truyền giáo Cơ đốc đã thành công một cách rõ ràng. Nhiều lần chúng ta thấy họ giảng dạy để truyền bá Tin Lành trong những hoàn cảnh thuộc loại nầy.
Công-vụ chương 13 là một khuôn mẫu cho sự giảng dạy ở trong Hội Thánh nơi mà phần lớn những người hiện diện là những thành viên vùng ngoại biên (của lễ Nô-ên, của lễ Phục sinh và đại loại như vậy). Ông Phao-lô đã bắt đầu đúng ngay chỗ người ta đang ở (câu 16). Ông đã trình bày Kinh Thánh là đáng kính như thế nào và nó đã trở thành đúng thật (câu 17 trở đi). Ông đã nói cho họ về Đức Chúa Trời hành động ở trong hoàn cảnh đương thời (câu 23) và điều nầy luôn luôn thu hút sự chú ý. Ông đã giảng về Chúa Jesus, chớ không phải giảng về một giáo lý (câu 38) và trình bày cách nào Chúa Jesus có thể đáp ứng những nhu cầu sâu xa của họ mà những nhu cầu đó không thể được giải quyết bằng cách nào khác (câu 39). Cũng có một sự đụng chạm đến chứng cớ cá nhân, nhưng không đủ để làm cho khó chịu (câu 31). Ông cũng tỏ lời kêu gọi thính giả của mình (câu 26) và cảnh cáo về sự nghiêm trọng của vấn đề liên can (câu 41). Chúng ta đọc thấy khi ra về, người ta nài xin hãy nói cho họ những điều nầy nữa vào ngày Sa-bát kế đó. Thật là lạ lùng. Nó bắt phục họ, làm họ ý thức thực tại và họ muốn biết thêm.
Cơ hội có rất nhiều ở giữa vòng những người ở ngoại biên của chúng ta, nếu như chúng ta biết chụp lấy cơ hội. Những bữa ăn trưa của các thương gia Cơ đốc (nơi mà một thương gia nói về những gì Chúa Jesus Christ muốn có trong sự kinh doanh và nói về những gì Đấng Christ đã làm cho cá nhân mình) có thể có một tác động rất lớn. Những kỳ cắm trại cuối tuần cũng vậy. Những bữa tiệc trà cũng vậy. Tôi có biết những kỳ họp trong các công sở rất có kết quả, thậm chí đã dẫn đến chỗ người ta trở lại tin Chúa ngay tại chỗ. Những buổi họp mặt dành cho những nhà thể thao để nghe một nhà thể thao Cơ đốc nói chuyện – hoặc là buổi họp mặt dành cho các chính trị gia, hoặc là bất kỳ một nhóm người nào khác. Hoạt động ở ngoại biên rất là ích lợi. Nhất là tranh đấu và cầu nguyện cho sự trở về tin Chúa của những người mà những người phối ngẫu của họ đã trở thành Cơ đốc nhân. Đức Chúa Trời sẽ sẵn sàng hành động trong những gia đình như vậy, trong những sự thách thức, sự nài xin như vậy. Hãy khai thác điều đó. Điều đặc biệt quan trọng là tìm một cách tiếp cận có sức thu hút người ta. Ngay cả trong thời đại giải phóng phụ nữ nầy, thường người đàn ông trong gia đình là người điều hành cả gia đình. Hãy chinh phục họ thì sẽ có cơ hội tốt để bạn sẽ chinh phục cả gia đình. Tập trung vào phụ nữ và trẻ con càng làm cho người ấy thêm vững chắc về thành kiến của mình cho rằng tôn giáo là dành cho vợ và con cái, và chẳng có liên hệ gì đến một người đàn ông cứng vững như mình cả! Hãy đến với người đàn ông ấy. Một Hội Thánh cần biết chắc điều gì phải làm trước khi lập ra nhiều buổi nhóm dành riêng cho phụ nữ và một Trường Chúa Nhật cho nhi đồng mà ở đó không có dành một nỗ lực nào liên can đến những người cha. Hội Thánh đang tạo khó khăn cho tương lai, vì không bao lâu đứa trẻ cảm thấy mình là đứa con “trưởng thành”, hay thực sự trưởng thành, thì nó sẽ biến mất khỏi sân khấu, nó chắc rằng giống như người cha, nó đã ra khỏi sự chịu đựng nhồi sọ như vậy. Mãi mãi sau đó, nó sẽ được chủng ngừa đủ bằng một chút tôn giáo rót xuống để miễn nhiễm một cách hiệu quả chống lại điều thực hữu.
Còn một điểm nữa trong khi ở trong lãnh vực hoạt động ngoại biên nầy. Bạn sẽ nhận được nhiều bằng cách đi ra hơn là bạn được bằng cách lôi kéo vào. Ở trong hầu hết các Hội Thánh, cái mà chúng ta gọi là đi ra thì chẳng thuộc loại nầy gì cả: nó chỉ là một nỗ lực rầm rộ để kéo người ở ngoại biên lên phần đất của mình. Nó là một sự lôi kéo vào. Nhưng như vậy thì có khôn ngoan không? Há không phải người ấy sẽ cảm thấy dễ chịu nhiều hơn trên một miền đất trung lập, hoặc tốt hơn nữa là ở trên miền đất của họ hay sao? Bạn phải giúp họ cảm thấy dễ chịu nhiều hơn bằng sự nói chuyện ở một buổi họp mặt tại tư gia, ở trong nhà của họ hơn là lôi kéo họ đến một buổi nhóm truyền giảng nào đó, nơi mà họ cảm thấy mình là một con vịt đang nằm chờ bị người giảng đạo bắn vào. Sự ra đi là đối ngược với sự lôi kéo vào. Nó có giá trị đáng cân nhắc.
Họ tổ chức nhiều buổi nhóm tư gia
Nó tiến hành ở trong nhà của Gia-sôn (Cong Cv 17:5), ở trong nhà của Giút-tu (18:7), trong nhà của Phi-líp (21:8), v.v…. Đôi khi, đó là một buổi nhóm cầu nguyện (12:12), đôi khi là một buổi nhóm thông công (20:7). Đôi khi đó là một buổi Lễ Tiệc Thánh (2:46), đôi khi đó là một buổi nhóm chăm sóc (5:42), đôi khi đó là một buổi hội thảo nghiên cứu việc truyền bá Tin Lành (28:17 trở đi), đôi khi là một buổi nhóm họp bất thường (16:32) và thỉnh thoảng người ta thấy một nhà đầy chật những người muốn tìm hiểu, đang chờ đợi để nghe Tin Lành (10:22).
Gia đình là một cơ nghiệp vô giá. Nó không hình thức và thoải mái, nó làm cho sự dự phần được dễ chịu. Người lãnh đạo buổi nhóm không đứng quá cao với cử toạ, do đó người ta không nghĩ là một buổi diễn thuyết. Vậy, hãy sử dụng tư gia của những người ở trong hội chúng. Hãy dùng chúng để mở các lớp học Kinh Thánh tại gia, để huấn luyện các tiểu tổ, để làm căn cứ cho sự truyền bá Tin Lành ngoài đường phố, để mở các lớp chuẩn bị cho lễ báp-têm (do tín hữu trong hội chúng thực hiện sự chuẩn bị đó). Hãy mở các bữa ăn tối và các bữa uống cà phê để truyền bá Tin Lành; sử dụng hình rọi hay phim chiếu để thay đổi. Một nhóm người mà tôi vừa mới ở với họ đã mở một lớp học Kinh Thánh để truyền bá Tin Lành rất có kết quả: họ chỉ mời bạn hữu họ đến và đọc sách Tin Lành Mác chung với họ trong một kỳ tổ chức kéo dài sáu tuần lễ. Những người đó không phải đến nhà thờ. Họ không buộc phải làm gì sau đó cả. Họ không cần phải tin Mác, họ chỉ đến dự với một tâm tình cởi mở để đọc và thảo luận. Tôi đã gặp một số trong số những người trở lại tin Chúa đã được chinh phục thông qua cách tiếp cận ấy. Nó hoạt động bởi vì Lời của Đức Chúa Trời là lời sống và linh nghiệm, nếu chúng ta phô bày cho người ta những sự toả sáng của nó thì sẽ có những điều sẽ xảy ra cho họ. Chúng ta thật dại dột khi có ý tưởng cho rằng sẽ không ai muốn đọc Kinh Thánh và hầu như cảm thấy mắc cỡ khi giới thiệu Kinh Thánh cho người ta! Phải, buổi nhóm họp tư gia thật là không thể đánh giá nổi. Phao-lô hồi tưởng lại thế nào ông đã dạy dỗ từ nhà nầy sang nhà kia (Cong Cv 20:20), còn sự hiệu quả của Richard Baxter chỉ thật sự bắt đầu khi ông chú ý đến những buổi nhóm tư gia. Ông thú nhận rằng: “Tôi thấy nhiều dấu hiệu thành công trong công tác nầy hơn là ở trong tất cả những sự giảng dạy của tôi nơi công cộng.”
Hội Thánh trong thế kỷ thứ nhất đã lớn mạnh một cách nhanh chóng và hiệu quả mà không có sự giúp đỡ của hai trong số những cơ nghiệp truyền bá Tin Lành được tán thưởng nhất của chúng ta, đó là sự truyền giảng ở chốn đông người và sự truyền giảng trong nhà thờ. Họ đã sử dụng tư gia. Tại sao chúng ta lại không học hỏi họ?
Họ thích thảo luận ở trên vùng đất trung lập
Điều đó có thể đã xảy ra với người Do-thái trong một căn nhà trọ ở tại La-mã (Cong Cv 28:17 trở đi), nó có thể xảy ra khi đang xét xử ở tại toà án (Công-vụ 22 và IITi 2Tm 4:16-17), y như người Cơ đốc Nga Sô, ông Georgi Vins đã làm ở trong thời đại chúng ta. Nó có thể xảy ra do việc gặp gỡ một người hành khất ở ngoài đường (Công-vụ chương 3) hay do một sự tự tạo trường hợp để đối thoại và rao giảng như Phao-lô đã làm khi ông dùng trường học Ti-ra-nu trong hàng mấy giờ liền, không quản ngại giờ nghỉ ngơi cần thiết ban trưa, như một thủ bản cổ đã nói cho chúng ta biết (Cong Cv 19:9).
Tôi không biết nếu ngày nay chúng ta sử dụng phương pháp nầy thì chúng ta có hứng thú và nhiệt tình để làm hay không. Tình cờ tôi khám phá ra điều đó khi đang giảng trong Thượng Nghị Viện ở tại Cambridge về đề tài “Chúa Jesus, Con người Cấp tiến”, so sánh chủ trương triệt để của Ngài với chủ trương triệt để của Chủ Tịch họ Mao. Sau bài diễn thuyết chính, chúng tôi dành bốn mươi lăm phút để đối thoại trước khi dành năm phút cuối cùng để thách thức bước đến việc làm môn đồ triệt để. Do bản năng và sự tiên liệu trước, tôi đã không dự trù thì giờ đối thoại nầy trong một hoàn cảnh truyền bá Tin Lành một cách lộ liễu: há nó sẽ không phá huỷ bầu không khí sao? Tôi đã khám phá ra rằng không phải như vậy. Sự đáp ứng cùng Đấng Christ ở buổi họp ấy thật là to lớn. Mọi sách phát ra về việc bắt đầu sự sống với Đấng Christ đã hết sạch trong một thoáng, người ta đang trao phó đời sống họ cho Chúa chúng ta như là một kết quả trong mấy tuần liền. Điều đó đã dạy tôi một bài học quan trọng. Từ đó trở đi tôi đã dành nhiều thì giờ để đối thoại trong các buổi truyền giảng, trong các cơ hội giảng ngoài trời hay thuyết trình ở nơi công cộng. Nó luôn luôn có ích lợi. Tôi nghĩ đến một sự tranh luận đông đảo người ở tại một đại học đường Anh Quốc khi mà một số người trong chúng tôi chống đối dự thảo “nhà nầy tin rằng Cơ đốc giáo được thành lập trên một lời nói dối”. Chứng cớ đưa ra từ sự tranh luận rất là mạnh mẽ, sự khác nhau trong cuộc sống của những người phát biểu gây chú ý đến nỗi kết quả có thể tiên đoán chắc chắn, và phía chống đối Cơ đốc giáo trong bữa đó chỉ có được một ít phiếu tán đồng mà thôi. Nhưng điều có ý nghĩa đó là cuộc thảo luận về Đấng Christ đã cứ diễn tiến suốt cả đêm hôm đó như là một kết quả của cuộc tranh luận. Người thư ký vô thần của tổ chức Debating Union (Liên Hiệp Tranh Luận) đã ngồi suốt đêm để nghiên cứu sự phục sinh của Chúa Jesus. Ngày nay, trong Hội Thánh của chúng tôi, chúng tôi thường tổ chức sinh hoạt thuộc loại nầy. Gần đây, tôi đã tranh luận về thực tại nhập thể của Đấng Christ với một trong các tác giả của cuốn The Myth of God Incarnate (Huyền thoại về Đức Chúa Trời Nhập thể) , và về giấc mơ lý tưởng với ông Tony Benn, Bộ Trưởng Năng Lượng Anh Quốc. Tại sao chúng ta sợ những cơ hội như vậy? Chúng ta có thật sự tin rằng ở trong Chúa Jesus Christ chúng ta có lẽ thật tối hậu về Đức Chúa Trời và con người hay không? Nếu có, tại sao chúng ta không dạn dĩ bàn thảo và tranh luận về điều đó với những người mà họ nghĩ rằng nó là sai? Các Cơ đốc nhân ban đầu đã làm điều đó. Các triết gia như Justin đã cứ tiếp tục truyền thống lộ thiên của các môn đồ đầu tiên. Nó vẫn còn là một mô thức truyền bá Tin Lành rất tốt cho thời nay. Nó không phải là ân tứ cho mọi người, nhưng nó có cái sức thu hút và sáng tỏ của nó, nhất là khi được thực hiện một cách nhạy cảm với sự vui vẻ, và nếu có thể, được minh hoạ bởi một thị cụ. Gần đây, chúng tôi đã sử dụng một nhóm người, họ đang phát triển sự nhảy múa như là một mô thức thờ phượng, và cùng với họ có một nhóm ca hát nữa. Điều nầy đặc biệt hữu hiệu trong các dịp lễ hội liên hoan, chẳng hạn như dịp đua thuyền ở Oxford, khi mà mọi người vui thích và thư thái bên bờ sông, và những cái gì quá “nặng nề” thì sẽ không thích hợp. Một trường hợp đối thoại khác mà nó đang tự cải thiện ở thời nay là việc nhóm một số ít bạn hữu vào một căn phòng để thảo luận những đề tài quan trọng nào đó về cuộc sống nhân loại và số phận của nhân loại. Một người mở đầu với niềm xác tín của người Cơ đốc về đề tài ấy trong vài phút. Sau đó dành sự thảo luận cho những người khác, một sự hỗn hợp 50% Cơ đốc nhân và 50% người chưa tin Chúa sẽ bảo đảm không những để có sự đưa vào thích hợp từ phía quan điểm của người Cơ đốc, nhưng cũng giữ cho khi người ta muốn ngưng sự thảo luận mà đi sâu vào việc riêng thì có thể chia ra thành từng cặp người tin Chúa và người không tin Chúa để đi riêng ra.
Có rất nhiều cách để tổ chức sự đối thoại. Một số Hội Thánh thuê sảnh đường và tổ chức các cuộc tranh luận về những vấn đề tranh luận giữa một Cơ đốc nhân nổi danh và một nhà nhân bản hoặc một người Cộng sản nổi danh. Hội Thánh của chúng tôi tổ chức các nhóm gọi là Agnostics Anonymous (Những Nhà Bất Khả Tri Luận Vô Danh), ở đó những người không phải là Cơ đốc nhân có thể đến và thảo luận về đức tin với các tín đồ Cơ đốc và thấy được sự luận bàn dẫn đến đâu. Gần đây, tôi có ở trong một ngôi nhà đáng chú ý, được một Hội Thánh mua và trang bị, ở đó người ta từ ngoài đường đã quen ghé bước vào tìm thức ăn, tìm đoàn thể và tìm một ai đó để tâm sự. Một đội ngũ khoảng mười lăm người là những người trong Hội Thánh túc trực ở đó, và bầu không khí rất là đầm ấm, được dầm thấm trong sự cầu nguyện và rất là tự nhiên. Thoáng nhìn quanh phòng, nó chật ních người như là một cái bao đựng đồ tạp nhạp, có hai cô gái điếm, một vài người có tiền án, một số thiếu niên đến từ trung tâm cải huấn, một số người thuộc tầng lớp trung lưu và những người đã bị đầu độc bởi chất hê- rô-in, một người trông có vẻ thân thiện và chuyện trò thân mật ở khắp mọi chỗ. Họ không chỉ đang bàn tán về thời tiết – cũng không phải đang cố nhồi nhét quan điểm của họ vào cổ họng của những người không muốn biết. Nhưng sự tồn tại của cái quán thân thương do người Cơ đốc điều hành nầy rất khác với bất kỳ điều chi mà những người hiện diện đã từng biết đã gây thắc mắc về những gì nằm ở phía sau nó. Như vậy, thật là dễ để cho nhóm Cơ đốc nhân tận tuỵ vui vẻ trong đội ngũ nầy bàn chuyện một cách không hình thức và tự nhiên về Chúa của họ. Tôi đã gặp hai người mà họ đã tìm gặp Đấng Christ trong tuần lễ ấy ở trong một hoàn cảnh như vậy. Đó là một dự án tốn kém nhân lực, sự tổ chức và thì giờ: hơn 120 người ở trong Hội Thánh đặc biệt ấy có tham dự vào. Nhưng vì chính nghĩa Tin Lành, chúng ta há không nên bỏ ra cái giá phải có hay sao?
Họ viết thư thăm hỏi và sử dụng văn phẩm
Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể suy luận điều nầy một cách an toàn qua hai yếu tố. Thứ nhất, họ sử dụng rất nhiều phiên bản Kinh Thánh Cựu ước tiếng Hi-lạp trong việc giới thiệu Chúa Jesus. Chúng ta thấy điều đó ở trong các bài giảng được ký thuật trong sách Công-vụ – một cơ cấu tham khảo thường trực đến Kinh Thánh Cựu ước. Chúng ta thấy điều đó trong những sự giả định do các trước giả các Thư tín Tân ước đề ra rằng các độc giả của họ biết Kinh Thánh Cựu ước với một sự tiếp xúc chắc chắn nào đó. Yếu tố kia cho thấy chắc chắn các Cơ đốc nhân có sử dụng và phân phát văn phẩm là sự tồn tại của các sách Tin Lành và các Thư tín. Mác đã bắt đầu một thể văn chương hoàn toàn mới dưới sự thu hút của Chúa Jesus. Thật là một ý tưởng sáng lạng để ghép lại với nhau những yếu tố của sự truyền khẩu và có lẽ một số nguồn tư liệu được viết ra sơ khởi và dệt chúng lại cùng nhau thành ra một câu chuyện liên tục, mà mục đích của ông không phải là kể lại một tiểu sử nhưng là để truyền bá Tin Lành. Ông chẳng nói gì cho chúng ta biết về những đặc điểm cá nhân của Chúa Jesus, chẳng nói gì về ba mươi năm của cuộc đời Ngài cả. Ông chọn lọc cao độ về cách sử dụng tài liệu từ chức vụ của Ngài. Ông muốn trình bày Chúa Jesus là ai (hầu như mọi đoạn văn ngắn ở trong sách Tin Lành của ông đều là về thân vị của Chúa Jesus) và Ngài đã có thể biến cải cuộc sống của những người đến tiếp xúc với Ngài như thế nào. Thực ra, không những Mác có thể đã phát minh ra hình thức Tin Lành với sức mạnh của nó thách thức một cách hàm súc cho sự làm môn đồ, nhưng ông còn phát minh ra tập sách bằng chỉ thảo nữa. Người Do-thái thường dùng những cuộn giấy da dài để viết Sách Thánh của họ, nhưng những cuộn sách nầy rất bất tiện khi sử dụng. Người Hi-lạp thường dùng dạng sách như của chúng ta, tức là codex (tập sách), cho các tác phẩm văn chương của họ, nhưng chúng thường được làm bằng da thuộc, chẳng hạn các màng da mỏng, và loại da nầy rất đắt tiền. Các Cơ đốc nhân ban đầu dường như đã thuộc trong số những người đầu tiên, nếu không phải thực sự là những người đầu tiên, đã sử dụng tập sách làm bằng giấy chỉ thảo cho các ấn phẩm của họ. Những lợi điểm của nó thật rõ ràng. Nó dễ đọc, dễ tìm chỗ cất giữ, dễ che giấu – và rất rẽ để sản xuất. Người ta biết có một tỉ lệ rất lớn các sách bằng giấy chỉ thảo ở thế kỷ thứ hai và thứ ba là sách của người Cơ đốc. Có lẽ đó là một phát minh của người Cơ đốc và có thể dễ dàng qui phát minh đó về cho Mác.
Tuy nhiên, dẫu có thể như vậy, thì rõ ràng rằng các môn đồ đầu tiên của Chúa Jesus đã sử dụng của các văn phẩm. Điều nầy bao gồm sự phân phát Kinh Thánh Cựu ước, các Sách Tin Lành (được sản xuất bởi các thư ký nghiệp dư ở trên các vật liệu thông dụng với giá rất rẻ), và dĩ nhiên có cả những công cụ giá trị là các lá thư viết cho các cá nhân và các Hội Thánh mà có những bằng chứng hiển nhiên về chúng ở trong Kinh Thánh Tân ước. Nếu chúng ta nhìn sâu vào bên trong Kinh Thánh Tân ước của chúng ta thì có thể phân biệt, với những mức độ chắc chắn khác nhau, các tài liệu đã được viết ra khác mà chúng được dùng. Chữ “Q” là ký hiệu các học giả Tân ước sử dụng để chỉ những câu nói của Chúa Jesus thường có trong sách Ma-thi-ơ và sách Lu-ca nhưng không có trong sách Mác. Hầu như mọi người đều đồng ý rằng đây là nguồn tài liệu đã được viết ra bằng tiếng Hi-lạp và tiếng A-ram để cho các nhà giảng đạo ban đầu giữ và mang theo trong các cuộc truyền giáo của họ. Họ sẽ tham khảo đến nó khi có một thính giả hỏi họ về những điều Chúa Jesus đã dạy dỗ họ. Dường như cũng có những phần của các bản tín điều và các bản thánh ca ban đầu được gói ghém đây đó ở trong các Thư tín, và có lẽ nét đại cương về một cách tiếp cận thông thường đối với những nan đề của việc gây dựng tín đồ mới, sự cảnh giác chống lại những sự dạy dỗ của tà giáo và việc thâm nhập dần dần một nền luân lý đặt cơ sở trên tình yêu thương nữa. Ở trong thế kỷ thứ hai, bạn cũng thấy các “sách minh giải” được viết ra, chủ yếu để binh vực Cơ đốc giáo chống lại những sự cáo buộc nghịch cùng Cơ đốc giáo, và cũng để chinh phục người ta đến đức tin nữa. Có lẽ hai sách Lu-ca và Công-vụ là mẫu đầu tiên của tất cả những cuốn minh giải như thế: sự nhấn mạnh của nó về sự vô tội của Chúa Jesus, sự vô tội của các Cơ đốc nhân (được xác nhận qua các thử thách nầy đến các thử thách khác ở trong sách Công-vụ) và tầm quan trọng của sự đáp ứng đối với Tin Lành (do đó nhiều bài giảng mang tính truyền bá Phúc âm đã được ghi lại trong sách Công-vụ) đều thích hợp với một sự khả dĩ như vậy.
Sự đa dạng về văn phẩm nầy đã tạo một sứ điệp quan trọng cho chúng ta trong thời nay khi mà phương tiện truyền thông rộng rãi và mạnh mẽ hơn nhiều. Ở tại Hoa Kỳ có một mạng lưới truyền thông xuyên đại dương quen thuộc và gây ấn tượng nhất được điều hành bởi người Cơ đốc và truyền đi một sứ điệp Cơ đốc rất rõ ràng. Nhưng ở tại Anh Quốc chẳng có điều nào như vậy cả. Bạn không thể “mua thì giờ”, và đại đa số các chương trình truyền hình liên quan đến Cơ đốc giáo rất là yếu ớt và bàn thảo không đưa đến kết luận. Hầu như không có sự rao giảng trực tiếp về Tin Lành do những người tin nơi Tin Lành một cách nhiệt thành. Kết quả là Briton, người xem việc dạy tôn giáo trong các trường học như là một trò đùa, đã khẳng quyết nơi niềm tin cho rằng Đức Chúa Trời có thể bị làm ngơ một cách an toàn và thậm chí có thể Ngài không thực hữu.
Trên mặt trận văn phẩm cũng vậy. Một số lượng lớn các văn phẩm do người Cơ đốc sản xuất cho người Cơ đốc, nhưng những nỗ lực đưa ra sứ điệp theo ngôn từ của người ở bên ngoài thì rất ít. Chúng ta có rất ít những văn phẩm dành cho công nhân là những người thường xem tờ nhật báo của họ hơn là đọc nó. Chúng ta có rất ít phim ảnh Cơ đốc thành công. Chúng ta tạo được rất ít sự tác động trên các dây chuyền có trong việc làm cho sách báo khiêu dâm phù hợp được với tài liệu Cơ đốc – ít ra là ở Anh Quốc, dầu là ở Bắc Mỹ người ta đã thành công nhiều hơn. Tài liệu Cơ đốc thường không tìm thấy được ở trong các hiệu sách thông thường: nó chứa riêng ra ở trong các hiệu sách Cơ đốc địa phương – nếu như có một hiệu sách như vậy. Làm sao chúng ta có thể thực sự tin rằng chúng ta là muối của đất nếu như muối được cất quá vững chắc ở trong các vựa muối?
Tôi tin rằng trong phương tiện truyền thông chúng ta có một công cụ khó tính toán nổi để trình bày đức tin Cơ đốc. Có những nhà xuất bản, những đài truyền hình truyền thanh nào đó, những nhà thờ nào đó đã nhận rõ tiềm năng của nó và đang làm một điều gì đó về nó. Cá nhân bạn đang làm như thế nào? Bạn có thể viết bài theo một cách hấp dẫn không? Vậy thì tại sao bạn không sử dụng tài năng của mình để truyền đạt những lẽ thật thâm thuý nhất bằng những ngôn từ đơn giản nhất mà người ở bên ngoài có thể đọc được? Tôi cam đoan với bạn rằng sẽ có một nhà xuất bản! Bạn có một thư việc nhỏ về các sách Cơ đốc không? Nếu không có thì tại sao không có? Còn nếu có thì bạn có cho những bạn hữu chưa tin Chúa mượn đọc không? Nói chung thì cho mượn tốt hơn là biếu tặng; vì nó tạo cơ hội để bạn thảo luận nội dung của cuốn sách sau khi người bạn đã đọc xong. Bạn có thể viết bài hàng tuần hay hàng tháng ở trong tờ báo địa phương không? Không tổn hại gì trong việc thử người chủ bút; ông ta chỉ có thể từ chối – hoặc là đồng ý. Bạn có thể tổ chức buổi uống cà phê sáng ở nhà bạn và mời người quản lý tủ sách nhà thờ đến để trình bày sách không? Bạn có thể tự tổ chức một thư quán vào kỳ hội chợ sắp đến ở trong tỉnh nhà không; hoặc là ở phiên chợ hàng tuần không? Cơ hội thì thật là vô vàn. Người ta thường đói khát phần thuộc linh nhiều hơn là chúng ta tưởng. Hãy sử dụng lời được viết ra: nó đến được với nhiều người hơn và lâu dài hơn là lời nói ra đạt được. Chúng ta thật ngu xuẩn nếu bỏ qua nó.
Họ tham gia vào “những hành trình truyền giáo”
Nếu chúng ta phải đoán xét theo sách Công-vụ thì việc khích lệ các tiểu tổ ba, bốn người ra đi trong một hành trình truyền giáo ngắn hạn hay dài hạn là một điều không thông dụng đối với các Hội Thánh. Qua sử gia của Hội Thánh, ông Eusebius, chúng ta biết rằng loại hoạt động nầy đã cứ tiếp tục kéo dài hàng mấy trăm năm sau, khi mà các tín đồ đi từ thành nầy đến thành khác, làng nọ đến làng kia rao báo tin tức về tình yêu thương của Chúa họ. Sách Công-vụ có nhiều lời làm chứng cho phương pháp tiến bộ nầy; một trong các sách phụ của các sứ đồ ngày xưa, cuốn Didache (Sách Giáo huấn), cũng vậy, nó nói nhiều về các giáo sư và các phái đoàn lưu động đây đó đến từ các Hội Thánh khác. Nó cung cấp những sự trắc nghiệm kỳ thú về tính chân thật đối với các giáo sư lưu động nầy. Nếu một người đặt một bữa ăn đang khi ở dưới sự thần cảm của Thánh Linh Đức Chúa Trời, thì người ấy phải không được ăn bữa ăn đó tự mình! Nếu một giáo sư lưu động ở lại quá lâu thì người ấy sẽ bị đuổi đi: người ấy đang lạm dụng sự hiếu khách! Thật rõ ràng, những “hành trình truyền giáo” nầy đã là một trong những phương cách chính mà theo đó đức tin được lan truyền.
Tôi nghĩ rằng chúng ta có nhiều điều để học trong phương diện nầy. Có một giá trị lớn lắm ở nơi đội ngũ chứng đạo ra đi từ một Hội Thánh nầy đến một Hội Thánh khác, hoặc là đến một địa điểm “lộ thiên” mà một nhà thờ không thể tổ chức được gì cả. Sự”truyền giáo” cho một giáo khu hoặc một trường đại học đã có truyền thống lâu đời, nhưng thường đây chỉ là một đoàn-một-người, khi người ta bị lôi kéo đến “nghe giảng”. Ngày nay tôi kiên quyết phản đối loại hình truyền bá Tin Lành nầy. Tôi tin nơi quan niệm về một đội ngũ. Đối với tôi, hầu như luôn luôn một sự mời cá nhân đều được biến đổi thành sự mời một đội ngũ từ Hội Thánh của chúng tôi, và nhiều điều tốt lành dấy lên từ đó. Một điều, đó là sự hiệp một và sự dự phần phát triển giữa vòng đội ngũ đó. Một điều khác là sự học hỏi lẫn nhau khi chúng tôi hoạch định vai trò của mỗi người chúng tôi ở trong dự án. Một điều nữa đó là có sự nhất trí mà với nó các thành viên khác nhau trong đội ngũ làm chứng phần của họ cho Chúa Jesus. Một điều nữa đó là sự tốt lành mà các thành viên trong đội thực hiện ở tại các nhà mà họ lưu trú nếu cuộc viếng thăm phải ở lại một đêm hay lâu hơn. Một điều khác đó là sự nhấn mạnh nhận thấy được nhưng không nói ra đã được đưa ra đối với sự kiện chúng ta không thể sống cuộc đời Cơ đốc trong sự biệt lập nhưng phải là một thành phần trong gia đình hay trong tập thể. Một điều lợi ích khác là phương cách mà theo đó các thành viên ít kinh nghiệm của đội ngũ học hỏi từ những người có kinh nghiệm hơn. Tóm lại, sự học hỏi hữu hiệu nhất của chúng ta thường không phải có được từ nơi sách vở hay các bài diễn thuyết, bèn là từ sự dự phần, sự tham gia hoạt động với những người có kinh nghiệm hơn. Thực ra, chúng ta học hỏi qua sự thực hành. Đây là cách Phao-lô đã huấn luyện một Ti-mô-thê, một Tít, một Lu-ca. Nó có thể được sử dụng rộng rãi ở trong các Hội Thánh và ở trong các tổ chức bên cạnh Hội Thánh.
Tại Oxford, chúng tôi sử dụng nó ở ba cấp độ. Mỗi năm, Hội Thánh chúng tôi tổ chức một cuộc truyền giáo qui mô, với khoảng tám chục người tham gia, ở tại một số các Hội Thánh ở một vùng khác trong nước. Cuộc truyền giáo nầy được chuẩn bị cẩn thận ở cả hai phía. Có sự giảng đạo tập trung, nhiều buổi họp mặt tư gia, các buổi nhóm họp trong các công sở và các nhà máy, và thường có nhiều hoạt động giữa vòng các học sinh trung học. Các thành viên của đoàn có buổi nhóm thờ phượng và huấn luyện mỗi buổi sáng, còn vào buổi chiều và buổi tối mọi người tham gia vào công việc. Sự tác động rõ ràng của lòng nhiệt thành và sự hiến dâng nầy thật là lớn. Các gia đình nơi mà những thành viên trong đoàn trú ngụ thường được phước nhiều lắm. Nhiều người đã bước vào kinh nghiệm sống động của người Cơ đốc, cả đoàn và Hội Thánh địa phương đều được khích lệ. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng cả thiên đàng cũng vui mừng hớn hở khi người ta ăn năn và tìm được Cứu Chúa; dưới đất cũng có sự mừng rỡ nữa.
Ngoài biến cố lâu dài nầy (mười ngày hoặc hai tuần lễ) chúng tôi đã thấy có một loại chức vụ hoạt động theo đội ngũ khác trong sự truyền bá Tin Lành cũng rất hữu dụng. Chúng tôi tổ chức một khoá huấn luyện hàng năm về những phương diện khác nhau của sự lãnh đạo cơ bản của người Cơ đốc. Vào cuối khoá (khoá huấn luyện kéo dài khoảng ba tháng), chúng tôi tiến hành một cuộc truyền giáo nhỏ. Chúng tôi xếp đặt với một giáo khu nào đó ở địa phương mà họ muốn tiếp chúng tôi và đồng ý trải qua ba ngày Thứ Tư liên tiếp để hướng dẫn (hoặc tham dự với sự hướng dẫn của những người lãnh đạo ở địa phương đó) một số các buổi nhóm tư gia. Những buổi nhóm nầy có sự tham dự của cùng hai hay ba người ở Hội Thánh chúng tôi vào từng buổi trong ba buổi tối và đề tài được xem xét là một đề tài rất trọng tâm: “Cơ đốc nhân là gì?” là đề tài gần đây nhất. Theo cách nầy, sự tiến hành được thực hiện vào các buổi Thứ Tư và nó được bổ sung bằng giờ thờ phượng ngày Chúa nhật mà phần lớn do các thành viên của đoàn chúng tôi hướng dẫn vào ba Chúa nhật ấy. Tổ ca hát, và có thể có tổ nhảy múa nữa, đã dự phần; có thể sử dụng kịch nghệ; sự làm chứng và sự phỏng vấn là thông thường nhất trong các buổi nhóm ấy; và vào Chúa nhật cuối trong ba Chúa nhật ấy, có một giờ để thách thức người ta dâng mình cho Chúa. Khi người ta đáp ứng thì họ được các thành viên trong đoàn tư vấn cho. Sau đó, mục sư Hội Thánh địa phương mời một hai người trong đoàn chúng tôi trở lại trong một vài tuần để tổ chức một khoá chăm sóc cho những người đã tin nhận Đấng Christ trong ba tuần lễ vừa qua. Hoặc cũng có thể có một số người trẻ đã trở lại tin Chúa và họ cần giúp đỡ trong việc tổ chức một tiểu tổ sinh hoạt cho họ trong những ngày đầu, trong khi những người lãnh đạo khác ở địa phương đang được chuẩn bị cho nhiệm vụ. Loại hình “hành trình truyền giáo” nầy thì thực tiễn một cách rõ rệt: không cần phải có điều kiện thuận lợi. Nó có khoảng thời gian giới hạn. Nó uyển chuyển và dễ thích ứng. Nó có thể được thực hiện để truyền bá Tin Lành hay để đào tạo cán sự hoặc một đề tài được chọn lựa nào khác, hoặc là nhằm ích lợi cho sự phấn hưng thuộc linh ở trong giáo khu.
Một phương cách thứ ba mà chúng tôi thấy có ích cho các tín hữu trong hội chúng, vừa được khích lệ vừa đem lại sự khích lệ cho người khác, là một đêm chứng đạo. Một đội ngũ chuẩn bị một buổi tối phối hợp và ra đi để mời gọi. Mỗi người đều đứng lên làm chứng cho Chúa. Sự tác động thật là hoàn toàn (nếu không đánh bóng lên) hơn là chỉ do một thành viên đem lại. Các thành viên của đội làm chứng một cách không ý thức cho sự hiệu quả hiệp một của Đấng Christ bằng cách họ liên hệ cùng nhau, và điều đó được người ta để ý. Họ cũng có thể tiếp chuyện với người ta sau đó và như vậy tầm hoạt động sẽ rộng hơn là trong trường hợp chỉ có một người làm chứng.
Đây chỉ là ba trong nhiều cách mà nguyên tắc đoàn đội nầy có thể được sử dụng trong sự truyền bá Tin Lành. Phước hạnh và sự tăng trưởng sẽ nổi lên ở cả hai bên: thực ra, khó có thể nói đến “các bên”, vì sự tiếp nhận và sự ban phát là chung cho lẫn nhau. Có một sự thêm giàu có, như Phao-lô đã thấy sự thăm viếng của ông đến La-mã đã tạo ra – “chúng ta cùng nhau giục lòng mạnh mẽ bởi đức tin chung của chúng ta, nghĩa là của anh em và của tôi” (RoRm 1:12). Như các tín đồ ban đầu đã làm, chúng ta nên sử dụng các đội ngũ, chúng ta chỉ nên ở lại một thời gian ngắn ở một nơi, và chúng ta nên trở lại thăm và hỗ trợ trong sự cầu nguyện – và tiếp viện – bởi Hội Thánh nhà của chúng ta, cho những người mà chúng ta sẽ mang tin tức trở về, những tin tức để khích lệ và để cầu nguyện. Đây là cách mà Phao-lô và Ba-na-ba đã quay về với Hội Thánh sai phái họ, Hội Thánh An-ti-ốt, và “nhóm Hội Thánh lại, thuật lại mọi việc Đức Chúa Trời đã cậy mình làm, và Ngài mở cửa đức tin cho người ngoại là thể nào” (Cong Cv 14:27).
Họ dựa vào những cuộc đàm thoại cá nhân
Phương pháp cuối cùng tôi đề xuất đem chúng ta trở lại với mũi nhọn chính ở chương 3. Sự đàm thoại cá nhân là phương pháp chính nhờ đó Tin Lành được lan truyền ở trong thời kỳ ban đầu. Những nhóm người ít ỏi đã bàn bạc đến Tin Lành ở ngoài đường phố; phụ nữ đã bàn tán về Tin Lành ở nơi giặt giũ công cộng. Người ta đi thăm bạn hữu (như A-na-nia đã thăm Phao-lô và đem ông đến sự giải thoát như vậy) và nhờ vậy đạo được lan truyền; nhiều người nhờ sứ điệp đó đã đến phó thác cuộc đời họ cho Đấng Christ.
Tôi nghĩ rằng, ở đây Phi-líp là một gương mẫu cổ điển cho chúng ta. Dường như ông đã không được sử dụng cho công việc truyền bá Tin Lành nầy: tóm lại, ông được chọn để coi sóc việc nhà bếp của Hội Thánh ban đầu. Nhưng một khi ông đã tìm thấy niềm vui của việc giới thiệu người khác đến cùng Đấng Christ thì không có gì ngăn chặn ông nữa. Cách tiếp cận của ông đối với hoạn quan Ê-thi-ô-bi là một ví dụ. Trước tiên, ông tuyệt đối ngay thẳng với Đức Chúa Trời. Thánh Linh của Chúa đã truyền ông phải đi vào vùng đồng vắng, rằng ông phải tiếp cận với con người đặc biệt nầy, rằng ông phải theo đúng con đường đã chỉ cho ông – và ông đã vâng lời. Ông đã hoà hợp thật tuyệt hảo với Chúa đến nỗi ông đã phân biệt được, và theo sát được hướng đi mà ông đang được hướng dẫn (Cong Cv 8:26,29,39). Ông đã hạ mình đủ để rời bỏ một hoàn cảnh Hội Thánh đang phát triển ở tại Sa-ma-ri, nơi mà ông là một ngôi sao sáng để hỏi xin một người khác màu da, khác quốc tịch, khác giai cấp xem mình có thể phục vụ gì cho người ấy không. Ông đã có lòng nhiệt thành để bắt đầu một cuộc nói chuyện giữa cái nóng thiêu đốt của ban ngày trong vùng sa mạc, và ông có đủ sự nhạy cảm đế tiếp cận con người đó theo một cách thức khơi dậy sự đáp ứng tự nhiên và nồng nàn (8:29 trở đi). Trước tiên, ông khôn ngoan lắng nghe, rồi sau đó phân biệt được cách tiếp cận đúng cách trong những tình huống, và chỉ khi đó ông mới đưa ra sự giúp đỡ của mình. Có gì lạ khi ông được mời ngồi cạnh vị hoạn quan Ê-thi-ô-bi trong chiếc xe của ông ta. Không có gì lạ xưa kia, bằng việc sử dụng các khúc Kinh Thánh mà con người kia đang nghiên cứu đến, ông đã có thể hướng dẫn con người nầy đến cùng Đấng Christ và đến cùng phép báp-têm.
Hầu hết chúng ta đều thấy cách mở đầu những cuộc nói chuyện về các vấn đề Cơ đốc là phần khó hơn hết. Làm thế nào người ta có được sự mở đầu theo cách tự nhiên trên đất nầy? Tôi tin rằng sự việc xảy ra tình cờ nầy có vài sự giúp đỡ cho chúng ta. Cũng như Phi-líp, chúng ta phải có sự tiếp xúc sống động với Chúa. Ngược lại thì chúng ta sẽ không cảm nhận được sự hướng dẫn của Ngài đối với cá nhân mà Ngài muốn chúng ta giúp đỡ họ, cũng không cảm nhận được cách tiếp cận với người ấy nếu chúng ta gây vấp ngã cho họ. Tôi chắc rằng tôi đã bỏ lỡ nhiều cơ hội bởi vì quá xao lãng, quá bận rộn, quá gắn bó lỏng lẻo với Chúa, để nghe được điều Ngài đang cố phán bảo tôi. Cũng như Phi-líp, tôi biết rằng tôi cần phải vâng phục. Nếu tôi đáp “Không” cùng Đức Chúa Trời về bất cứ điều chi trong đời sống tôi ở một giây phút thôi thì Ngài sẽ không, và không thể sử dụng tôi. Sự không vâng lời thường làm cho tôi bỏ lỡ những cơ hội. Sự kiêu ngạo cũng vậy. Tôi đâm đầu vào những cuộc nói chuyện một cách dại dột mà không chịu chờ đợi lắng nghe và đánh giá như Phi-líp đã làm. Sự khiêm tốn không những chỉ rất thu hút (ai trong chúng ta thực sự thích người buôn bán thô lỗ – mà đó là điều những người Cơ đốc có tâm tình truyền bá Tin Lành thường hay biểu lộ ra như vậy – không?). Cần thiết chúng ta phải giúp đỡ người khác ở thời điểm mà họ sẽ nghinh đón sự giúp đỡ. Phi-líp cho chúng ta thấy cách có một sự mở đầu tự nhiên. Người đàn ông kia đang ngồi đọc lớn tiếng khúc Kinh Thánh Ê-sai 53. Không phải sự tiếp xúc của chúng ta sẽ luôn luôn bị bó buộc theo cách ấy. Nhưng nó nhấn mạnh một bài học đó là chúng ta phải bắt đầu ở cái thời điểm cảm thấy cần. Há đó không đích xác là cách Chúa Jesus đã tiếp cận với người bại (Mác chương 2), người mù (Giăng chương 9), hoặc người đờn bà Sa-ma-ri (Giăng chương 4), hay là người phụ nữ bị bắt vì phạm tội tà dâm (Giăng chương 8) đó hay sao? Một trong những cách tốt nhất để tìm ra chỗ mà người ta sống, nói về mặt thuộc linh, đó là nêu cho họ một câu hỏi. Nhiều Cơ đốc nhân thấy rằng dùng một tập câu hỏi đơn giản thì không những được đa số người chấp nhận (nếu được tiếp cận một cách lịch sự) nhưng nó cũng đưa đến những kết quả ích lợi nữa. Những câu hỏi như, “Bạn hiểu điều gì qua một người Cơ đốc?”, “Bạn có nghĩ rằng có thể gặp được Chúa Jesus ngày nay không?”, “Đức tin nơi Đấng Christ phá huỷ hay làm dồi dào niềm vui sống của người ta?”, “Tại sao bạn nghĩ rằng trong một thời đại có sự giáo dục gia tăng mà nhiều tội phạm và sự bất mãn dường như đang gia tăng quá nhanh?”, có thể được tính toán để mở đầu những cuộc nói chuyện có ích lợi mà có thể dẫn vào một sự bàn bạc kỹ càng về Đấng Christ. Một trong những phương pháp truyền bá Tin Lành hữu hiệu nhất ở Hoa Kỳ được dựa trên tác phẩm của Tiến sĩ Kennedy ở tại Coral Ridge. Phương cách của ông là hỏi một hoặc hai câu hỏi rất đơn giản nhưng rất gây ấn tượng, chẳng hạn như “Nếu đêm nay bạn qua đời thì bạn có tin chắc mình sẽ được vào thiên đàng không?”, theo sau đó là câu hỏi “Nếu đêm nay bạn qua đời, tại sao Đức Chúa Trời cho bạn được vào thiên đàng của Ngài?”. Nếu được sử dụng một cách nhạy bén và uyển chuyển thì phương pháp câu hỏi (và niềm vui của nó là điều bạn có thể trù liệu cho chính mình để thích hợp với cá tính riêng của bạn) là một trong những phương cách tự nhiên nhất để hướng sự đàm luận vào những hướng có ích lợi.
Một cách tiếp cận khác được sử dụng trong Tân ước rất nhiều đó là chỉ tỏ đến một dấu hiệu không thông thường nào đó về sự hiện diện của Đức Chúa Trời và dùng dấu hiệu nầy như là một cách để đưa Tin Lành vào. Đây là cách Phi-e-rơ và Giăng đã làm rõ trong việc chữa lành cho người què từ thuở sinh ra ở trong Công-vụ chương 3. Gần đây tôi có gặp một phụ nữ được chữa lành khỏi bịnh bướu não có xác nhận y khoa nhờ sự đáp lời cầu nguyện khoảng mười năm trước. Sự chữa lành bịnh cộng thêm với lời làm chứng của bà cho Chúa Jesus tạo một sự bổ túc đầy sức mạnh cho sự thờ phượng hết lòng và sống động cho dân sự Chúa và cho sự rao giảng truyền bá Tin Lành theo một cách đáng ghi nhớ. Tác động hoàn toàn của buổi tối hôm ấy đã dẫn đưa một số người đến chỗ phó thác chính mình cho Chúa Jesus Christ.
Một cách tiếp cận khác được dùng trong thời Tân ước đó là bắt đầu với một nhu cầu hiển nhiên và từ đó hoạt động. Tôi nghĩ đến Phao-lô biến sự đắm tàu trước mắt thành một cơ hội để bày tỏ bàn tay tể trị của Đức Chúa Trời. Tôi nghĩ đến cách ông đối xử với cô gái bói khoa bị quỉ ám đã theo sau ông ở tại thành Phi-líp. Những lúc cần thiết như sự cô đơn, sự qua đời của người thân yêu, sự tuyệt vọng, hôn nhân, sự ra đời của một đứa trẻ đều là những trường hợp mà những dấu hiệu của sự siêu việt có thể dễ dàng xảy ra. Vào lúc năm giờ sáng ngày hôm kia tôi bị đánh thức bởi một người lẻn vào phòng tôi đang tìm một thứ gì đó để ăn cắp. Ông ta không cần phải nói với tôi ông đã phạm lỗi, nhưng khi chúng tôi làm việc sau đó qua việc đã xảy ra về điều đã thôi thúc sự ăn cắp ấy và bắt đầu giải tỏ sự buồn rầu và sự khước từ mà chúng đã đặc trưng cho đời sống ông thì ông muốn biết có niềm hi vọng nào cho một người như ông không. Tôi cố gắng đáp ứng nhu cầu của ông ấy ở hai mức độ. Thứ nhất là giúp ông thấy rằng ông đã có thức ăn và chỗ ở và một cộng đồng Cơ đốc biết quan tâm có thể giúp ông có việc làm. Thứ hai là giúp ông tìm đến cội rễ của mọi sự mâu thuẫn ở trong đời sống ông và quay trở về như một người con trai hoang đàng trở về nhà Cha mà từ đó ông đã chạy trốn. Điều nầy tạo một ý thức vui thích đối với ông ta. Đó là một cách mở đầu rất tự nhiên, dẫu cho nó xảy ra vào một giờ khá sớm!
Đôi khi một cách chơi chữ cũng bắt đầu được một cuộc đàm luận tốt. Tôi đã nhắc đến từ ngữ khó hiểu “được cứu” mà người cai ngục thành Phi-líp đã dùng khi ngục thất của ông bị rối loạn trong sự sụp đổ do cơn động đất (Cong Cv 16:30). Phao-lô đã nhân cơ hội ấy sử dụng từ ngữ nầy theo một ý nghĩa sâu xa hơn: “Hãy tin Chúa Jesus, thì ngươi… sẽ được cứu”. Nếu chúng ta lắng nghe một cách nhạy cảm tiếng kêu của trái tim mà nó chịu ở dưới quá nhiều sự phê phán người ta tạo ra cho chúng ta, thì chúng ta sẽ có thể tiếp nhận lấy những lời nầy, từng hồi từng lúc, và sử dụng chúng theo một ý nghĩa sâu nhiệm hơn – và như vậy có lẽ bắt đầu được một cuộc đàm luận có chiều sâu.
Nhưng cách dễ nhất để bắt đầu một cuộc đàm luận về Đấng Christ, biện luận có hiệu quả nhất, là phải đầy dẫy Chúa đến nỗi bạn không thể cản ngăn sự tuôn trào ra. Như những người đang yêu nhau khó giữ riêng cho mình (chỉ chực trào sôi ra), thì cũng vậy, những nhà truyền giáo ban đầu dường như đã toả ra sự vui mừng. Và người ta muốn biết lý do tại sao họ như vậy. Chẳng hạn như tại Tê-sa-lô-ni-ca, chính một sự pha trộn giữa sự vui mừng và sự tin tưởng đã dẫn đến sự đồn rao sứ điệp (ITe1Tx 1:6). Chính niềm vui của Chúa Jesus đã khiến Phao-lô và Si-la hát thánh ca giữa đêm khuya trong một ngục tù bẩn thỉu ở thành Phi-líp khi chân của họ đã bị khoá chặt trong gông cùm. Sự vui mừng nầy trào tuôn một cách không thể tránh khỏi trở thành việc nói về Chúa Jesus vào lúc cơ hội cho phép. Khi người ta thấy rằng chúng ta đã tìm thấy của quí ở trong Đấng Christ và không hổ thẹn để thuật ra, thì những sự thắc mắc xảy ra càng nhiều và nhanh, và chúng ta sẽ bước vào những cuộc đàm luận về Chúa trước khi chúng ta biết điều gì đang xảy ra.
Đàm thoại cá nhân là cách tốt nhất để truyền bá Tin Lành. Nó rất tự nhiên, có thể được thực hiện ở bất kỳ nơi đâu, có thể được thực hiện bởi bất kỳ ai. Nó là một sự chia sẻ kinh nghiệm, khi mà cả hai đều cùng học hỏi, cả hai đều cùng dạy. Không giống như sự giảng dạy, nó trúng vào mục tiêu. Đấng Christ là con đường dẫn đến Đức Chúa Trời và các Cơ đốc nhân ban đầu rao truyền sốt sắng về Ngài và sự phục sinh của Ngài đến nỗi họ có thể bị người A-thên hiểu lầm là đang rao giảng về hai vị thần mới, Thần Chữa Bịnh (“Jesus”) và Thần Phục Sinh (“Anastasis”). Chính sự kiện họ đã có thể bị hiểu lầm như vậy làm cho thấy rõ cái điểm mà họ nhấn mạnh vào. Phải, Đấng Christ hằng sống là con đường dẫn đến Đức Chúa Trời, nhưng có nhiều con đường dẫn đến Đấng Christ: có nhiều cuộc đàm thoại và nhiều người đàm luận. Chính công tác đàm đạo cách tự nhiên về Chúa Jesus nầy mà các Cơ đốc nhân ban đầu đã nhắn nhủ cho chính mình, và trong việc làm như vậy họ đã nêu cho chúng ta một gương mẫu mà chúng ta lại ngần ngại noi theo một cách lạ kì.
Kiến trúc sư của sự thành công của họ
Có thể chúng ta sử dụng tất cả các phương pháp đã được các Cơ đốc nhân ban đầu chấp nhận; chúng ta có thể được un đốt bởi động cơ của họ. Nhưng trừ phi chúng ta có quyền năng của Đức Thánh Linh, bằng không thì chúng ta sẽ chẳng hoàn thành được gì cả. Cả Tân ước đều hiệp lại bày tỏ cho chúng ta biết rằng sự truyền bá Tin Lành là công việc của Thánh Linh Đức Chúa Trời ở bên trong và thông qua chúng ta. Thánh Linh của Đức Chúa Trời là tác nhân tối cao của sự truyền giáo ở trong dân sự của Đức Chúa Trời cho thế giới của Đức Chúa Trời. Tất cả các Cơ đốc nhân ban đầu đều biết chắc điều đó.
Sự hoạt động của Đức Thánh Linh ở trong sự truyền bá Tin Lành
Có một câu Kinh Thánh rất hay ở trong GiGa 15:26, ở đó Chúa Jesus phán một cách hiệu quả rằng: “Thần Lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta”. Tôi có thể hình dung được các môn đồ đang nghĩ rằng “Điều đó thật là tốt!”. Nhưng lời phán kế tiếp của Chúa Jesus đã đánh tan sự ảo tưởng của họ về một thì giờ dễ dàng: “Còn các ngươi cũng sẽ làm chứng về ta”. Đức Thánh Linh và sự làm chứng phải đi chung với nhau.
Câu chuyện trong Mac Mc 13:10 trở đi cũng cho thấy như vậy. Trước lúc tận thế, trước nhất Tin Lành phải được rao truyền ra cho muôn dân. Các môn đồ sẽ can dự vào sứ mạng nầy: nó sẽ không dễ dàng đâu. Nhưng Đức Thánh Linh sẽ hướng dẫn họ điều gì họ phải nói khi họ bị kiện cáo về đức tin của họ và được vời đến để làm chứng. Đức Thánh Linh và sự làm chứng phải đi chung với nhau.
Lu-ca ghi lại một cách chính xác sự nhấn mạnh nầy: “Khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta…” (Cong Cv 1:8).
Chúng ta cũng đã thấy Phao-lô nhắc nhở người Tê-sa-lô-ni-ca về điều nầy rồi. “Tin Lành chúng tôi đã rao truyền cho anh em, không những bằng lời nói thôi, lại cũng bằng quyền phép, Đức Thánh Linh, và sức mạnh của sự tin quyết nữa”. Các nhà truyền giáo đã làm chứng, nhưng Đức Thánh Linh đã ban quyền năng và tạo ra niềm xác tín ở trong người nghe.
Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy ở trong IPhi 1Pr 1:12 cũng có sự nhấn mạnh nầy, vì khuôn mẫu nầy là đồng đều ở trong mọi thành phần chính yếu của sự dạy dỗ của Tân ước. Ông nhắc nhở các độc giả mình nhớ đến những người đã rao giảng Tin Lành cho họ thông qua Đức Thánh Linh đã được ban xuống từ trời. Luôn luôn là như vậy, sự phát động và sức mạnh cho sự truyền giáo là đến từ Chúa, Ngài là Thánh Linh.
Còn theo câu chuyện về Hội Thánh ban đầu được kể lại ở trong sách Công-vụ, tôi thấy một điều rất khiêm nhường. Chính Thánh Linh của Đức Chúa Trời, chớ không phải các sứ đồ, là người phát động sự truyền bá Tin Lành. Chính Thánh Linh của Đức Chúa Trời là người đầu tiên đã thúc giục Phi-e-rơ rao giảng Tin Lành ở tại thành Giê- ru-sa-lem (chương 2). Chính Thánh Linh đã dẫn Ê-tiên phá đổ sự giam hãm chật chội của việc giữ luật pháp và sự thờ phượng trong đền thờ để đến cùng người Hê-lê-nít (Cong Cv 6:3,5,10 7:55). Chính Thánh Linh đã đem những người không thể tiếp xúc được vào trong Hội Thánh, trước tiên là những người Sa-ma-ri, rồi đến hoạn quan Ê-thi-ô-bi (chương 8), rồi đến những người dân ngoại kính sợ Đức Chúa Trời như Cọt-nây (10:19,44) và cuối cùng là những người hoàn toàn là ngoại giáo (14:46 trở đi). Chính Thánh Linh đã hướng dẫn Hội Thánh An-ti-ốt, đương lúc thờ phượng, sai phái Phao-lô và Ba- na-ba ra đi trong cuộc hành trình truyền giáo thứ nhất (13:2) mà từ đó họ đã trở về báo cáo rằng Chúa đã “mở cửa đức tin cho người ngoại” (14:27). Có cần tôi phải kể thêm nữa không?
Các giám mục và các mục sư không thể ban quyền năng cho sự truyền bá Tin Lành. Họ cần có quyền năng ấy cũng như bao nhiêu người khác. Những uỷ ban truyền giảng Tin Lành khác nhau ở trong các Hội Thánh cũng không thể cung cấp sức mạnh ấy, dầu cho sự tổ chức của họ và nguồn tài lực của họ có tốt đến đâu. Chỉ có Thánh Linh của Đức Chúa Trời là có quyền năng để thúc đẩy chúng ta ra đi trong sự phục vụ với lòng yêu thương và tự hi sinh. Chỉ có Ngài mới có thể giữ chúng ta biết khiêm nhường, biết tin cậy và biết vâng phục. Chỉ có Ngài mới có thể làm cho lời nói của chúng ta giúp đỡ những người khác vào sự tươi mới của đời sống.
Vai trò của Đức Thánh Linh trong việc truyền bá Tin Lành
Trong mọi giai đoạn, chúng ta phải tuỳ thuộc vào Đức Thánh Linh trong công tác lưu truyền Tin Lành nầy. Vì chẳng những Đức Thánh Linh thôi thúc chúng ta ra đi truyền bá Tin Lành và dẫn chúng ta vào đúng nơi mà Ngài, như một tướng lãnh tài ba, biết rằng chúng ta sẽ hoạt động có kết quả, nhưng Đức Thánh Linh còn là Đấng làm cảm động lòng người nghe nữa: theo năm cách đặc biệt.
Chính Đức Thánh Linh là Đấng bày tỏ cho người ta biết họ cần được bước vào trong gia đình của Đức Chúa Trời. “Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lỗi” (GiGa 16:8), và Ngài đã làm đúng điều đó. Bạn có thể nói năng hùng hồn như là thiên sứ trưởng Gáp-ri-ên. Bạn có thể rao giảng với quyền năng của Giăng Báp-tít. Nhưng trừ phi Đức Thánh Linh thuyết phục người nghe về sự có cần của họ rằng sứ điệp nầy là áp dụng cho họ, bằng không thì bạn sẽ nói chẳng có kết quả gì cả. Toàn bộ lãnh vực mầu nhiệm của sự cáo trách về tội lỗi nằm ở nơi sự điều khiển tối cao và độc nhất của Đức Thánh Linh.
Điều nầy cũng đúng như vậy khi người ta bắt đầu bị thu hút bởi Chúa Jesus. Chính vai trò của Đức Thánh Linh là làm cho Chúa Jesus trở thành hấp dẫn đối với người ta. “Ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta… ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta… Ngài sẽ lấy điều thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi” (GiGa 15:26 16:14 trở đi). Đức Thánh Linh đã và đang làm việc đó kể từ lúc ấy. Không bao giờ có được một người nam, một người nữ, một em nhi đồng nào đến với một đức tin sống động trong Đấng Christ trừ phi Đức Thánh Linh làm cho Chúa Jesus trở thành thực hữu và lôi cuốn đối với họ. Bạn và tôi không thể làm được điều đó. Chúng ta chỉ có thể cấu tạo thành một bảng hiệu bằng đèn màu, còn Đức Thánh Linh có thể làm cho nó sáng lên.
Khi một người bước cái bước đức tin vào trong Đấng Christ và được xưng nghĩa hoặc được tái sanh, hoặc trở thành một người mới, hay là bất cứ sự hình dung nào về giai đoạn ban đầu của người Cơ đốc mà bạn ưa thích, thì chính Thánh Linh của Đức Chúa Trời một lần nữa là Đấng khởi động. Bạn không thể đem một người từ sự tối tăm đến sự sáng, còn Đức Thánh Linh có thể làm được. Bạn không thể khơi dậy tạo vật mới ở trong bản thể của người đó, nhưng Đức Thánh Linh thì có thể. Bạn không thể làm báp- têm cho người ấy vào trong Đấng Christ; chỉ một mình Đức Thánh Linh có thể làm việc ấy. Do vậy, có bảy trường hợp tham chiếu ở trong Tân ước về những người đã được làm báp-têm bằng Đức Thánh Linh hoặc trong Đức Thánh Linh (Mac Mc 1:8 LuLc 3:16 Mat Mt 3:11 GiGa 1:33 Cong Cv 1:5 11:16; ICo1Cr 12:13). Điều nầy giải thích tại sao ông Phao-lô khăng khăng cho rằng không ai có thể có sự xưng nhận Cơ đốc căn bản: “Jesus là Chúa” trừ phi Đức Thánh Linh khiến người ấy nói (ICo1Cr 12:3). Đây là lý do tại sao toàn bộ công việc tái sanh được gán cho Ngài (GiGa 3:5). Thực ra, nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ thì người ấy chẳng phải là một người Cơ đốc (RoRm 8:9). Vì chỉ một mình Đức Thánh Linh mới có thể làm cho người ta trở thành người Cơ đốc.
Có một lãnh vực thứ tư ở trong các giai đoạn đầu của người Cơ đốc mà ở đó Đức Thánh Linh có xu hướng chia sẻ sự vinh hiển Ngài với một người khác. Điều đó ở trong toàn bộ vấn đề của việc đóng ấn cho chúng ta trong Đấng Christ (Eph Ep 1:13 4:30), và bảo đảm cho chúng ta Đấng chúng ta thuộc về. Điều mầu nhiệm ở trong phép lạ bí ẩn của sự tái sanh đó là sự làm chứng nhẹ nhàng của Đức Thánh Linh cho tâm linh chúng ta rằng chúng ta thực sự là con cái của Đức Chúa Trời, và nếu là con cái thì cũng là kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Đấng Christ. Chính Đức Thánh Linh thì thầm trong lòng chúng ta Đấng mà chúng ta thuộc về, và Ngài khiến chúng ta dùng lời đầu tiên của một trẻ thơ Do-thái phải học để nói khi nó nhìn vào mặt cha mình “A-ba”, “Cha ơi” (RoRm 8:15 trở đi).
Chúng ta có thể đi xa hơn nữa. Sự trang bị hoàn toàn cho Cơ đốc nhân để phục vụ là lãnh vực của Đức Thánh Linh. Chính Ngài phân phát các ân tứ thuộc linh theo như Ngài nghĩ là thích hợp cho các chi thể khác nhau trong thân của Đấng Christ (ICo1Cr 12:7 trở đi). Chính Ngài làm cho bông trái đáng yêu của tâm tính, mà Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy, mọc lên trong miền đất cằn cỗi của đời sống chúng ta (GaGl 5:22 trở đi). Chính Ngài biến đổi chúng ta từ vinh hiển qua vinh hiển cho tới khi chúng ta bắt đầu phản chiếu vẻ đẹp của Chúa Jesus. Đây là công việc hoàn toàn của Đức Thánh Linh ở trong chúng ta (IICo 2Cr 3:18).
Vì vậy, bất cứ khi nào chúng ta hướng vào vấn đề truyền bá Tin Lành thì chúng ta không thể tránh khỏi sự tuỳ thuộc hoàn toàn của chúng ta nơi công tác, quyền năng và sự làm chứng của Đức Thánh Linh. Ngài tể trị. Không có Ngài chúng ta không thể làm được gì hữu hiệu cả.
Quyền năng của Đức Thánh Linh trong sự truyền bá Tin Lành
Chúng ta cần Đức Thánh Linh biết bao ở trong sinh hoạt Hội Thánh của chúng ta! Nếu Kinh Thánh Tân ước là đúng trong việc kết hợp Đức Thánh Linh với sự làm chứng, và điều nầy soi sáng rất nhiều về sự kém thiếu kinh nghiệm thuộc linh ở trong nhiều Hội Thánh và trong nhiều Cơ đốc nhân, thì nó có gây cho bạn sửng sốt không? Có thể chúng ta biết quá ít về Đức Thánh Linh theo một cách mạnh mẽ bởi vì chúng ta quan tâm quá ít đến sự truyền bá Tin Lành không? Cũng vậy, phải chăng chúng ta biết quá ít về sự truyền bá Tin Lành theo một cách đầy quyền năng bởi vì chúng ta biết quá ít về Đức Thánh Linh? Đức Chúa Trời đã nối kết hai điều nầy lại với nhau và chúng ta không thể đặt hai điều nầy tách biệt ra. Không có sự truyền bá Tin Lành thì không có Đức Thánh Linh; không có Đức Thánh Linh thì không có sự truyền bá Tin Lành. Có một sự liên kết sống động giữa hai điều nầy; và điều đó giải thích nhiều cho sự thiếu quyền năng ở trong Hội Thánh thời nay. Các Cơ đốc nhân ban đầu nhận biết rõ rằng Đức Thánh Linh và sự truyền bá Tin Lành đi chung với nhau như hình với bóng và có ảnh hưởng đối với nhau một cách mật thiết. Khi Đức Thánh Linh được đón rước một cách tự do giữa vòng họ thì kết quả thật là lớn lao. Trong Cong Cv 4:31, chúng ta đọc thấy một sự đầy dẫy Đức Thánh Linh một cách mới mẻ của các môn đồ sau một thời gian cầu nguyện khẩn thiết. Trong câu 33 chúng ta đọc thấy “quyền phép rất lớn” mà nó gắn chặt vào sự làm chứng cho Chúa Jesus của họ. Cũng trong câu đó chúng ta thấy rằng “phước lớn” đã đổ xuống trên họ – Điều đó không phải là luôn luôn xảy ra trong trường hợp có những diễn giả quyền năng. Cong Cv 5:5 nói đến sự “sợ hãi quá đỗi” giáng xuống trên người ta – Sự thuyết phục sâu xa chỉ do một mình Đức Thánh Linh đem lại mà thôi. Cong Cv 6:8 cho chúng ta thấy “dấu kỳ phép lạ rất lớn” do Ê-tiên thực hiện, ông là một người đầy dẫy Đức Thánh Linh. Còn Cong Cv 8:1 bày tỏ rằng tất cả những việc nầy tạo ra “cơn bắt bớ dữ tợn”: điều đó thường xảy ra. Nhưng khúc Kinh Thánh 8:8 kết luận rằng dầu vậy đã có “sự vui mừng khôn xiết”. Đó là một số những việc kỳ diệu đã xảy ra ở trong Hội Thánh ban đầu khi Đức Thánh Linh tự do hoạt động ở giữa họ. Há chúng ta không cần quyền năng đó sao? Phải, quyền năng đó được ban cho phu phỉ, nhưng chúng ta sẽ phải trả giá. Cái giá được kể ra trong năm sự thông báo về Đức Thánh Linh và phản ứng của chúng ta đối với Ngài mà chúng có rải rác ở trong các trang Kinh Thánh Tân ước.
Đừng chống cự Đức Thánh Linh
Đó là lời Ê-tiên nài nỉ những nhà lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên (Cong Cv 7:51). Nhưng lời đó đã lọt vào những lỗ tai bị điếc. Những người nầy đang chống trả sự tiến bước mới mà Đức Thánh Linh đang làm ra trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên, và đây là một hiểm hoạ luôn hiện diện đối với những người làm công tác lãnh đạo Cơ đốc. Chúng ta thấy khó mà suy nghĩ rằng Đức Thánh Linh có thể (hoặc phải) làm một điều gì đó lần đầu tiên. Chúng ta bám chặt một cách thèm khát vào những gì mình đã làm trong năm qua. Nếu ban lãnh đạo của bất kỳ một Hội Thánh hay một phong trào Cơ đốc nào bị buộc chặt bởi quá khứ thì họ đừng ngạc nhiên khi thấy rượu mới làm nứt bầu da cũ và chảy sang chỗ khác. Có một sự đều đều bất thích hợp mà với nó Hội Thánh suốt cả dòng lịch sử đã chống trả các phong trào cải cách do Đức Thánh Linh phát động hoặc đã phản ứng quá đáng đối với những sai lầm của họ. Rõ ràng Giáo hội Công giáo đã đúng để khước từ những sự thái quá về ân tứ của phong trào Montanist vào cuối thế kỷ thứ hai: người ta không thể chấp nhận việc đi lung tung xưng mình là Đức Thánh Linh! Nhưng đáng buồn biết bao là Phái Montanist đã bị chà đạp vào trong sự lãng quên. Họ đã có một sự cởi mở đối với Đức Thánh Linh, một sự tự do, một sự nhạy cảm đối với Đức Chúa Trời mà thật là cần thiết ở trong những thế kỷ sau đó – nhưng phong trào đó đã bị đàn áp cùng với những người quá khích. Trong thời của Wesley cũng vậy, sự nhiệt thành của ông dường như là một điều kinh khủng cho vị Giám mục ở Luân-đôn. Rất khó để giữ ông trong một giáo hội hâm hẩm, và ông đã bị đuổi ra. Trong thời của chúng ta, Giáo hội Giám lý Liên hiệp Hoa Kỳ không thông công với Hội Thánh chị em của họ là hội Wesley (cùng trong phong trào ân tứ) trong khi sự hiện diện của sự đe doạ về ân tứ đối với thủ tục được chấp nhận ở trong Hội Thánh đã khiến cho nhiều hội chúng cấm đoán phong trào nầy tức thì. Điều nầy cũng đúng đối với nhiều phong trào thuộc linh không xưng là thuộc về “ân tứ”. Trong tất cả các khía cạnh nầy, chúng ta đều có nguy cơ đi theo những người đã ném đá Ê-tiên vì sự canh tân nguy hiểm của ông và vì sự noi theo Đức Thánh Linh của ông, Đấng mà ông có thể phân biệt còn họ thì không phân biệt được. Nếu các Hội Thánh và những tổ chức bên cạnh Hội Thánh không nghênh tiếp sự sống mới mà đã được biểu lộ ra rất nhiều ở trong tất cả các hệ phái và các nhóm Cơ đốc hiện có – thì một cuộc ly giáo khác có thể xảy ra. Nếu các mục sư kềm hãm quá chặc và quá lâu trên những sự phô diễn tự do của sự sống thuộc linh trong hội chúng của họ, thì phong trào của các tín hữu có thể vượt qua những pháo đài kháng cự của hàng giáo phẩm. Đừng nên chống trả Đức Thánh Linh.
Chớ dập tắt Đức Thánh Linh
Mạng lịnh nầy được truyền cho người Tê-sa-lô-ni-ca ở trong một mạch văn mà Phao- lô đang bàn về ơn nói tiên tri. Ông thúc giục họ đừng dập tắt Đức Thánh Linh bằng việc khinh dể những sự bày tỏ tiên tri như vậy. Có nhiều Hội Thánh và hội chúng sợ bị mất trí nếu có người nói một lời tiên tri trong buổi nhóm. Đồng ý rằng một việc như vậy phải không được để cho làm rối loạn sự thờ phượng. Tuy nhiên, các tiên tri đã chỉ được xem là hơi kém cao trọng hơn các sứ đồ một chút mà thôi ở trong thế kỷ đầu tiên, bởi vì qua họ Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính mình Ngài một cách trực tiếp cho hội chúng trong sự khích lệ và trong sự hướng dẫn. Chắc chắn rằng lời nói tiên tri phải được xem xét kỹ lưỡng. Phao-lô đã nhận thấy rõ sự sử dụng sai lầm mà nó có thể đem lại. Nhưng ông không nghĩ rằng sự lạm dụng đó buộc phải loại bỏ cách sử dụng đúng đắn. Trong ICo1Cr 14:1-40 ông đã đề cập ra một số sự hướng dẫn khôn ngoan để điều hành và thử nghiệm việc nói tiên tri. Chỉ nên có hai hoặc ba người nói tiên tri trong một buổi nhóm mà thôi. Một sự nói tiên tri càng dài thì càng ít có vẻ là nó xuất phát từ nơi Đức Chúa Trời. Mọi việc phải được thực hiện có trật tự và tôn kính Đức Chúa Trời. Và có lẽ quan trọng hơn hết là: “còn những kẻ khác thì suy xét” (ICo1Cr 14:29). Khi Đức Chúa Trời thực sự phán qua một lời nói tiên tri thì toàn thể hội chúng đều cảm nhận được sự đúng đắn và tính chính danh của nó.
Nhưng khi mọi người được nói, tôi cảm thấy có một sự ngần ngại ở trong nhiều thành phần của Hội Thánh Cơ đốc (và đây không phải là những thành phần đặc trưng nhất bằng đời sống năng động của họ) để chấp nhận cái khả năng rằng Đức Chúa Trời có thể dùng những ân tứ Thánh Linh như những điều đã được kể ra trong ICo1Cr 12:8-10 hay là trong RoRm 12:6 trở đi. Ơn cứu giúp, ơn quản trị thì tốt nhưng đừng có sự chữa bịnh, sự nói tiếng lạ, sự nói tiên tri hay là sự đuổi quỉ. Điều quan trọng đó là nhận thức rằng Đức Chúa Trời ban cho chúng ta không chỉ những ơn ban về tâm tính, như chúng ta đọc thấy trong GaGl 5:22 trở đi, nhưng còn ban cho những ân tứ đầy quyền năng nữa mà chúng ta đã khước từ chỉ vì chúng ta làm thiệt hại cho mình. Phao-lô, người đã viết Ga-la-ti chương 5 cũng là người đã viết ICo1Cr 12:1-31. Hạnh phúc thay cho Hội Thánh nào biết trông mong cả ân điển cùng ân tứ từ nơi Đức Thánh Linh và biết tiếp nhận cả hai y như nhau.
Đừng làm buồn Đức Thánh Linh
Đó là mạng lịnh Phao-lô truyền cho người Ê-phê-sô (Eph Ep 4:30) ở trong một mạch văn cho thấy rằng ông đang nghĩ đến những tội đặc biệt ở trong Hội Thánh của họ và trong những đời sống cá nhân đang làm tổn thương Đức Thánh Linh. Vì Đức Thánh Linh giống như một người yêu, dễ dàng bị tổn thương, nếu như ở tại Ê-phê-sô, có những mối liên hệ xấu giữa vợ chồng, những cách ăn ở hung ác và cay đắng, những ngón tay quen trộm cắp, thiếu lòng nhân từ, những lời nói tục tĩu. Bằng cách như vậy chúng ta dễ dàng làm buồn lòng Đức Thánh Linh và cướp mất đi khỏi chúng ta sự hành động khoan nhân và đầy quyền năng của Ngài thông qua đời sống chúng ta.
Chúng ta dễ dàng làm thương tổn Đức Thánh Linh biết bao bằng cách đoán xét các Cơ đốc nhân khác. Hãy lấy một ví dụ cụ thể. Một trong những đặc điểm nhỏ ở trong sự thờ phượng giữa vòng những người thích được gọi là “có ân tứ” đó là thói quen đưa tay cao lên trong lúc thờ phượng. Đôi khi tôi đã có làm như vậy. Dường như đó là một cử chỉ phóng khoáng rất cổ xưa thường được dùng không chỉ ở trong Tân ước (ITi1Tm 2:8) nhưng cũng ở trong Hội Thánh về sau nữa. Tự nó thì không có gì là quan trọng. Nhưng có một số Cơ đốc nhân bám chặt một cách cuồng nhiệt vào điều đó mặc dù một số những người khác cảm thấy khó chịu. Còn những Cơ đốc nhân khác thì thấy căng thẳng về điều đó. Họ nói: “Ồ, chủ nghĩa đa cảm đấy thôi!” Phải, hầu hết chúng ta đều đã đi một chặng đường thật xa trước khi chúng ta bày tỏ bất kỳ sự cảm xúc nào ở trong tôn giáo của chúng ta, hãy để mặc sự biện hộ lỗi cho sự cáo buộc về việc đang diễn trò cảm xúc! Nhưng mỗi khi có một sự bất đồng ý kiến về những việc như vậy, chúng ta phải noi theo những sự chỉ dẫn của Rô-ma chương 14. Ở đó chúng ta đọc thấy rằng một số người có thể cứ ăn thịt dẫu cho thịt đó đã được cúng cho thần tượng; một số người khác bén nhạy với việc giữ sạch mọi dấu vết của sự thờ hình tượng đến nỗi họ theo đòi việc ăn chay (cữ ăn thịt). Một số người giữ một ngày đặc biệt cho Chúa một cách tỉ mỉ, trong khi đó một số người khác tin chắc nơi sự tự do ở trong Chúa, xem mọi ngày đều như nhau. Những Cơ đốc nhân khác biệt nhau về những vấn đề nầy không chỉ trích hoặc chống báng nhau. “Ngươi là ai mà dám đoán xét tôi tớ của kẻ khác? – Nó đứng hay ngã ấy là việc của chủ nó, song nó sẽ đứng, vì Chúa có quyền cho nó đứng vững vàng”, và Phao-lô kết luận phần bàn thảo nầy bằng việc nêu ra rằng mỗi người sẽ phải khai trình về chính mình (chớ không phải về đồng bạn mình) cho Đức Chúa Trời (RoRm 14:1-12). Chính khi chúng ta bắt đầu đoán xét kẻ khác, chỉ trích người khác, lập một giá trị tối hậu cho những sự lựa chọn tương đối của chúng ta, thì Đức Thánh Linh của sự yêu thương và của sự hiệp một bị tổn thương. Đừng làm cho Ngài buồn lòng.
Đừng sợ hãi Đức Thánh Linh
Đôi khi tôi khám phá ra sự sợ hãi nằm ở bên dưới sự chỉ trích của người ta về sự nhấn mạnh hiện hành về Đức Thánh Linh. Tôi cảm nhận sự sợ hãi ở trong lòng của một số tín hữu trong Hội Thánh, họ không biết chắc những gì họ đang dự vào. Nếu họ phục tùng Đức Thánh Linh và để cho Ngài đánh giá không giới hạn mọi phương diện của đời sống họ – đời sống tình cảm, đời sống công ăn việc làm, đời sống gia đình, đời sống tình dục – mọi phương diện. Tôi cảm nhận sự sợ hãi ở trong lòng của một số mục sư, họ dường như sợ rằng nếu Đức Thánh Linh được tự do hành động trong hội chúng của họ, thì những sự hỗn loạn sẽ nổ ra: đủ mọi loại người điên loạn sẽ diễn hành những tật riêng của họ nhân danh Chúa, và sẽ không còn điều khiển được nữa. Tóm lại, làm thế nào mình bịt miệng được một người mà họ nghĩ rằng họ là cái miệng của Đức Chúa Trời? Và do đó họ quyết định rằng không thể dung nhượng một điều gì mang tính ân tứ ở trong Hội Thánh của họ cả – Không, cảm ơn bạn – xin đừng có điều đó ở đây!
Tôi hoàn toàn đồng cảm với cả hai sự cảm xúc nầy. Chính tôi đã từng có những cảm giác đó. Nhưng giờ đây tôi không chắc rằng chúng có giá trị. Tôi nhớ lại rằng trong Cựu ước Thánh Linh của Đức Chúa Trời là một sức mạnh xâm lăng, tức là gió của Đức Chúa Trời, được gợi nhớ lại trong sức mạnh tỏ tường của trận gió nóng Sirocco, tức là trận gió mạnh thổi xuống lòng sông và làm tơi tả những lùm cây ở trên đường nó thổi qua. Tôi nhớ lại trong Tân ước, Đức Thánh Linh giống như nước ngập tràn những vùng đất khô, hay là như lửa thiêu đốt cho tới khi nó đã huỷ phá lớp màng nhơ bẩn và tinh luyện chất kim khí. Tôi nghĩ đến: “gió muốn thổi đi đâu thì thổi… người nào sanh bởi Đức Thánh Linh cũng như vậy” (GiGa 3:8). Tôi đã ngờ vực rằng Thánh Linh của Chúa Jesus phải được tin cậy hơn là bị kiểm soát. Đó là một điều khó và liều lĩnh để mà làm. Nói chung, Hội Công giáo đã không tin cậy Ngài: hệ thống phẩm trật Công giáo đã có khuynh hướng cố giam hãm Đức Thánh Linh vào những phép bí tích được xếp đặt hợp lẽ, còn các mục sư dành toàn quyền kiểm soát trên các Hội Thánh của họ. Nói chung, Phái Tin Lành đã không tin cậy Ngài: các nhà thần học Tin Lành cố nhốt Ngài vào một Cuốn Sách mà qua sự giải nghĩa sách đó họ tạo ra một ảnh hưởng cầm quyền. Nhìn chung, Phái Ngũ Tuần cũng không tin cậy Ngài: quyền kiểm soát từ các trung tâm đầu não của hệ phái rất mạnh mẽ và đòi hỏi sự đồng hoá với những tập quán văn hoá.
Nhưng Đức Thánh Linh chế nhạo những nỗ lực do con người tạo ra của chúng ta nhằm kiểm soát Ngài. Ngài là Đức Chúa Trời tể trị ở giữa chúng ta và Ngài sẽ không bị giam hãm. Đừng lo việc bạn không thể kiểm soát Ngài như vậy hoặc ở trong đời sống mình, hoặc ở trong hội chúng của mình. Tại sao bạn muốn làm điều đó? Ngài há không khôn ngoan hơn chúng ta ư? Ngài không biết điều gì Ngài đang làm sao? Hãy nhớ rằng Đức Thánh Linh là Thánh Linh của Chúa Jesus, Đấng hiền lành và yêu thương, Ngài muốn mọi điều tốt lành nhất cho đời sống chúng ta. Hãy nhớ rằng Ngài đến từ một Cha, Đấng chỉ ban những sự ban cho tốt lành cho con cái Ngài và sẽ không ban đá thay cho bánh hay là ban bò cạp thay vì cá. Chúa là Thánh Linh, Ngài muốn biến đổi chúng ta với tư cách là những cá nhân và như là một Hội Thánh trở thành ảnh tượng của Chúa Jesus, và Ngài sẽ chỉ mạnh tay đối với chúng ta nếu chúng ta quyết liệt kháng cự.
Nhưng há không phải tất cả những điều nầy tạo sự buông lỏng cho sự biểu hiện cuồng điên sao? Chẳng phải đâu, nó đem lại một sự lãnh đạo khôn ngoan ở trong Hội Thánh. Những người xưng rằng có ân tứ Thánh Linh phải để cho mình được thử nghiệm (xem trang 205). Ngoài ra, họ phải nương vào những người xưng mình có đời sống thánh khiết, sự khiêm nhường và sự yêu thương nếu họ muốn được nghe ở trong một Hội Thánh mà Hội Thánh đó không được thuyết phục rằng Đức Thánh Linh phán bảo thông qua họ. Ngược lại, những người nghi ngờ về những lòng nhiệt thành mới, khuôn mẫu thờ phượng mới, và những lời đòi hỏi vô lý một cách rõ ràng được tấn tới trong danh của Đức Thánh Linh cũng phải cởi mở bằng mọi giá. Đó là công việc của Đức Thánh Linh để hiệp một thân thể của Đấng Christ chớ không phải để chia rẽ thân thể đó. Ngài có thể và sẽ lôi kéo cả hai sự nhấn mạnh đến gần nhau, bao lâu mà chúng ta làm trọn trách nhiệm của mình để “giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh trong dây hoà bình”. Và điều đó có nghĩa là phải cởi mở cả đối với Đức Thánh Linh và với người có sự nhấn mạnh khác mình, cũng có thể chúng ta học hỏi được một điều gì đó từ nơi họ nữa!
Đừng khinh lờn Đức Thánh Linh
Ngài có thể ban cho quyền năng mà chúng ta cần, chỉ một mình Ngài mà thôi.
Quyền năng để làm chứng cho Chúa Jesus. Điều ấy há không cần sao? Không phải nhiều Cơ đốc nhân đã bị líu lưỡi khi nghĩ đến việc nói cho người khác về Chúa của họ trong khi những người khác thấy nó là bản năng đó sao? Sự khác nhau là nằm ở nơi Đức Thánh Linh và Ngài có được chúng ta xin Ngài tiếp quản hay là không.
Quyền năng để xua đuổi sự sợ hãi. Điều đó há không cần sao? Há không phải nhiều Cơ đốc nhân không những không nói về Chúa Jesus mà còn run rẩy trước sự sợ hãi và sự cấm đoán về việc đi ra phục vụ Tin Lành đó sao? Tình thương yêu trọn vẹn mà Đức Thánh Linh ban cho sẽ xua đuổi sự sợ hãi. Thực ra, tình yêu thương là sức mạnh duy nhất trên thế gian nầy mạnh hơn sự sợ hãi; tình yêu thương là bông trái hàng đầu và tinh tuyển nhất của Đức Thánh Linh. Tôi không nghi ngờ gì rằng Phi-e-rơ đã khiếp sợ khi ông thấy mình, trong những ngày đầu của Hội Thánh, bị lôi kéo ra trước một buổi họp đông đảo của Toà Công Luận Do-thái, với tất cả những người tay sai của gia đình thầy tế lễ cả cùng họp lại với họ, để binh vực sự rao giảng và sự chữa bịnh của mình nhân danh người mà họ đã căm ghét và đóng đinh. Một hoàn cảnh thật là đe doạ. Nhưng chúng ta đọc thấy “Phi-e-rơ, đầy dẫy Đức Thánh Linh, nói rằng:…” (Cong Cv 4:8). Tình yêu thương và quyền năng của Đức Thánh Linh xua đuổi sự sợ hãi tự nhiên của ông. Và nếu bạn xin Đức Thánh Linh đầy dẫy mình thì Ngài cũng sẽ làm như vậy cho bạn.
Quyền năng biến đổi tâm tính. Điều ấy há không cần sao? Quyền năng ấy sẽ đến từ đâu trừ phi bởi sự vận hành của Chúa là Đấng sống ở bên trong, là Đức Thánh Linh? Sự khó khăn là dầu chúng ta không thể tạo ra những bông hoa tâm tính mà Ngài đang làm cho lớn lên, nhưng chúng ta có thể chận đứng công việc của Ngài bằng việc vun bón gai góc. Còn nếu Ngài được giao cho toàn quyền kiểm soát thì Đức Thánh Linh có thể làm rộ nở những bông hoa đó cho tâm tính chúng ta mà nó có một sức thu hút cụ thể không thể cưỡng lại được, và nó tạo một sự hiện thực cho những lời nói của chúng ta về Chúa của mình.
Quyền năng cho sinh hoạt của Hội Thánh. Điều đó há không cần sao? Nhiều Hội Thánh bị chia rẽ về sự nhấn mạnh thần học, về sự quan tâm hay không quan tâm đến xã hội, bởi sự tôn thờ một cá nhân, bởi sự ghen tị, bởi những sự cãi cọ chưa được chôn vùi giữa các tín hữu trong Hội Thánh, bởi những sự xét đoán chỉ trích gay gắt người khác. Ai có thể ban cho tình yêu thương? Ai có thể khôi phục lại sự hiệp một? Chỉ Đức Thánh Linh mà thôi, nếu như Ngài được để cho quét vào tình cảnh ấy bằng quyền năng thanh tẩy. Chỉ khi chúng ta đến cùng với những sự dị biệt của chúng ta và đặt chúng trước mặt Chúa trong sự ăn năn và kêu xin Thánh Linh Ngài ràng rịt chúng ta lại trong tình yêu thương – chỉ khi ấy Hội Thánh mới có thể nhận được quyền năng để sống chiếu soi ra Tin Lành của mình.
Quyền năng để thương yêu kẻ bị hư mất. Chúng ta không cần quyền năng đó sao? Há không phải có một lớp sương mù của sự lãnh đạm đang làm băng giá tấm lòng của nhiều người trong vòng chúng ta đó sao? Chúng ta có thực sự quan tâm đến người khác đủ để dâng mình ra đi để mà đem họ đến cùng Đấng Christ với sự cầu nguyện, sự thân thiện, sự hi sinh thì giờ và sự khó khăn sẽ liên can đến hay không? Không có, chúng ta không quan tâm đủ. Tôi không quan tâm và bạn cũng không quan tâm. Vậy thì lấy gì để cứu chữa? Sự cứu chữa ấy không nằm ở nơi chúng ta nhưng ở nơi Đức Thánh Linh. Ngài ban cho quyền năng. Ngài ban cho tình yêu thương. Khi tôi đến cùng Ngài và xưng nhận sự thờ ơ và sự lạnh nhạt của lòng tôi, thì chính công tác tể trị của Ngài sẽ nhen nhúm và duy trì ngọn lửa của sự tự hi sinh bác ái ở trong lòng tôi cho tới khi tôi bắt đầu cảm thấy, nhận thức lại điều gì sẽ xảy ra khi không có Đấng Christ và không có niềm hi vọng ở trong trần gian. Rồi thì, và chỉ cho đến lúc ấy, tôi mới bị khuấy động ra khỏi sự thờ ơ để bước vào sự phục vụ.
Phải, chúng ta cần có quyền năng của Đức Thánh Linh mà không cần điều gì khác. Tôi tự hỏi bạn sẽ làm gì về điều đó. Bởi vì Đức Chúa Trời không phải là Đấng ban cho một cách keo kiệt. Ngài thích ban cho những kẻ nào tìm kiếm Ngài. Không thể quan niệm rằng bạn cầu xin một sự từng trải sâu nhiệm hơn và đầy đủ hơn về Thánh Linh Ngài mà Ngài sẽ nói với bạn là không được. Há không phải Ngài là Cha Thiên Thượng đã truyền bảo bạn phải cầu xin sao? Bạn không cần phải thêm vào sự không có đức tin. “Việc sẽ xảy ra theo như điều ngươi muốn”, bởi vì Kinh Thánh đã bày tỏ rõ ràng rằng ý muốn Ngài đối với chúng ta đó là chúng ta phải được đầy dẫy Thánh Linh Ngài. Thực ra, điều đó nổi bật trong Kinh Thánh như là một mạng lịnh rõ ràng, bất biến: “phải đầy dẫy Đức Thánh Linh” (Eph Ep 5:18). Coi thường mạng lịnh ấy là khinh lờn và không vâng lời Đức Chúa Trời là Đấng đã ban hành mạng lịnh ấy.
Nói tóm lại, có hai câu Kinh Thánh Tân ước mà tôi tin rằng có một thách thức đặc biệt cho chúng ta ở cuối một bài nghiên cứu như vầy. Đó là Cong Cv 5:32 và LuLc 11:13. Câu Kinh Thánh đầu nói rằng Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh Ngài cho kẻ vâng lời Ngài. Câu Kinh Thánh thứ hai nói rằng “vậy nếu các ngươi là người xấu, còn biết cho con cái mình vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban Đức Thánh Linh cho người xin Ngài sao?” – Vâng lời… và cầu xin. Đó là những điều kiện để tiếp tục được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Kinh Thánh Tân ước bày tỏ rõ rằng dầu phép báp- têm bằng Thánh Linh là duy nhất và không thể lặp lại, nhưng việc đầy dẫy Đức Thánh Linh thường được lập đi lập lại, và trong thực tế nó là “mạng lịnh nổi bật” của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Khi chúng ta nhận lãnh từ nơi Ngài và ban phát ra trong sự phục vụ người khác, thì như vậy chúng ta cần được đầy dẫy, được đầy dẫy và được đầy dẫy trở lại. Nhưng Đức Chúa Trời không thể đầy dẫy một đời sống ô uế và sử dụng nó để phục vụ Ngài, cũng như bạn không thể đổ đầy một cái tách bẩn để dùng làm đã cơn khát. Cái tách ấy phải được đổ đi và được rửa sạch: chỉ khi ấy mới có thể đổ đầy nó và sử dụng nó. Điều ấy cũng xảy ra như vậy cho chúng ta. Mọi rác rưới và sự bẩn thỉu đã chất chứa trong đời sống chúng ta. Chúng ta cần phải xin Đức Thánh Linh rửa sạch chúng ta khỏi cả những tội lỗi kín giấu của chúng ta nữa – để cho dù chúng ta không trở thành những khí cụ đặc biệt trong sự phục vụ Ngài thì ít nhất chúng ta cũng có thể được sạch. Tóm lại, chúng ta phải sẵn sàng vâng lời, hãy để cho Đức Chúa Trời làm Đức Chúa Trời ở trong đời sống chúng ta, phải giải quyết bất cứ điều chi chúng ta biết là sai trái cho dù phải trả giá nào. Tôi hiểu rằng điều ác có thể trở thành đã ăn sâu thông qua thói quen lâu dài. Nhưng bạn phải ra đi nếu bạn được đầy dẫy Thánh Linh Ngài và nếu bạn có thể được trang bị bởi Đức Thánh Linh ấy để chia sẻ Tin Lành cho người khác. Đức Chúa Trời ban Thánh Linh Ngài cho những người quyết định vâng lời Ngài. Họ có thể vấp ngã, họ sẽ vấp ngã. Nhưng mục đích và toàn bộ hướng đi của họ là làm đẹp lòng Ngài trong mọi sự. Khi chúng ta sẵn sàng bước đến chỗ khiêm nhường của sự nhận biết từng chi tiết thực tiễn quyền chủ trị của Đấng Christ trên đời sống chúng ta, thì Ngài sẽ tuôn đổ Thánh Linh Ngài xuống trên chúng ta. Chúng ta đã biết sự tái sanh của Đức Thánh Linh; rồi chúng ta sẽ khám phá “sự đổi mới ở trong Đức Thánh Linh” mà Ngài sẽ tuôn đổ ra trên chúng ta một cách dư dật qua Chúa Jesus Christ là Cứu Chúa chúng ta (Tit Tt 3:5-6).
Nhưng chúng ta phải cầu xin. Kẻ nào không xin thì chẳng nhận được: điều rõ ràng đó là họ thực sự không muốn. Chúng ta cần phải cầu xin, cầu xin một cách khẩn thiết. Chúng ta cần tiếp tục xin, tiếp tục tìm, tiếp tục gõ cửa, như Thầy chúng ta đã dạy chúng ta trong bài Giảng Trên Núi. Nhiều người trong chúng ta không muốn đủ để lửa đổi mới của Đức Thánh Linh quét trên chúng ta – ít ra là không đủ để tiếp tục xin, tiếp tục tìm, và tiếp tục gõ cửa. Có Thánh Linh đầy dẫy chúng ta là điều rất tốt nhưng không phải là điều ưu tiên số một. Tại sao vậy, chúng ta có nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ đầy dẫy chúng ta sự ban cho số một của Ngài trừ khi chúng ta sẵn sàng làm cho lời cầu xin đó trở thành ưu tiên số một của chúng ta hay không? Ngài không ban cho ân tứ của Ngài để bị lãng phí đâu. Chúng ta cần phải xin, một cách khao khát.
Chúng ta không cần làm bất cứ điều chi khác. Rất có ích để chia sẻ với một bạn hữu trong sự thú nhận sâu xa và sự cầu nguyện khẩn thiết. Rất có ích để nhờ người ấy, hoặc một nhóm người, đặt tay trên bạn và cầu nguyện để bạn nếm biết sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Nhưng không có pháp thuật trong các bàn tay ấy đâu. Có thể bạn sẽ đặc biệt ưa thích ân tứ nói tiếng lạ (hoặc đặc biệt không muốn nhận được nó!). Hãy để vấn đề đó cho Đức Thánh Linh. Ngài biết cách phân phát các ân tứ của Ngài nơi đâu chúng cần. Ngài phân phát cho mỗi Cơ đốc nhân tuỳ ý Ngài muốn. Nhưng một khi chúng ta đặt mình vào trong tay Ngài một cách không tiếc nuối và xin Ngài tiếp nhận chúng ta, đầy dẫy chúng ta và sử dụng chúng ta trong sự phục vụ vinh diệu của Ngài – thì Ngài sẽ làm điều ấy. Không có lời cầu nguyện nào mà Ngài thích đáp lời hơn là lời cầu xin nầy. Nếu bạn cảm thấy “Tôi đã hiến dâng, đã cầu xin – nhưng chẳng có điều gì xảy ra cả”, thì tôi cho rằng có thể bạn đã đang tìm kiếm một điều sai lầm. Đức Thánh Linh không đem lại cho bạn cảm xúc, nhưng là làm cho bạn trở nên giống như Đấng Christ và đầy dẫy bạn bằng tình yêu và quyền năng của Ngài để làm chứng. Tôi đề nghị bạn hãy để cho những người khác quyết định có hay không có điều gì xảy ra, trong khi chờ đợi, bạn hãy tạ ơn Cha Thiên Thượng về sự ban cho tốt lành của Thánh Linh Ngài mà Ngài đã tuôn đổ trên bạn một cách dư dật qua Chúa Jesus Christ, Cứu Chúa của bạn. Hãy cứ cảm tạ Ngài… tin cậy Ngài… làm vui lòng Ngài… và làm chứng cho Ngài khi cơ hội xảy đến cho bạn. Bằng cách đó, bạn sẽ thấy mình ở giữa vòng những người, trong thế hệ của họ, góp phần làm đảo lộn thế giới nầy. Bạn sẽ phải bắt đầu đặt những điều ở hàng đầu lên hàng đầu.
Một lời cầu nguyện:
Xin linh Giê-hô-va muôn thuở, đến ngự tâm đây, Xin linh Giê-hô-va hằng sống, mau đến tâm nầy. Tan tôi! Xoay tôi! Nung tôi! Trau tôi! Xin linh Giê-hô-va mau đến, đầy dẫy tâm nầy.
Cơ đốc nhân là những người làm công việc Tin Lành. Không có sự ưu tiên nào cho các Hội Thánh hơn là vâng theo mạng lịnh cuối cùng của Chúa Jesus Christ: “Hãy đi, khiến muôn dân trở nên môn đồ ta.”
Một cuốn sách gởi suy nghĩ cho những người muốn khám phá, áp dụng những nguyên tắc, động cơ và các phương pháp của những nhà truyền giáo Cơ đốc ban đầu cho khung cảnh đương thời.